Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi MẸ maria sứ giả CỦa tình yêu thiên chúA



tải về 0.94 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích0.94 Mb.
#35322
1   2   3   4   5   6   7

Câu chuyện 19
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI BANNEUX, NƯỚC BỈ,

NĂM 1933
Banneux là một làng nhỏ, rất nghèo, cách Beauraing hơn 80 cây số về phía đông bắc, cách thị trấn Liège 16 cây số về phía đông. Một đặc điểm của Banneux là dân cư đều là tín hữu Công Giáo, nhưng rất nhiều người bị ảnh hưởng chủ nghĩa xã hội Marxist, họ cố tránh xa lánh Giáo Hội.
Ông Julian Beco, cha của Mariette Beco (người được thị kiến), bị thất nghiệp, ít khi ra khỏi nhà. Vì hầu như mất đức tin, ông Julian không để cho vợ con tiếp xúc với giáo xứ.
Mariette Beco, 12 tuổi, lớn nhất trong các con ông bà Beco, chào đời vào ngày Lễ Truyền Tin, 25 tháng 3 năm 1921. Cô bỏ học, không những chỉ vì không thích học, mà còn vì phải thay mẹ săn sóc các em và làm việc phụ giúp ngân quỹ gia đình.
Chiều tối thứ Bảy, 15 tháng 1, 1933, Mariette nhìn qua cửa sổ ngóng các em về trễ. Đêm đó không trăng sao, tuyết rơi lất phất. Khi nhìn qua bụi cây trong vườn nhỏ của gia đình, Mariette thấy một bóng dáng phụ nữ sáng mờ mờ. Mariette nói chuyện này với mẹ của cô, mà bà nghĩ rằng là chuyện hoang đường.
Mariette lại nhìn thấy bóng dáng đó. Khi nhìn rõ ràng, cô nhận ra đó chính là Đức Trinh Nữ. Đức Trinh Nữ ở trong bầu ánh sáng hình bầu dục. Áo dài của Người trắng tinh và sáng chói, kín ở cổ, khăn thắt lưng mầu xanh đẹp lạ lùng thả xuống đầu gối bên trái. Khăn choàng cũng trắng tinh như áo dài, che đầu và vai Đức Trinh Nữ. Bàn chân phải của Người có bông hồng vàng kim lộ ra dưới gấu áo dài. Người đeo chuỗi Mân Côi nơi cánh tay phải.
Khi ông Julian được con gái cho biết về thị kiến, ông dửng dưng, cho đó là ảnh hưởng các việc xảy ra tại Beauraing. Ngày hôm sau, Mariette đi học trở lại sau nhiều tuần lễ vắng mặt.
Tại trường học, cô kể chuyện thị kiến với một bạn học. Người bạn học của Mariette nghĩ rằng cần phải cho cha sở, cha Jamin, biết việc này. Cha Jamin cũng không để ý nhiều tới sự việc, vì ngài cũng nghĩ rằng đó là ảnh hưởng Beauraing.
Thứ Hai, 16 tháng 1, 1933, Mariette lại được thấy Đức Mẹ khi cô đi ra vườn giữa lúc trời lạnh cóng. Cha của cô kinh ngạc khi thấy cô đang quì cầu nguyện giữa trời lạnh đông đá. Thứ Tư, 18 tháng 1, 1933, trời lạnh buốt đông đá, nhưng người ta lại thấy Mariette quì cầu nguyện ở vườn, và không thể nào thuyết phục cô đi vào trong nhà được. Ông bố của Mariette hết sức bối rối. Ông đi tìm cha Jamin thay vì nhờ lối xóm giúp đưa Mariette vaò trong nhà. Bà mẹ, bà Louise Beco, và một người em của Mariette thấy cô xuất thần, đi từ vườn ra đường, vừa đi vừa nói: "Người gọi con." Mấy người đó cầm đèn đi theo cô cho tới khi Mariette quì xuống bên đường và cô thấy một dòng nước gần đó. Cô thọc hai bàn tay xuống nước và hình như tỉnh lại. Khi người ta hỏi, cô nói Đức Mẹ bảo cô:
"Suối nước này được dành riêng cho Mẹ," rồi nói: "Tạm biệt."
Ngày hôm sau, cha Jamin đến nhà ông Beco tìm hiểu sự việc, lúc đó, trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông Julian Beco xin xưng tội. Sáng hôm sau, 20 tháng 1, 1933, ông đi lễ, và những người nhóm Marxist tại Banneux chế nhạo ông về việc này.
Trong vườn, Mariette hỏi Đức Mẹ: "Người là Ai?"
Người đáp: "Mẹ là Đức Trinh Nữ của người nghèo khó."
Lúc ở suối nước, Mariette hỏi Đức Mẹ ý nghĩa lời Đức Mẹ nói: "Suối nước này dành riêng cho Mẹ",
Đức Mẹ giải thích là suối nước đó "dành cho mọi dân tộc, cho những người bệnh tật" và nói: "Mẹ đến cứu giúp những người bệnh tật."
Mặc dầu trước kia Đức Mẹ đã nói "Từ biệt", Mariette vẫn tối tối quì cầu nguyện trong vườn. Đức Mẹ lại hiện ra vào các ngày 11, 12 và 20 tháng 2, 1933 và lần cuối cùng vào ngày 2 tháng 3, 1933. Khi hiện ra ngày 2 tháng 3, Đức Mẹ ban cho Mariette nhiều thông điệp "bí mật", và trước khi từ biệt lần chót, Đức Mẹ nói: "Mẹ là Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa. Con hãy cầu nguyện nhiều. Từ biệt con."
Dòng nước nhỏ đã trở nên dòng suối lớn và hầu như lập tức nhiều người được lành bệnh nhờ nước suối này. Một ủy ban gồm hai bác sĩ y khoa và hai linh mục và một số người địa phương đã cấp thời xem xét các dữ kiện. Kết quả cuộc điều tra, các thành viên đều tuyên bố rằng không có điều gì dối trá về phía Mariette và gia đình cô. Mariette khỏe mạnh thể chất và tâm trí bình thường, không có dấu gì bất thường. Sau đó ít lâu Mariette vào nội trú để tránh khỏi bị chất vấn bởi quá nhiều phóng viên và người muốn tìm hiểu.
Sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Banneux được đức giám mục Kerkhofs, giáo phận Liège, báo cáo trực tiếp về Tòa Thánh vào cuối năm 1941. Chỉ trong thời gian hết sức ngắn, Tòa Thánh đã phúc đáp và việc sùng kính Đức Trinh Nữ của người nghèo hầu như lập tức được chính thức long trọng bắt đầu.
Một bệnh viện 250 giường dành cho người nghèo đã sớm được xây cất tại Banneux. Nhiều bệnh viện khác được xây dựng tiếp theo. Các bệnh viện này đều do các nữ tu thuộc chín dòng khác nhau điều khiển.

-------------------------------



Câu chuyện 20
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI KERIZINEN, PHÁP

NĂM 1938
Lần này Đức Mẹ chọn hiện ra tại Kerizinen, một xóm nhỏ chỉ có dăm ba ngôi nhà vách đá cũ kỹ, nghèo nàn. Kerizinen cách eo biển Manche trên bờ Đại Tây Dương khoảng 2 cây số về phía bắc, cách Paris 480 cây số về phía Tây.
Người được Đức Mẹ chọn làm thông tín viên là Jeanne Louise Ramonel, lúc đó 36 tuổi, tàn tật, độc thân, sống cô đơn. Jeanne Louise sinh năm 1910. Chị có tất cả tám anh chị em. Những người này đều trưởng thành, có gia đình và ở riêng hoặc đi làm ăn xa. Khi được hai tuổi, Jeanne Louise bị bệnh tê bại. Năm 1936, cha sở thu xếp đưa chị đến Lộ Đức. Sức khỏe của chị dần dần khả quan hơn, chị tập tễnh bước đi được và tự làm lấy những việc cần thiết cho mình.
Ngày 15 tháng 9 năm 1938, Jeanne Louise đang ngồi đan áo và trông chừng con bò sữa của chị gặm cỏ ở đồng cỏ gần nhà. Bất chợt chị thấy một trái cầu ánh sáng hiện ra trước mắt chị và đứng cách mặt đất khoảng một mét. Bầu ánh sáng tỏa rộng ra, chị thấy trong chính giữa là một Phụ Nữ Trẻ Đẹp mà chị tin chắc là Đức Trinh Nữ. Jeanne quì xuống, và Đức Mẹ nói:
"Đừng sợ! Mẹ không làm hại con đâu! Con sẽ thấy Mẹ vào những lần khác nhau trong những năm tới. Khi đó Mẹ sẽ nói cho con biết Mẹ là Ai và muốn con làm gì. Một cuộc chiến mới đang đe dọa Âu Châu. Mẹ sẽ làm chậm cuộc chiến đó một vài tháng, vì Mẹ không thể bưng tai làm ngơ hết sức nhiều lời cầu nguyện xin hòa bình dâng lên Mẹ tại Lộ Đức vào lúc này."
Tới đây Đức Mẹ biến đi. Jeanne Lousise đã không nói với ai về thị kiến này.
Ngày 7 tháng 10 năm 1938, lễ Đức Mẹ Mân Côi, và đúng vào sinh nhật thứ 37 của chị, Đức Mẹ hiện ra nói với chị:
"Thế giới không ngưng xúc phạm Thiên Chúa bằng những tội nặng nề kinh khủng, nhất là các tội thuộc giới răn thứ sáu và thứ chín. Vì thế cuộc chiến này là hình phạt vì quá nhiều tội lỗi đó."
Đức Mẹ nói tiếp:
"Nhưng Thiên Chúa quá xót thương và ban cho các con phương tiện ơn cứu độ: hòa bình, các con sẽ sớm có hòa bình nếu các con biết cách mưu cầu. Nhưng để được hòa bình, người ta cần phải sống cuộc đời cầu nguyện, hy sinh, đền tội. Các thiếu niên, đặc biệt là các nhóm cầu nguyện, cần phải năng cầu nguyện kinh Mân Côi, kèm lời nguyện 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi hỏa ngục, xin đem hết thảy các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót của Chúa hơn' để cầu xin cho kẻ tội lỗi. Con hãy nói với cha sở rằng ngài phải công bố thông điệp này. Mẹ sẽ ban cho thông điệp này sức mạnh siêu nhiên đánh động các tâm hồn."
Jeanne Lousise lập tức báo cho cha sở về lần thị kiến này và thị kiến thứ nhất như Đức Mẹ bảo. Nhưng cha sở cấm chị không được nói điều đó với ai. Vì thế suốt 9 năm, cho tới lần thị kiến thứ mười ba, chỉ có chị Jeanne Louise và cha sở biết về thị kiến và các thông điệp của Đức Mẹ trong các thị kiến đó.
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, Đức Mẹ hiện ra và khuyên chị Jeanne: "Các con hãy nhớ chắc phải võ trang bằng lời cầu nguyện và hy sinh trong khi quân đội của các con (Pháp) đang chiến đấu."
Ngày 2 tháng 4 năm 1940, Đức Mẹ cảnh cáo: "Người ta không cầu nguyện nhiều như trong tháng đầu cuộc chiến. Vì sự chểnh mảng này, các con (Pháp) sẽ phải chịu đau khổ, mà phần chính là các binh sĩ của các con. Nhiều người sẽ bị cầm tù. Nhiều người sẽ chết vì đói khát và khốn khổ."
Đức Mẹ hiện ra ban thông điệp cho chị Jeanne Louise vào đầu tháng 5 năm 1940, khi nước Bỉ vừa mới bị Đức xâm lăng. Đức Mẹ nói: "Các con dân Pháp của Mẹ, những giờ phút nghiêm trọng sẽ sớm đến với các con! Đất nước các con bị kẻ thù đe dọa xâm lấn."
Ngày 8 tháng 5 năm 1941, Đức Mẹ nói: "Chẳng bao lâu nữa, nước Nga sẽ giúp làm nhẹ cuộc chiến. Kẻ thù của các con sẽ bị ảnh hưởng mạnh. Nhưng, bắt đầu từ giây phút này, các con phải cầu nguyện, cầu nguyện thiệt nhiều. Hỡi các linh hồn Kitô hữu, vì kẻ thù vĩ đại này của Giáo Hội (= Cộng Sản), sau cuộc chiến, sẽ hiện diện hầu khắp nơi, và chúng gây khó khăn nhiều cho Giáo Hội."
(Chúng ta thấy thông điệp ngày 8-5-1941 có nội dung rất gần thông điệp Đức Mẹ ban ngày 13-7-1917 tại Fatima. Bắt đầu từ năm 1950, Cộng sản lan tràn khắp thế giới như thác lũ và là mối đe dọa lớn cho các dân tộc, là khó khăn lớn cho Giáo Hội).
Ngày 1 tháng 5 năm 1944, chị Jeanne Louise thấy một cảnh bao la trước mặt: Ở một góc, có những người đang kéo lá cờ đỏ lên. Một số linh mục cố cản họ, nhưng các ngài bị họ đe dọa, hành hạ, và ném đá. Trong một góc, ma quỉ đang hết sức khoái chí, cổ võ những người đang kéo lá cờ đỏ. Trong một chỗ khác, hình Đức Trinh Nữ đang khóc, và có hàng chữ "Hình Ảnh Của Chủ Nghĩa Cộng Sản."
Sau khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ 13, ngày 4 tháng 10 năm 1947, chị Jeanne Louise lần nữa chống nạng đi bộ hơn 2 cây số đến gặp cha sở tại Plounevez Lochrist để báo cho ngài những lời Đức Mẹ. Một cô bé tình cờ nghe tường tận đối thoại giữa cha sở và chị Jeanne Louise. Ngay sau đó, cô bé chạy tới trường học nói cho mọi người biết Đức Mẹ hiện ra với chị Jeanne Louise. Lần đầu tiên các thông điệp Đức Mẹ dạy chị Jeanne Louise được loan báo cho công chúng.
Chỉ ít lâu sau, một đài Đức Mẹ được dựng lên ở đồng cỏ. Người ta bắt đầu đến cầu nguyện tại đây, và chị Jeanne thuật lại cho mọi người các thông điệp của Đức Mẹ từ lần thứ nhất đến lần thứ hai mươi mốt.
Cuối tháng 5 năm 1949, Đức Mẹ làm phép lạ đầu tiên tại Kerizinen chữa lành một phụ nữ nguy tử tại bệnh viện. Sau khi các tín hữu dâng hoa cầu nguyện tuần chín ngày tại đài Đức Mẹ để cầu nguyện cho bệnh nhân nói trên, và Đức Mẹ hiện ra lần thứ 22, nhiều người thấy bầu ánh sáng đáp xuống nhà chị Jeanne. Sau thị kiến, chị Jeanne yêu cầu lấy một số hoa dâng tại đài Đức Mẹ, chị kết thành vòng hoa nhỏ, và nhờ đưa tới cho bệnh nhân. Ngay khi vòng hoa vừa được đặt xuống giường người phụ nữ, bà này lập tức bắt đầu nói, ngồi lên, và khỏi bệnh. Khi tin này được loan ra, không chờ kết quả của hội đồng giám định y khoa, cũng không chờ đức giám mục chấp thuận, mọi người đều cho là phép lạ thực sự.
Khi Đức Mẹ hiện ra ngày 6 tháng 8 năm 1949, chị Jeanne Louise xin Đức Mẹ cho dân cư ở đây một suối nước, vì người ta phải đi gần 2 cây số mới lấy được nước. Đức Mẹ hứa cho, nhưng tới năm 1952, người ta mới được hưởng nước suối này.
Ngày 9 tháng 12 năm 1949, Đức Mẹ bảo Jeanne Louise: "Con hãy đến trình đức giám mục rằng Mẹ muốn ngài tổ chức cầu nguyện và hành hương tại đây, và một nhà nguyện được xây dựng tại đây. Tại đây, Con của Mẹ sẽ làm những phép lạ mà Chúa đã làm tại đây trước kia. Mẹ muốn các phép lạ đó được tái diễn, đặc biệt vì những người tội lỗi."
Nhưng đức giám mục đã không làm gì cả. Một số dân cư tại đây tự nguyện dựng lên một kiến trúc sơ sài nơi Đức Mẹ hiện ra. Bên trong có tượng Đức Mẹ được tạc theo chị Jeanne Louise mô tả. Trong các thập niên 1950 - 1960, vào những dịp lễ, có tới 5 hoặc 6 ngàn người tụ họp tại nhà nguyện nhỏ này, và điều này làm giáo quyền không hài lòng.
Ngày 8 tháng 12 năm 1953, Đức Mẹ làm phép lạ mặt trời, bông tuyết, hoa và hương thơm, tương tự phép lạ mặt trời vũ tại Fatima ngày 13 tháng 10 năm 1917, nhưng khác là mặt trời tách ra làm hai mảnh và xoay ngược chiều nhau trước mắt hơn ngàn người hiện diện.
Trong thông điệp ngày 12 tháng 12 năm 1955, Đức Mẹ bảo chị Jeanne: "Con hãy xin đức giám mục thành lập trong các giáo xứ 'Hội Con Cái Mẹ', mà Mẹ đã nói tới vào những năm đầu."
Và Đức Mẹ nói tiếp: "Ma quỉ đã tung ra hết mọi mưu kế xảo quyệt của nó để những lần Mẹ hiện ra không được nhìn nhận tại Brittany, nhưng bất chấp nó, Mẹ sẽ vinh thắng."
Đức Mẹ đã hiện ra với chị Jeanne Louise ít nhất 71 lần. Nhưng tiếc rằng các thông điệp của Mẹ không được ghi lại, phổ biến đầy đủ và cấp thời, và giáo quyền địa phương đã không quan tâm tới, nếu không nói là cố ý chống lại. Một số giáo dân đạo đức tại Canada, Pháp và Bỉ cố gắng thu thập, phổ biến các thông điệp và tinh thần thông điệp tại Kerizinen.
--------------------------------

Câu chuyện 21
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI MONTICHIARI, NƯỚC Ý, NĂM 1947-1966
Người được Mẹ Maria chọn làm thông tín viên lần này là chị Pierina Gilli, lúc đó 36 tuổi, và nơi Đức Mẹ hiện ra là một bệnh viện tại Montichiari, nơi chị Pierina làm việc.
Montichiari nằm giữa vùng đồng bằng phì nhiêu của sông Pô, cách San Damiano khoảng 98 cây số về phía tây bắc, cách thành phố Brescia khoảng 60 cây số về phía đông nam. Fontanelle là ngoại ô của Montichiari, nơi chị Pierina Gilli chào đời ngày 3 tháng 8 năm 1911.
Hôm đó, chị Pierina đang làm việc một mình trong phòng tại bệnh viện, một vị phụ nữ tuyệt đẹp (Đức Mẹ) bất chợt hiện ra với chị. Đức Mẹ mặc áo dài mầu tím, khăn choàng đầu mầu trắng. Đức Mẹ rất buồn, mắt đẫm lệ, nhiều giọt lệ rơi xuống sàn nhà. Ngực Đức Mẹ bị ba mũi gươm xuyên qua.
Đức Mẹ chỉ nói: "Cầu nguyện - Thống Hối - Đền Tội."
Sau đó Người nín thinh, những giọt lệ lóng lánh rơi xuống sàn nhà. Đức Mẹ biến đi.
Chúa nhật, 13 tháng 6 năm 1947, Đức Mẹ trở lại lúc sáng sớm. Lần này Đức Mẹ mặc toàn trắng và thay vì ba mũi gươm là ba bông hồng - trắng, đỏ và vàng kim. Chị Pierina hỏi: "Xin Người vui lòng cho con biết Người là Ai?"
Đức Mẹ mỉm cười nói: "Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ tất cả các con."
Lúc đó Đức Mẹ ban thông điệp khá dài liên quan đến việc sùng kính mới dâng cho Mẹ và những sắp xếp các dòng tu và linh mục.
Đức Mẹ muốn ngày 13 hàng tháng được dành là "Ngày Của Mẹ Maria", ngày tôn vinh "Hoa Hồng Huyền Nhiệm" và vào ngày này, Đức Mẹ sẽ ban cho những ai tôn vinh Mẹ "tràn đầy ơn sủng và sự thánh hóa cao cả."
Đến đây Đức Mẹ giải thích ý nghĩa ba mũi gươm đã đâm vào ngực Mẹ trong lần hiện ra trước:
* lưỡi gươm thứ nhất là sự mất ơn gọi linh mục và tu sĩ;
* lưỡi gươm thứ hai là các linh mục và tu sĩ sống trong tội trọng;
* lưỡi gươm thứ ba là các linh mục và tu sĩ phạm tội phản nghịch của Juda Iscariot, những người này bỏ ơn gọi, mất đức tin cùng hạnh phúc vĩnh cửu và trở nên kẻ thù của giáo hội.
Kế đến Đức Mẹ giải thích ý nghĩa ba bông hồng:
* bông hồng trắng có nghĩa là tinh thần cầu nguyện;

* bông hồng đỏ là tinh thần đền tạ và hy sinh;



* bông hồng hoàng kim là tinh thần ăn năn thống hối.
Ngày 22 tháng 10 năm 1947, Đức Mẹ nói:
"Con của Mẹ mỏi mệt vì những xúc phạm triền miên và muốn thi hành đức công bằng của Ngài. Vì thế Mẹ đặt mình làm trung gian giữa Chúa và nhân loại, đặc biệt là những linh hồn được thánh hiến."
Tại nhà thờ giáo xứ, ngày 16 tháng 11 năm 1947, một số người hiện diện thấy chị Pierina xuất thần. Đức Mẹ nói: "Con của Mẹ, Chúa chúng ta, mỏi mệt vì quá nhiều xúc phạm, những xúc phạm nặng nề, những tội chống lại đức trong sạch thánh thiện."
Sau một chút, Đức Mẹ nói tiếp: "Chúa muốn gởi đến một trận lụt khác hoặc một hình phạt khác. Mẹ đã can thiệp. Mẹ khẩn thiết yêu cầu các linh mục bằng tình yêu mà cảnh cáo mọi người rằng họ không được phạm các tội đó nữa."
Tiếp sau khi Đức Mẹ hiện ra ở nhà thờ xứ Montichiari, nhiều phép lạ nhãn tiền chữa lành bệnh đã xảy ra. Nhưng đức giám mục Giacinto Tredici, giáo phận Brescia, ra lệnh cho chị Pierina chấm dứt thị kiến và vào làm việc tại tu viện ở Brescia. Chị vâng lời và làm việc tại đây mười chín năm. Trong thời gian này, các lần thị kiến hầu như không còn xảy ra.
Nhưng vào tháng 2 năm 1966, khi chị Pierina đang cầu nguyện trong phòng, Đức Mẹ lại hiện ra cho chị biết Đức Mẹ sẽ hiện ra tại Fontanelle vào Chúa Nhật Phục Sinh, 17 tháng 4, 1966. Khi đức giám mục được báo cáo tin này, ngài cấm chị Pierina không được nói với ai, cũng không được về Fontanella.
Dẫu vậy, chị Pierina đã đi cùng với một người bạn về Fontanella và dừng lại nơi giếng nước cũ có bậc đá đi xuống. Chính tại giếng nước này, Đức Mẹ lại hiện ra sau kinh Truyền Tin. Đức Mẹ nói: "Con của Mẹ yêu thương vô cùng, và Chúa gởi Mẹ đến đây ban cho giếng nước này sức chữa lành bệnh tật. Để làm dấu ăn năn thống hối và thanh tẩy, con hãy quì gối và hôn bậc trên cùng này!"
Chị Pierina đã thi hành như Đức Mẹ dạy: "Bây giờ con lại hôn các bậc bước lên bước xuống và đặt ở đây một Tượng Chịu Nạn!"
Bằng tay trái, Đức Mẹ ghi dấu nơi đặt Tượng Chịu Nạn. Đức Mẹ nói tiếp:
"Trước tiên các bệnh nhân và các con cái của Mẹ phải xin Con của Mẹ tha thứ tội lỗi họ, kế đó họ yêu mến hôn thánh giá này, sau đó múc nước uống. Con hãy lấy bùn, thoa vào hai bàn tay con, rồi rửa bằng nước giếng đó! Việc này cho thấy tội lỗi trở thành bùn và bụi dơ nơi trái tim các con cái Mẹ, nhưng được thanh tẩy trong nước ân sủng, các linh hồn lại trở nên thanh sạch và xứng đáng hưởng ân sủng.
"Mẹ ước muốn các người bệnh tật và tất cả mọi con cái của Mẹ đến giếng nước này. Nhiệm vụ của con là tại đây nhận các người bệnh tật và tất cả người người cần con giúp đỡ."
Tới đây Đức Mẹ bay lên không trung. Người dang rộng hai cánh tay và áo choàng của Mẹ phủ khắp khoảng mênh mông trên bầu trời. Nơi cánh tay Đức Mẹ có chuỗi mân côi mầu trắng.
Rất nhiều bệnh nhân tật nguyền được lành nhờ ăn năn thống hối và dùng nước giếng Đức Mẹ, và sự việc Đức Mẹ hiện ra với chị Pierina được bán chính thức nhìn nhận.
Vào thời gian này xảy ra chuyện là một kiến trúc có tên "Lâu Đài Thánh Maria" được rao bán, có người định mua để biến nơi đó thành một hộp đêm ma quỉ. Tuy nhiên các mưu kế đó bị phá tan và Đức Ông Luigi Novarese đã mua lâu đài đó và biến thành nhà thương nối liền với viện dưỡng lão các linh mục. Ngày khánh thành long trọng, cha sở tại Montichiari, đức ông Rossi, đã mời đức giám mục Fatima, João Pereira Vencancio, tới dự.
Bây giờ chị Pierina được giáo quyền cho phép đón Đức Mẹ hiện ra. Đức Mẹ tiếp tục hiện ra với chị ít nhất thêm 36 lần, tuy không đều đặn, cho tới hết năm 1976.
Ngày 20 tháng 4 năm 1969, chị Pierina viết: "Đức Mẹ đã hứa ban dấu lạ trên trời để đẩy mau chiến thắng của Người." Nơi dấu lạ xảy ra là nhà thờ ở Fontanelle.
Tới ngày đó, nhiều người đã tới sớm để cầu nguyện. Trời giông bão, bầu trời đen kịt, gió lạnh. Thình lình, một khoảng trống hiện ra trên mây. Khoảng trống đó trở nên tối hơn, cho tới khi tưởng chừng màn đêm xuống. Người ta nhìn đồng hồ, nhưng chỉ mới 4 giờ chiều.
Giữa bầu trời đen kịt, người ta nhìn rõ các ngôi sao lóng lánh. Các ngôi sao tiếp tục chớp sáng cho tới khi một triều thiên lớn gồm 12 ngôi sao hiện ra. Mặt trời từ xa tắp lúc này tới gần hơn, lớn hơn và sa xuống phía người ta. Rồi đổi thành mầu đỏ với nhiều tia sáng đẹp mắt. Mặt trời như rung rinh lắc lư vì gió bão, và tưởng chừng rớt xuống.
Mọi người hoảng hốt. Nhiều người quì xuống cầu nguyện. Mặt trời ngừng rơi, bắt đầu xoay trên trục, phóng ra những ngọn lữa lớn xuống trái đất. Khắp bầu trời nhuộm đỏ. Cảnh tượng kinh hoàng và không thể hiểu.
Bất chợt, mặt trời trở lại khoảng trống đen lúc trước. Các đám mây trở thành mầu trắng tuyết. Mặt trời bình thường lại xuất hiện, mầu trắng bệch và vẫn còn trong khoảng đen, rồi từ từ di chuyển. Mặt trời đứng im một lúc trong vòng triều thiên mười haingôi sao. Kế đó, mặt trời tách ra tạo thành hình thánh giá ánh sáng rực rỡ.
Trong thời gian này, cả bầu trời đổi thành mầu vàng. Mặt trời lại ra khỏi hành lang tối, tựa như sao chổi, nhưng lần này nó di chuyển từ từ, lắc lư và như nhảy tới nhảy lui.
Một lúc sau, khoảng tối trở nên sáng lại. Các ngôi sao mờ đi. Mây vẫn còn bao phủ bầu trời. Nhiều người tại Lonato, cách xa 12 hoặc 13 cây số, nhìn thấy hiện tượng lạ mặt trời tại Montichiari.
--------------------------------

Câu chuyện 22
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LIPA, PHI LUẬT TÂN

NĂM 1948-1949
Lipa là một thị xã nhỏ, gần thị xã Rosario, thuộc tỉnh Batangas, cách Manila khoảng 10 cây số về phía đông nam. Lipa và Rosario thuộc vùng núi trên độ cao 500 mét. Dân cư vùng này sống thiếu thốn nhiều về vật chất. Tại đây có nhà dòng Carmel rất cổ kính. Các nữ tu Carmel tận lực giúp đỡ người nghèo khó tại đây. Trong số các nữ tu này là chị Teresita Castillo, người được Đức Mẹ chọn làm thông tín viên.
Chiều ngày 12 tháng 9 năm 1948, chị Teresita ở một mình trong vườn nhà dòng, nơi có nhiều cây nho gần bức tường. Chị nghe tiếng gọi tên chị. Chị quay lại nhìn xem ai gọi và thấy một đám mây trắng nhỏ ở trước khóm nho. Từ đám mây này tỏa ra những tia sáng rực rỡ. Thoạt tiên chị không nhìn rõ người trong đám mây. Từ đám mây tiếng nói vọng ra: "Con đừng sợ. Con hãy hôn đất đi. Con hãy làm bất cứ điều gì Mẹ bảo con làm. Con hãy đến thăm Mẹ tại chính chỗ này 15 ngày liên tiếp. Con hãy ăn một vài cọng cỏ đi."
Ngày hôm sau, 13 tháng 9, 1948, chị Teresita nhìn rõ Đức Mẹ trong đám mây. Đức Mẹ nói: "Người ta không tin lời Mẹ. Con của Mẹ, con hãy cầu nguyện, cầu nguyện nhiều vì sự đàn áp. Điều Mẹ xin ở đây cũng là chính điều Mẹ đã xin tại Fatima. Con hãy nói cho mọi người biết điều này."
Sau thị kiến ngày 13-9-48, những cánh hoa hồng bắt đầu từ trời rơi xuống vườn, khắp khuôn viên nhà dòng, và bên ngoài nữa. Mặc dầu trời gió lộng, các cánh hoa đó không bị gió cản trở hoặc xáo trộn, cho tới khi xuống tới đất các cánh hoa đó mới chịu ảnh hưởng của gió. Hàng trăm người đã lượm những cánh hoa có hương thơm ngào ngạt này.
Đức Mẹ đã hiện ra với chị Teresita đủ 15 lần. Một đôi lần Đức Mẹ xưng mình là "Mẹ Maria, Đấng Trung Gian Mọi Ơn Lành" và yêu cầu thiết lập một đài dâng kính Đức Mẹ tại chính nơi Đức Mẹ hiện ra.
Những cánh hoa hồng không phải chỉ mưa xuống ngày 13 tháng 9, 1948, mà tiếp tục trong tháng 10, và 5 ngày liên tiếp trong tháng 11, 1948. Người ta thi nhau lượm hết các cánh hoa hồng này và cung kính giữ. Nhiều ơn lành bệnh nhờ uống nước nấu những cánh hoa hồng này được ghi nhận.
Ngày 23 tháng 3, 1949, khắp cả thị trấn, mọi người bất chợt nhìn lên và thấy Đức Mẹ đứng giữa đám mây. Chung quanh Đức Mẹ có những vòng hào quang màu đỏ, xanh, vàng, và lá cây. Hình ảnh Đức Mẹ trên đám mây này là hình ảnh ba chiều, vì một số người ở thẳng trước mặt Đức Mẹ thấy trọn vẹn khuôn mặt, nhưng những người ở phía bên nhìn thấy mặt Đức Mẹ đứng nghiêng. Đức Mẹ hiện ra lạ lùng này lâu trên hai tiếng đồng hồ để những người từ Rosario tới kịp chiêm ngưỡng. Một số người nói họ thấy Đức Mẹ từ xa 5 hoặc 6 cây số.
Một đài kính Đức Mẹ được lập tại nơi Đức Mẹ hiện ra, và thánh đường Lipa được dâng kính Đức Mẹ, Đấng Bầu Cử Muôn Ơn Lành. Những cánh hoa hồng từ trời mưa xuống đã được bọc trong bao plastic và gởi đi khắp thế giới.
---------------------------

Câu chuyện 23
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI NECEDAH, WISCONSIN, HOA KỲ, NĂM 1949-1951
Tại Necedah, tiểu bang Wisconsin, Hoa kỳ, Đức Mẹ hiện ra với bà Mary Ann Hoof, lúc đó 40 tuổi, có chồng con.
Bà nói đêm 12 tháng 11 năm 1949, khi đang cầu nguyện, bà nghe tiếng khua trong phòng khách. Bà tới tìm hiểu thì thấy thứ gì giống như ánh sáng mầu trắng. Thoạt tiên bà nghĩ đó là một trong các con của bà, nhưng khi nhìn kỹ, bà thấy một khuôn mặt nhỏ nhắn có khăn choàng đầu. Bà sợ và lui vào trong phòng. Nhưng bóng đó đi theo, ngừng lại cách đầu giường của bà khoảng hơn một mét, và đứng lặng lẽ nhìn bà. Bà Mary hết sức sợ hãi. Nhưng rồi bóng đó biến đi.
Thời gian lặng lẽ qua, đến ngày 7 tháng 4 năm 1950, bà thấy Xác Chúa Giêsu trên Thánh Giá, treo trên tường, rực sáng và kích thước của tượng lớn gấp hai. Một tiếng nói từ tượng Khổ Giá vọng ra: "Này, con của Cha, con hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, cầu nguyện tha thiết. Con của Cha, con phải vác thánh giá nặng, nhưng khắp thế giới người ta phải vác thánh giá nặng hơn và đau khổ vì kẻ thù của Thiên Chúa nếu các con không cầu nguyện. Các con hãy cầu nguyện, cầu nguyện tha thiết bằng trái tim."
Lễ Chúa Thánh Thần Ngự Xuống, ngày 28 tháng 5 năm 1950, bà Mary Ann nói: "Tôi thấy bóng mờ mầu xanh ở phía mấy cây nhỏ trong vườn, có tiếng bảo tôi rằng Thánh Nữ đến. Cho tới nay tôi vẫn gọi Người là Thánh Nữ vì tôi chưa thực sự biết Người là ai. Tôi bước ra ngoài. Ngay khi bước ra khỏi cửa, bóng mầu xanh lướt qua các ngọn cây rồi hiện thành hình Đức Mẹ. Người đứng cách mặt đất khoảng một mét, mỉm cười, hai tay dang rộng."
Ngày 29 tháng 5 năm 1950, Đức Mẹ hiện ra nói với bà Mary Ann: "Hỡi Nước Mỹ, tỉnh dậy đi! Kẻ thù của Thiên Chúa đang bò khắp Nước Mỹ! Tất cả mơi người phải cùng nhau hoạt động chống lại kẻ thù của Thiên Chúa! Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện theo ý này! Các con phải cầu nguyện cho Nước Nga trở lại!"
Ngày 16 tháng 6 năm 1950, lúc đó hơn một ngàn người tụ họp tại nhà gia đình Van Hoof và Nơi Thánh (nơi Đức Mẹ đứng khi hiện ra), có linh mục Lengowski, cha sở giáo xứ thánh Phanxicô và các chú giúp lễ cũng hiện diện. Đức Mẹ hiện ra ban thông điệp quan trọng:
"Với hàng giáo phẩm tại Hoa Kỳ! Quá nhiều người các con tham lam vật chất và đặt khoái lạc trước nhiệm vụ. Các con phải tự khiêm và làm gương cho các tín hữu. Các con hãy nhớ các con làm việc cho Chúa Giêsu ở trần gian. Các con phải tận lực kêu gọi đưa giáo dân của các con trở lại Giáo Hội.
"Nếu các con không nghe lời Mẹ lúc này, các con là những người đang suy thoái, các con sẽ chịu đau khổ kinh khủng vì những bạo hành và hình phạt tương tự xảy ra tại các quốc gia bị thanh lọc (= các nước cộng sản). Tất cả các con đều biết bom nguyên tử với sức hủy diệt của nó đang ở trong tay kẻ thù.
"Con hãy nói điều này với các linh mục của con và tất cả các linh mục khắp Hoa Kỳ và khắp thế giới. Có quá nhiều người coi xa hoa phè phưỡn trọng hơn các nhiệm vụ của họ đối với Thiên Chúa.
"Các con đừng gây chiến với nhau. Ghen ghét hận thù giữa các tôn giáo chính là điều kẻ thù đang mưu cầu. Các linh mục phải là những mục tử đích thực, trương cao Chân Lý và Đường Lối của Luật Chúa không phân biệt một ai."
Giữa trưa ngày 15 tháng 8 năm 1950, Đức Mẹ ban cho bà Mary Ann thông điệp dài mà chỉ một vài phần được trích sau đây:
"... Kẻ thù ở khắp các ngành của chính phủ, lực lượng dân sự, truyền thông, quân đội, hàng linh mục, các mục sư và cả những người giúp việc khách sạn ...
"... Các nữ gián điệp làm việc cho kẻ thù bay tới bay lui các thành phố, nữ phái của họ giúp họ đi lại dễ dàng...
"... Có tới 30 ngàn cán bộ cộng sản được huấn luyện làm linh mục để xâm nhập Giáo Hội Công Giáo. Hàng ngũ các mục sư cũng bị những mục sư đỏ xâm nhập và vận động hủy diệt các tôn giáo. ...
"... Tất cả phải cùng nhau hoạt động chống lại kẻ thù của Thiên Chúa, mà nó (= tay sai ma quỉ) lúc này rất mạnh. Các con hãy nhớ các Giới Răn, Đường Thánh Giá vì kẻ thù của Thiên Chúa hiện diện khắp nước Mỹ. Hẳn các con ngạc nhiên khi bộ áo lông chiên được lột ra và chúng sẽ xông lên - khắp chung quanh các con – mặc dầu một số hoạt động như là Kitô hữu - chúng có Satan trong tim ...
"... Các linh mục không thể đơn phương làm việc này, người Công Giáo cũng không thể đơn phương làm việc này. Đó là lý do tất cả phải làm việc chung với nhau, không phải bằng ghen tị và hận thù, mà bằng yêu thương, yêu thương người khác... Hững hờ và phạm thượng làm đau lòng Chúa chúng ta. ...
"... Vũ khí chỉ hủy diệt và tiếp tục hủy diệt ... Nhưng tất cả các con phải nhớ những lời Mẹ cảnh cáo tại Fatima, Lipa và La Salette. Mẹ cảnh cáo các con ngày đó. Mẹ lại cảnh cáo các con nữa. ...
"... Sự tàn phá của Cộng Sản lúc này khởi đầu tại Triều Tiên, nhưng sẽ không ngừng tại đó nếu chúng ta không cầu nguyện. Nó chỉ mới khởi đầu tại Triều Tiên - một nửa nước Mỹ lâm chiến với kẻ thù của Thiên Chúa."
Mặc dầu những người mộ mến Đức Mẹ tuốn đến Necedah và nhiều phép lạ lành bệnh, cải hối, và những sự lạ lùng được nhiều người chứng kiến tại chính nơi hoặc gần nơi Đức Mẹ hiện ra với bà Mary Ann, giáo quyền địa phương liên hệ phạt vạ treo bà Mary Ann và sáu người nhiệt thành nhất phổ biến tin tức và thông điệp của Đức Mẹ tại đây.
---------------------------

Câu chuyện 24
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI JERUSALEM, DO THÁI, NĂM 1954
Chúng ta đều biết Jerusalem, Thánh Địa Ơn Cứu Chuộc, đã trải qua bao nhiêu thay đổi và phân chia. Suốt dòng lịch sử, Jerusalem đã bao lần đẫm máu phân tranh, tàn phá. Ngày nay Jerusalem là thánh địa của Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo (Chính Thống Giáo, Công Giáo La Mã, Công Giáo gốc Ai Cập, Công Giáo gốc Syria, và Gregorian Armenian), Hồi Giáo. Ngày nay Jerusalem là thủ đô của hai quốc gia Do Thái và Palestine, và là điểm luôn nóng. Không xa Mồ Thánh Chúa Giêsu có đền thờ "Mái Đá Tròn" của Hồi Giáo. Các thánh đường, hội trường, đền thờ xen kẽ nhau.
Trong bối cảnh Jerusalem này của năm 1954, Đức Mẹ hiện ra tại trường học thánh Antony Aicập. Đức Mẹ hiện ra lần này không phải chỉ với một hoặc số ít người được thị kiến, Đức Mẹ hiện ra với tất cả các học sinh lớp V tại trường học này.
Khoảng 11 giờ sáng ngày 18 tháng 7 năm 1954, các học sinh lớp V đang học giáo lý tại trường thánh Antony. Những học sinh nhỏ tuổi này gồm các tín hữu theo Công Giáo gốc Ai Cập, Công Giáo Lamã, và Hồi Giáo. Sau giờ giáo lý, các học sinh đang nghỉ ăn trưa, một vài em nhìn ra cửa sổ. Bất chợt các em đồng thanh la lên: "Đức Trinh Nữ! Đức Trinh Nữ!"
Các em la lớn: "Người đứng đó đó, phía bên kia sân gần cửa sổ."
Các em nhận ra Đức Mẹ vì Người mặc áo mầu xanh và có hào quang mầu trắng chung quanh.
Toàn thể học sinh ùa tới cửa sổ và tất cả đều nhìn thấy Đức Mẹ. Các cô giáo không nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng không thể nào làm cho các em rời khỏi cửa sổ trở về chỗ. Lúc đó người thư ký nhà trường được kêu tới. Người này không nhìn thấy Đức Mẹ và bảo các học sinh đừng ngớ ngẩn. Sau khi làm cho các em trở lại chỗ, ông ra lệnh cài cửa để các em không ra sân được.
Chỉ ít phút sau, các học sinh lại đồng thanh reo hò. Lần này Đức Mẹ hiện ra với các em ngay trong phòng lớp. Một vài em nói Đức Mẹ lướt bay, một số khác nói Đức Mẹ bước đi trên nền nhà. Đức Mẹ hiện ra lần này lâu chừng năm phút, hoặc ít nhất lâu đủ để lôi kéo nhiều người lớn. Những người này trước kia không thấy Đức Mẹ. Khi Đức Mẹ đứng trước mặt các học sinh, Người rực rỡ hơn, và những người lớn hiện diện thấy một bóng mờ và khuôn hình người. Kế đó Đức Mẹ biến đi.
Tin Đức Mẹ hiện ra với các học sinh lớp V tại trường thánh Antony được mau chóng loan truyền khắp nơi. Sau đó nhà trường cho học sinh ra về. Rất nhiều người đến thăm quan sát lớp học.
Nhà thờ Công Giáo Coptic (Ai Cập) sở hữu trường học nơi Đức Mẹ đã hiện ra được nhiều người và khách hành hương đến viếng. Ngày 25tháng 7, 1954, một tuần lễ sau khi Đức Mẹ hiện ra nói trên, có tới hơn hai trăm người trong nhà thờ khi hát Kinh Chiều, những người này gồm Kitô hữu và Hồi Giáo.
Khi vị linh mục đang hướng dẫn hát kinh, toàn thể mọi người đồng loạt la lên. Khi vị linh mục nhìn lên, ngài hết sức sửng sốt đến độ không thể tiếp tục hát kinh. Vì vị linh mục cũng như tất cả mọi người trong nhà thờ nhìn thấy rõ ràng Đức Mẹ di chuyển ngaytrên đầu từng người, hoặc ở giữa họ. Đức Mẹ hiện ra lần này lâu khoảng mười lăm phút. Có nhiều người tới sau, và hầu hết những người mới tới này cũng nhìn thấy Đức Mẹ. Kế đó Đức Mẹ biến đi từ từ.
Tờ Coptic Patriarch Journal đăng tin này. đức giám mục Giáo Hội Công Giáo gốc Ai Cập nói:
"Đức Mẹ không đến vì chúng tôi. Người đến vì nơi này là nơi thánh, chỉ vài thước trong chu vi Đồi Golgotha và Mồ Thánh Chúa."
Sau khi Đức Mẹ hiện ra, những căng thẳng giữa khối Ả Rập và Do Thái lên cao độ, nhất là tại vùng Gaza các năm 1955 và 1956, bất chấp Liên Hiệp Quốc can thiệp. Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Do Thái tấn công lãnh thổ Ai Cập, và chỉ trong một ít ngày, Do Thái chiếmvùng Gaza và bán đảo Sinai. Anh và Pháp chiếm vùng Kênh Đào Suez để giữ cho kênh đào khỏi bị phá hủy. Quân Liên Hiệp Quốc được gởi tới bảo vệ hòa bình giữa Do Thái và Ai Cập.
----------------------------


Câu chuyện 24
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI GARABANDAL,

TÂY BAN NHA, NĂM 1961
Garabandal là một xóm nhà vách đá mái ngói nằm trên đồi, ở độ cao 700 hoặc 800 mét. Thành phố lớn gần nhất là Santander trên Vịnh Biscay. Khu vực này khô và lởm chởm đá, chỉ có một ít cây.
Chiều tối 18 tháng 6 năm 1961, sau kinh chiều ở nhà thờ, bốn cô bé vừa mới bẻ trộm mấy trái táo và chạy tới núp ăn ở khe đá. Các cô bé này là Conchita Gonzalez, Jacinta Gonzalez và Loli Mazon đều 12 tuổi, và Maria Cruz Gonzalez 11 tuổi. Ba cô họ Gonzalez không có họ hàng với nhau.
Bất chợt các cô thấy một bóng người đẹp đẽ rực rỡ hiện ra. Các cô hoảng sợ, chạy về làng và kể lại điều các cô thấy. Nhưng người lớn không tin. Các cô nói các cô thấy một thiên thần. Ngày hôm sau cha sở, cha Valentin Marichalar, đến gặp các cô tìm hiểu. Cha khuyên các cô nếu tối nay các cô thấy thiên thần nữa thì hỏi thiên thần là ai và tại sao thiên thần đến đây.
Bốn cô trở lại khe đá, có mấy cậu con trai đi theo, cả người lớn nữa. Các cậu con trai chọc ghẹo các cô, có cậu còn ném đá nữa. Nhưng thiên thần không đến. Đêm đó khi Conchita đang đọc kinh trước khi ngủ, cô nghe tiếng nói: « Đừng sợ. Các em sẽ lại thấy tôi. »
Cả bốn cô cùng nghe được lời đó. Nên các cô lại đến khe đá và gặp thiên thần. Thiên thần hiện ra với các cô tất cả tám lần. Có nhiều lần, người ta thấy các cô xuất thần, mắt nhìn lên cao, đầu ngửa ra sau. Người ta đâm kim và các cô, nhưng các cô không cảm thấy đau đớn phản ứng gì cả. Khi các cô quì xuống thì những người lớn cũng quì theo và cầu nguyện chung với các cô. Thiên thần hiện ra và mỉm cười.
Khi hiện ra lần thứ tám, thiên thần nói với các cô: "Tôi đến báo cho các bé biết Đức Trinh Nữ đến viếng thăm. Ngày mai Người sẽ đến thăm các bé dưới tước hiệu Đức Mẹ Núi Carmel."
Tin tức sửng sốt này được phổ biến mau chóng. Ngày hôm sau khu vực Garabandal tràn ngập xe cộ và khách tới. Khoảng 6 giờ chiều, đoàn người rất đông, có hàng chục linh mục và nhiều bác sĩ y khoa, đi theo bốn cô gái tới khe đá. Mọi người đều im lặng, chờ đợi.
Đức Mẹ hiện ra với các cô như đã hứa. Các cô thuật lại Đức Mẹ không giống như mọi phụ nữ khác. Đức Mẹ mặc áo dài trắng phủ hai bàn chân, có áo choàng mầu xanh và triều thiên những ngôi sao vàng kim. Đức Mẹ đẹp tuyệt vời, khôn tả. Tiếng nói của Đức Mẹ du dương không thể tả. Hai bàn tay Đức Mẹ mở và cử động. Đức Mẹ đeo áo Đức Mẹ Núi Carmel. Đức Mẹ hiện ra rõ ràng tự nhiên y như chúng ta.
Có hai thiên thần đứng mỗi bên Đức Mẹ. Các em nói trong các thiên thần này có Tổng Lãnh Thiên Thần Micae và Gabriel. Kế bên hai thiên thần đứng bên tay phải Đức Mẹ, các bé thấy một "con mắt lớn" trong khuôn hình tam giác nằm trong hình vuông mầu đỏ. (Có tài liệu nói đây là "hình vẽ kỳ bí Đông Phương", có người nói đây là "Mắt Thiên Chúa").
Bây giờ khởi đầu cuộc đối thoại dài, trong đó các cô nói với Đức Mẹ về cuộc sống của các cô. Các cô ở trong tình trạng xuất thần, và khuôn mặt trở nên đẹp đẽ rạng rỡ khác thường mà những người ở gần các cô đều thấy. Rất nhiều máy ảnh đã chụp ảnh các em xuất thần và trong suốt buổi thị kiến.
Đức Mẹ hiện ra tại Garabandal hầu như hàng ngày từ ngày đầu năm 1961 tới ngày 13 tháng 11 năm 1965. Tổng cộng có tới hai ngàn lần Đức Mẹ hiện ra tại đây. Các em được thị kiến đã trải qua những theo dõi, thí nghiệm của các bác sĩ y khoa. Bác sĩ Ortiz de Santander, hướng dẫn nhóm bác sĩ y khoa nghiên cứu hiện tượng các em được thị kiến xuất thần tại Garabandal, theo dõi các em 22 lần liên tiếp, xác nhận không tìm thấy điều gì bất bình thường nơi các em. Bác sĩ Puncerneau, đứng đầu hội đồng y khoa về hiện tượng Garabandal, sau khi trắc nghiệm các em xuất thần khoảng 20 lần, đã tuyên bố không có gì giải thích được tính cách bất thường nơi các em. Tất cả những lần các em đến khe đá đón Đức Mẹ đều được thu băng, chụp ảnh, không thiếu một chi tiết.
Một điều đặc biệt nữa là các em được gọi đi đón Đức Mẹ mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Có lần người ta hỏi tại sao lúc này các em chưa đến khe đá, các em đáp: "Chúng tôi chưa được gọi."
Điểm đặc biệt nữa là "Rước Thánh Thể Chúa". Trong lúc xuất thần, người ta thấy cả bốn cô há miệng đưa lưỡi ra. Về sau được cho biết là các cô được thiên thần cho Rước Thánh Thể Chúa Kitô. Ngày 3 tháng 7 năm 1962, Đức Mẹ bảo Conchita: "Phép lạ sẽ xảy ra ngày 18 tháng 7 - như con nói 'phép lạ nhỏ'."
Tin phép lạ ngày 18 tháng 7, 1962, được loan truyền khắp nước, khách hành hương tràn ngập Garabandal. Phép lạ nhỏ xảy ra lúc đêm khuya, giữa trời, dưới ánh trăng và muôn vàn ánh đèn máy thu hình. Khi đến "Chỗ Đồi Thông", nơi Đức Mẹ chỉ, thình lình Conchita quì xuống, đưa lưỡi ra như để rước lễ. Thiên thần bảo cô giữ lưỡi như thế cho tới khi Đức Mẹ hiện ra. Những người ở gần cô thấy trên lưỡi cô bánh Thánh Thể rực sáng. Cô ngậm miệng lại khi Đức Mẹ hiện ra như lời thiên thần bảo. Nhiều người đã thu băng, chụp ảnh bánh Thánh Thể trên lưỡi Conchita.
Đặc biệt khác với những lần Đức Mẹ hiện ra tại các nơi khác, tại đây ít khi Đức Mẹ ban thông điệp về vấn đề thế giới. Thông điệp đặc biệt ngày 18 tháng 6, 1965, được thông báo qua Tổng Lãnh Thiên Thần Micae mà khoảng 2 ngàn người hiện diện gồm người Pháp, Đức, Anh, Ý, Hoa Kỳ và Ba Lan, nghe được:
"Nhiều linh mục đang trên đường trầm luân và kéo theo nhiều linh hồn. Phép Thánh Thể được trao ban cách bất kính. Chúng ta phải tránh sự thịnh nộ của Thiên Chúa bằng những nỗ lực thống hối ăn năn."
Ủy ban được đức giám mục Santander chỉ định, ngày 8 tháng 7 năm 1965, đưa ra thông cáo qua báo chí: "mặc dầu không có điều gì sai về giáo huấn, ủy ban không nghĩ rằng các thông điệp và những khuyến cáo tại Garabandal có bằng chứng khẳng định tính chất siêu nhiên về tất cả những gì xảy ra tại đó."
Để tránh bị hiểu lầm là giáo quyền đã chấp nhận, các linh mục đều bị cấm không được đến Garabandal nếu không có phép.
Ngày 13 tháng 11 năm 1965, Đức Mẹ hiện ra lần chót với Conchita. Conchita được gọi và cô đến Vùng Đồi Thông một mình khi trời mưa tầm tã. Đức Mẹ nói những khó khăn sẽ xảy ra nếu tất cả mọi người không cố gắng sống thánh thiện hơn, và cho biết Đức Mẹ không hiện ra tại đây nữa.
Bốn cô được thị kiến đã trưởng thành và sống đời bình thường. Các cô tuyệt đối từ chối mọi lợi lộc vật chất đem đến do việc các cô được thị kiến Đức Mẹ.
Conchita được Đức Hồng Y Ottaviani gọi đến Lamã. Tháng 1 năm 1966, Conchita được bà mẹ và một linh mục hướng dẫn đã đến Lamã.
Tại Văn Phòng Tòa Thánh, cô được tiếp và hỏi han thân mật suốt 2 giờ 30 phút. Một vài ngày sau, cô được Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp trong buổi triều kiến riêng, trong cuộc đàm thoại Đức Thánh Cha nói với cô: "Cha chúc lành cho con, và cùng với Cha toàn thể giáo hội chúc lành cho con."
Ít lâu sau, một phái đoàn đặc trách của Tòa Thánh được phái tới Garabandal điều tra các lần Đức Mẹ hiện ra, hỏi các nhân chứng. Cuộc điều tra kéo dài một ít lâu, nhưng không đưa ra thông cáo chính thức nào.
----------------------------

Câu chuyện 26
ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI SAN DAMIANO,

Ý ĐẠI LỢI ,NĂM 1964
San Damiano là một làng thuộc vùng núi cách Milan khoảng 70 cây số về phía đông nam.
Rosa Quattrini, được người địa phương gọi là "bà má Rosa." Trong năm 1961, bà bịnh bướu trong ruột, đã nhiều lần điều trị tại bệnh viện Piacenza. Lần nằm bệnh viện cuối cùng, những bướu đó ăn qua vách ruột, phát chứng sưng màng bụng, một bệnh làm đau đớn và chết người. Bà Rosa được cho xuất viện về nhà chờ chết. Lúc đó bà 52 tuổi.
Ngày 29 tháng 9 năm 1961, bà nằm trên giường đau đớn lăn lộn và được bà dì Adele săn sóc. Một phụ nữ tới nhà bà lạc quyên tiền cho cha Pio (Padre Pio), vị tu sĩ danh tiếng ở tu viện Capuchin tại San Giovanni Rontondo, gần Foggia. Người phụ nữ đó trạc hai mươi lăm tuổi, rất đẹp, tóc vàng. Phụ nữ đó mặc áo dài mầu xanh xám cũ kỹ và mang xách tay mầu đen. Bà nói bà từ xa tới.
Người phụ nữ lạ xin phép bà dì Adele để thăm bà Rosa. Khi chuông thánh đường vang lên báo hiệu kinh Truyền Tin, vị phụ nữ yêu cầu bà Rosa cầu nguyện kinh Truyền Tin với bà. Sau đó vị phụ nữ bảo bà Rosa bước ra khỏi giường và đưa tay cho bà Rosa vịn để đứng lên. Lúc đó vị khách đặt tay vào những chỗ đau đớn trên mình bà Rosa. Lập tức bà Rosa được khỏi bệnh - khỏi cả bệnh sưng màng bụng cả bướu ruột. Sự lành bệnh lạ lùng này về sau được y khoa xác nhận là phép lạ.
Khi bà Rosa quì gối mắt đẫm lệ trước mặt vị phụ nữ, Ngừơi bảo bà đi San Giovanni Rontondo gặp cha Pio. Bà Rosa đã thi hành điều này khi bình phục hoàn toàn và quyên góp được tiền.
Khi bà Rosa tới San Giovanni Rontondo, cũng chính vị phụ nữ trẻ đó hiện ra với bà nói cho bà biết Người chính là "Mẹ Hay An Ủi và Mẹ Những Người Đau Khổ."
Chính Đức Mẹ dẫn bà Rosa tới gặp cha Pio rồi biến đi. Theo chỉ dẫn của cha Pio, bà Rosa tận hiến phục vụ các bệnh nhân tại Piacenza.
Khoảng hai năm sau, cha Pio ngưng việc bà Rosa phục vụ bệnh nhân mà bảo bà phải trở về nhà, vì một sứ mệnh quan trọng đang chờ bà. Bà Rosa trở lại San Damiano vào năm 1963, nhưng không có sứ mệnh quan trọng nào rõ ràng cho tới ngày 16 tháng 10 năm 1964.
Hôm đó, trong khi bà Rosa đang nguyện kinh Truyền Tin, bà nghe tiếng từ bên ngoài gọi. Bước ra khỏi nhà, bà gặp Đức Trinh Nữ đứng trên cây lê. Đức Trinh Nữ bảo bà Rosa rằng Người sẽ đến thăm bà mỗi Thứ Sáu và ban thông điệp "để báo cho thế giới."
Để chứng minh sự thực Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ nói sẽ cho bằng chứng, thứ nhất là làm cho cây lê trổ bông trái mùa. Đức Mẹ bảo đào một giếng nước ngay bên cây lê - rồi Đức Mẹ biến đi.
Sáng hôm sau cây lê đầy bông và hương thơm ngào ngạt. Hiện tượng này gây chấn động khắp miền. Trong 17 ngày, hàng ngàn người hiếu kỳ và phóng viên đã đến nhìn những bông lê lạ lùng, hàng trăm tấm ảnh đã được chụp và đăng trên báo chí.
Giếng nước đã được đào ngay và nước giếng chữa được người mù, câm, điếc, bất toại, và những thứ đau đớn khác, và nhiều người ăn năn trở lại.
Vào thứ Sáu kế, Đức Mẹ hiện ra với bà Rosa trên cây lê trong khi nhiều người hiện diện chung quanh bà. Đức Mẹ hiện ra với bà Rosa tại cây lê này vào mỗi thứ Sáu suốt 13 năm liên tiếp.
Khi hiện ra ngày 9 tháng 11 năm 1969, Đức Mẹ nói: "Ba lần Mẹ sẽ mặc áo đỏ như hôm nay. Sau ba lần này, Thiên Chúa Cha Hằng Hữu sẽ thi hành công lý, nếu các con không xin tha thứ, nếu các con không ăn năn thống hối mọi tội lỗi và những phạm thượng này."
Tới đây, bà Rosa, xuất thần. Sau đó bà tường thuật rằng: "Đức Mẹ đến trên cây lê, Người mặc áo toàn mầu đỏ, trong ánh sáng hết sức huy hoàng vĩ đại đến độ chiếu sáng khắp thế giới - có toàn thể các thiên thần và các thánh tử đạo, những vị đã hy sinh mạng sống cho Chúa Giêsu."
Ngày 17 tháng 10 năm 1967, một số người chụp được những tấm ảnh nơi Đức Mẹ hiện ra, trong hình cho thấy một bóng sáng mờ mờ. Bóng đó rõ ràng hình một phụ nữ mặc áo dài và có hào quang bao quanh. Phía dưới chân bóng sáng là những nhánh lá ở ngọn cây lê.
Ngày 8 tháng 12 năm 1967, Đức Mẹ làm phép lạ mặt trời trước mặt khoảng hai ngàn người hiện diện, mà một nửa số này từ Pháp, Thụy Điển, Đức, Nam Tư, Áo, Hoa Kỳ, Canada và nhiều quốc gia Nam Mỹ. Đám đông quan sát mặt trời vũ với những tia sáng muôn mầu rực rỡ trong nửa giờ. Biến cố này đã được nhiều người thu hình.
Ngày 8 tháng 12 năm 1968, hàng chục ngàn người từ khắp nơi hiện diện gần cây lê nơi Đức Mẹ hiện ra với bà Rosa. Có tới 30 linh mục người Pháp đứng gần cây lê.
Tới một lúc, bà Rosa yêu cầu mọi người gấp dù của họ lại (trời mưa liên tiếp từ hôm trước). Lúc đó, cũng như tại Fatima, người ta được chứng kiến nhiều dấu lạ mặt trời. Các dấu hiệu lạ lùng này được nhiều người chụp. Các chuyên gia nghiên cứu các tấm ảnh này, nhưng không thể giải thích các hiện tượng này.
Đức Mẹ hiện ra với bà Rosa gần 700 lần trong 13 năm liên tiếp, chỉ dạy, kêu gọi, phiền trách nhân loại nhiều lắm. Rất tiếc, chúng tôi chỉ sơ lược sau đây.
Qua các thông điệp gởi bà Rosa, Đức Mẹ cho thấy Người đau lòng vì nhân loại lầm lạc bội bạc. Những thông điệp này theo chủ đề: "ma quỉ hung hăng lan tràn khắp nơi trên thế giới." Như thông điệp ngày 25 tháng 3 năm 1970, Đức Mẹ nói:
"Mẹ bị xúc phạm ở đây (thế giới), Mẹ bị khinh bỉ, bị phạm thượng quá mức! Điều này làm cho Mẹ đau lòng vì nhân loại không thấy rằng Mẹ đến để cứu tất cả."
Một số thông điệp về tai ương sẽ xảy ra kháp hoàn cầu nếu nhân loại không ăn năn thống hối mà điển hình là:
"Con gái của Mẹ, con phải báo cho cả thế giới biết mọi người phải cầu nguyện vì Chúa Giêsu không còn sức vác nổi thánh giá nữa. Mẹ muốn tất cả các con, người tốt và người xấu, đều được cứu rỗi. Mẹ là Mẹ Yêu Thương, là Mẹ tất cả mọi người, và các con, các con là con Mẹ. Vì thế Mẹ muốn tất cả các con được cứu độ. Mẹ đến cũng để kêu gọi cả thế giới cầu nguyện vì các hình phạt sắp xảy ra."
Trong thông điệp ngày 9 tháng 9 năm 1969, Đức Mẹ nói: "Các con của Mẹ, các con đừng sợ, vì Mẹ sẽ đến, phải, Mẹ sẽ đến ở giữa các con, và mọi người sẽ thấy Mẹ."
Trong thông điệp này 7 tháng 5 năm 1970, Đức Mẹ hứa: "Mẹ luôn ở đây với các con, ngày đêm. Bao lâu thông tín viên của Mẹ còn sống, Mẹ sẽ luôn ở đây."
Bà Rosa Quattrini, thông tín viên của Đức Mẹ tại San Damiano, từ trần ngày 8 tháng 9 năm 1981, Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ.
Ngày 29 tháng 12 năm 1966, Thánh Bộ Đức Tin tuyên bố việc phổ biến các mạc khải, hiện ra, phép lạ, và đến những nơi có việc thiên đàng hiện ra không còn cần phải được giáo quyền cho phép. Quyết định đó được Đức Thánh Cha Phaolo VI phê thuận.

tải về 0.94 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương