Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Châu Chí Thành



tải về 2.21 Mb.
trang25/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   29

197. Thư trả lời cư sĩ Châu Chí Thành (thư thứ hai)

Năm ngoái cư sĩ từ xa nghe hư danh, từ ngàn dặm đến đây. Quang là ông Tăng vô tri vô thức chỉ biết cơm cháo, đạo đức lẫn tu trì chẳng có mảy may nào, chỉ biết niệm Phật mấy câu, sao có thể làm thầy người khác được? Do ông mang ý kiền thành, chẳng thể không nói đại lược nhằm tỏ rõ, nêu ra những điểm chánh yếu trong đại pháp rốt ráo. Hôm qua nhận được thư, biết cả nhà ông niệm Phật, cần nên biết rằng “mười phương cõi Phật phải đạt đến địa vị Niệm Phật ấy mới có thể vãng sanh”. Phàm phu sát đất chướng sâu huệ cạn, thiện căn kém mỏng, thọ mạng ngắn ngủi, muốn cậy vào tự lực để thoát khỏi tam giới theo chiều dọc, giống như một hạt cát bỏ vào trong nước bèn chìm. Nếu đem tảng đá to nặng mấy vạn cân bỏ lên một cái thuyền; đá tuy lớn nặng, nhưng nhờ có thuyền chở nên chẳng bị chìm! Đủ thấy sự khó - dễ giữa tự lực và Phật lực. Pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực. Muốn liễu sanh tử thì phải niệm Phật, vượt ngang khỏi tam giới tiếp dẫn vãng sanh. Chương [Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật] Viên Thông dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập Tam Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Cư sĩ túc căn sâu dầy, chắc hiểu rõ lý này. Quang già rồi, mục lực quáng lòa, khó viết được chữ bé. Từ nay về sau đừng gởi thư đến nữa. Vẫn mong ông tự cầu tinh tấn (Mồng Sáu tháng Năm năm Dân Quốc 25 - 1936)



198. Thư trả lời cư sĩ Tưởng Đức Trạch
Nay may mắn vì bị bệnh bèn lễ Phật mà được lành, từ ngoại đạo trở lại Phật đạo, nếu chẳng phải là đời trước đã có thiện căn, làm sao được như thế? Hãy nên sanh lòng cảm kích lớn lao, sanh lòng hổ thẹn lớn lao. Tâm hổ thẹn phát sanh, tâm tà vạy sẽ diệt. Hổ thẹn là bước đầu để nhập đạo. Đã muốn học Phật, hãy nên cực lực giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để làm người hiền, người lành trong thế gian ngõ hầu lập được nền tảng. Ấy là vì Phật pháp dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để dạy hết thảy tứ chúng. Nếu chẳng giữ vẹn luân thường v.v… thì khí phận Tam Quy, Ngũ Giới cũng chẳng có, sẽ trở thành tội nhân trong cả Nho giáo lẫn Thích giáo. Dẫu có tu trì, nhưng do tâm bất thiện, lợi ích đâm ra nhỏ tí ti!

Nay đặt pháp danh cho ông là Đức Trạch, nghĩa là dùng tâm đại Bồ Đề tự lợi, lợi người để tu trì Tịnh nghiệp, tự hành, dạy người, sao cho hết thảy mọi người quen biết đều cùng được gội Phật ân. Vì thế, đặt tên là Đức Trạch. Mẹ ông tuổi đã cao, hãy nên khuyên cụ sanh lòng tin phát nguyện, thường niệm Phật hiệu, cầu sanh Tây Phương. Cụ không đọc được kinh sách thì hãy nên kể cho cụ nghe cảnh tượng Tịnh Độ, phương pháp tu trì, ngõ hầu cụ được lìa sanh tử ngay trong đời này. Đấy là “đại hiếu, tôn kính cha mẹ”. Đối với thê thiếp, hãy nên kính trọng như khách, chớ nên quên thân theo đuổi dục lạc! Hãy nên đem ý này nói với cô ta. Đôi bên cùng chú trọng giữ gìn thân thể để con cháu đông đầy, sẽ chẳng đến nỗi bệnh tật, chết yểu, chẳng lo không thể “tề mi giai lão” (hạnh phúc đến già). Con cái hãy nên khéo dạy từ bé. Nếu không, sau này chúng có thể đi vào ngõ rẽ, ấy chính là tự diệt dòng họ của chính mình đấy!

Nay gởi cho ông những sách Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên, Sơ Cơ Tiên Đạo (trong sách ấy có bài thuốc trị bệnh cùi), Chánh Tín Lục, Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Thọ Khang Bảo Giám v.v… Phàm những pháp tu trì, giữ thân đều đã đầy đủ chẳng thiếu, nhưng phải nghiêm túc tu trì mới được. Đối với những pháp luyện đan vận khí của ngoại đạo đã học trước kia đều nên bỏ sạch đi! Cần biết rằng đấy là những pháp để giữ thân, chứ không phải là pháp để liễu sanh tử. Dùng tấm lòng trong sạch, ít ham muốn để giữ gìn cái thân sẽ có ích không bị tổn hại. Dùng luyện đan vận khí để giữ thân nếu sử dụng thích đáng sẽ tăng thêm tuổi thọ, thân thể khỏe mạnh; nhưng nếu dùng sai cách thì mắt lòa, tai điếc, sanh mụn nhọt, ghẻ chốc. Gần đây, những người trong Đồng Thiện Xã276 phần nhiều có những kẻ thân tê liệt, tâm si ngốc, xin đừng vì lợi ích nhỏ nhoi mà vẫn chẳng chịu bỏ [pháp luyện đan vận khí] đi!

Quang già rồi, mục lực, tinh thần, công phu đều không đủ, chớ nên thường gởi thư tới. Do đã có những sách Văn Sao, Thập Yếu, Cứu Kiếp v.v… cố nhiên không cần phải gởi thư hỏi han nữa! Nếu muốn làm bậc đại thông gia thì gởi thư hỏi sẽ chẳng thể đạt được. Thật hết sức khó trở thành bậc đại thông gia. Dẫu có đạt được thì cũng chẳng vì thông suốt lớn lao mà có thể giải quyết xong chuyện sanh tử trong đời này đâu nhé!


199. Thư trả lời cư sĩ Trang Bính Hỏa
Trang Bính Hỏa, pháp danh là Huệ Cự, nghĩa là dùng lửa đuốc trí huệ của Phật pháp để phá trừ hết thảy ngu si tăm tối của ta lẫn người, để mọi người cùng được thoát khỏi hang quỷ hắc ám, cùng đạt đến chánh đại quang minh trong vô thượng Phật đạo, như dùng một cây đuốc để thắp trăm ngàn cây đuốc, đuốc này thắp cho đuốc kia, truyền mãi chẳng cùng tận. Người già sáu mươi tuổi đề xướng tốt nhất.

Cần biết rằng pháp liễu sanh thoát tử chỉ có Phật pháp là được như vậy, nhưng hết thảy các pháp môn đều phải đoạn sạch phiền não Hoặc nghiệp thì mới có thể liễu thoát. Nếu còn mảy may Phiền Hoặc chưa tận thì vẫn ở trong sanh tử y như cũ, do chỉ cậy vào tự lực nên đạt được lợi ích hết sức khó khăn. Chỉ có một pháp Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực, chỉ cần có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một ai chẳng vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh Tây Phương sẽ tự đạt được “không còn sanh tử”. Pháp môn này là pháp môn dễ tu mà dễ thành công nhất trong Phật pháp.



Ông đã sáu mươi tuổi rồi, may mắn gặp được pháp này, hãy rất nên phát tâm đại Bồ Đề (tức là tâm tự lợi, lợi người), lấy thân mình làm gương, khiến cho hết thảy những người đồng đạo đều cùng bỏ ngoại đạo học Phật đạo thì công đức lớn lắm. Phật pháp là pháp công khai, không có chuyện bí truyền. Mặc cho người khác phát tâm, bằng lòng tu cũng được, tu giữa chừng bỏ dở cũng để mặc cho người ấy, trọn chẳng buộc người khác phải thề thốt độc địa này nọ! Muốn biết đại lược, xin hãy đọc trước các sách Gia Ngôn Lục, Văn Sao của Quang v.v… sẽ tự biết, ở đây không viết cặn kẽ.
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1 hết

1 Năm 213 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách chôn Nho sĩ (Sử gọi là “phần thư khanh nho”). Sau khi thống nhất Trung Hoa, nhằm dễ bề thống trị dân chúng, đương nhiên cần phải triệt hạ những tư tưởng có thể gây nguy hại cho oai quyền thống trị của nhà Tần; do vậy, thừa tướng Lý Tư đã xin Tần Thủy Hoàng hạ chỉ thiêu hủy toàn bộ sách vở của bách gia chư tử, những ai lén tàng trữ đều bị xử tử. Đồng thời hạ lệnh chôn sống hơn 460 Nho sĩ và phương sĩ để diệt tận gốc tư tưởng học thuyết cũ.

2 Thời ấy chưa có giấy, sách phải viết lên những thẻ tre hoặc thẻ gỗ, gọi là “Giản Sách”.

3 Dân chúng vẫn lén lút cất giữ sách vở bằng cách chôn giấu trong vách.

4 Tuyết Lư là biệt hiệu của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam.

5 Tức là bộ Ấn Quang Đại Sư Văn Sao Tinh Hoa Lục, tức là tác phẩm tập hợp những câu quan trọng, tinh túy nhất trích từ hai bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên và Tục Biên. Cuốn này do Lý Tịnh Thông biên soạn, do hai vị pháp sư Liễu Nhiên và Đức Sâm cùng giám định. Theo ngu ý, cuốn này chọn lọc không tinh tường bằng bộ Ấn Quang Pháp Sư Gia Ngôn Lục của ông Lý Viên Tịnh.

6 Hoằng Hóa nguyệt san là một tạp chí được phát hành mỗi tháng của Ấn Quang Đại Sư Kỷ Niệm Hội, do cư sĩ Chung Huệ Thành làm chủ bút, pháp sư Đức Sâm làm chủ nhiệm. Số đầu tiên được phát hành vào ngày mồng Một tháng Bảy năm 1941. Đến tháng Năm 1949, tạp chí này được Hoằng Hóa Xã đứng ra chịu trách nhiệm xuất bản và do ông Du Hữu Duy làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Đến tháng Hai năm 1956, tạp chí này được giao cho Hiệp Hội Phật Giáo Thượng Hải quản trị, Du Hữu Duy tiếp tục làm Tổng biên tập. Đến tháng Bảy năm 1958, nguyệt san bị chính quyền Hoa Lục đình bản.

7 Pháp sư Diệu Chân (1895-1967), tên ngoài đời là Vạn Chánh Tài, pháp danh là Diệu Chân, pháp tự là Đạt Ngộ, người huyện Táo Dương, tỉnh Hồ Bắc. Năm lên mười tám tuổi, khi cha mẹ ép phải lấy vợ, Sư vốn mang chí xuất gia liền trốn qua huyện Tùy xin xuống tóc tại chùa Tung Sơn ở Đàm Trấn, rồi đến thọ giới tại chùa Pháp Vũ ở Phổ Đà trong năm ấy. Sau khi thọ Cụ Túc Giới, Sư trở về chùa Tung Sơn, học tập giáo nghĩa với Bổn Sư. Hai năm sau, được sự chấp thuận của Bổn Sư, pháp sư bèn đi hành cước tham học khắp nơi. Sư từng đến chùa Quán Tông núi Tứ Minh để học giáo nghĩa Thiên Thai, được trúng tuyển vào học ở Quán Tông Học Xã của pháp sư Đế Nhàn. Pháp sư Diệu Chân học tại đó ba năm, tốt nghiệp năm 1920. Năm 1923, pháp sư Trì Tùng từ Nhật Bản trở về Trung Hoa, pháp sư Diệu Chân bèn theo học Đông Mật với pháp sư Trì Tùng. Không lâu sau, pháp sư Trì Tùng sang Vũ Hán hoằng pháp; khi ấy, pháp sư Từ Châu đang làm hiệu trưởng Pháp Giới Học Viện tại chùa Hưng Phước ở Thường Thục bèn mời Diệu Chân đến giữ nhiệm vụ Giám Học. Khi ngài Từ Châu vì sức yếu lắm bệnh, từ nhiệm chức vụ hiệu trưởng Pháp Giới Học Viện, xin về Linh Nham dưỡng bệnh, Diệu Chân cũng theo về Linh Nham để săn sóc. Lúc ấy, pháp sư Giới Trần đang làm Trụ Trì chùa Linh Nham. Mùa Xuân năm sau, pháp sư Giới Trần nhận lời về Côn Minh hoằng hóa, pháp sư Từ Châu nhận lời thỉnh của hòa thượng Chân Đạt tiếp nhận chức vụ Trụ Trì Linh Nham; ngài Từ Châu bèn cử Diệu Chân làm Giám Viện. Chính pháp sư Diệu Chân đã định ra chương trình mở Phật Thất quanh năm, thực hiện đúng Tông chỉ do Tổ Ấn Quang đề xướng cũng như chịu trách nhiệm kiến tạo Linh Nham, quản trị tăng chúng. Người ta thường nghĩ Tổ Ấn Quang khai sáng đạo tràng Tịnh nghiệp Linh Nham, chứ thật ra, theo Linh Nham Sơn Chí, đạo tràng này do hòa thượng Chân Đạt khai sáng, rồi tuân theo lời dạy của Tổ Ấn Quang, hòa thượng Chân Đạt biến Linh Nham thành đạo tràng đầu tiên chuyên tu Tịnh nghiệp theo đúng Tông chỉ do Tổ Ấn Quang đề xướng; Tổ Ấn Quang chỉ đóng vai trò Cố Vấn Đạo Sư. Tuy chỉ là Giám Viện, pháp sư Diệu Chân đảm nhiệm phần lớn công việc của một vị Trụ Trì: xây cất, hoạch định chương trình đào tạo, quản chúng, trông nom mọi việc lớn nhỏ trong chùa. Thoạt đầu, để tiện việc in sách, Tổ Ấn Quang rời Phổ Đà đến ở chùa Thái Bình của hòa thượng Chân Đạt. Sau này, do ngày càng bị thư từ gởi tới quá nhiều, Tổ tính lánh phiền bỏ sang Hương Cảng bế quan, hòa thượng Chân Đạt cùng các vị cư sĩ hộ pháp như Quan Quýnh Chi, Trầm Tỉnh Thúc, Triệu Vân Thiều thương nghị, khẩn cầu Tổ hãy về bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu (chùa này cũng do hòa thượng Chân Đạt quản nhiệm, thầy Minh Đạo làm Giám Viện). Đến tháng Hai năm 1937, do sự biến Lư Cầu Kiều, quân Nhật tấn công Trung Hoa, ném bom vùng Hoa Nam, lo lắng cho sự an nguy của Tổ, các vị Chân Đạt, Đức Sâm, Liễu Nhiên, Diệu Chân v.v… van nài Tổ về trú ngụ tại Linh Nham. Từ tạ không được, Tổ chấp nhận dời về sống tại Linh Nham vào tháng Hai năm 1937. Khi Tổ về Linh Nham, Tăng chúng hâm mộ Tịnh nghiệp kéo về xin nhập chúng tại Linh Nham ngày càng đông hơn, trách nhiệm Giám Viện của Diệu Chân vô cùng nặng nề nhưng Sư vẫn châu toàn. Ngày Hai Mươi Bảy tháng Mười (âm lịch) năm 1940, Tổ Ấn Quang đã tám mươi tuổi, khoảng bảy giờ sáng từ căn phòng bế quan chống gậy vào nhà tắm, chợt vấp chân té, mọi người kinh hoảng, mời cư sĩ Ngô Vô Sanh đến khám ngay lập tức, nhưng xét nghiệm thấy Tổ không bị thương tổn gì, tinh thần vẫn minh mẫn như thường. Sáng ngày Hai Mươi Tám, sau khi dùng cơm sáng và cơm trưa như thường lệ, sau bữa Ngọ, Tổ đột nhiên gọi các vị chấp sự trong núi và những cư sĩ đang có mặt trong chùa độ hơn ba chục người, đến nói: “Chức vụ Trụ Trì Linh Nham không thể bỏ trống lâu hơn nữa, hãy thỉnh thầy Diệu Chân đảm nhiệm”. Mọi người vâng lệnh, đề nghị chọn ngày mồng Chín tháng Mười Một làm lễ tấn sơn cho Diệu Chân. Tổ bảo “lâu quá”, cuối cùng mọi người đề nghị ngày mồng Một tháng Mười Một, Tổ nói: “Thôi cũng được!” Hai hôm sau, hòa thượng Chân Đạt từ Thượng Hải tới, Tổ cậy hòa thượng Chân Đạt lo liệu lễ tấn sơn. Rạng sáng ngày mồng Bốn tháng Mười Một, Tổ ngồi ngay ngắn niệm Phật, đến ba giờ chiều, thầy Diệu Chân ghé thăm, Tổ dạy: “Ông nên duy trì đạo tràng, hoằng dương Tịnh Độ, đừng học theo lối kẻ cả”, rồi không nói gì nữa, khe khẽ niệm Phật. Đến năm giờ, Đại Sư mỉm cười an nhiên vãng sanh giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Diệu Chân tiếp tục sự nghiệp duy trì đạo tràng Linh Nham theo đúng giáo huấn của Tổ, Sư còn lập ra Linh Nham Sơn Tự Tây Phương Nghiên Cứu Xã, sau này đổi tên thành Linh Nham Sơn Tự Tịnh Tông Phật Học Uyển để hoằng dương Tịnh Tông và đào tạo tăng tài. Sư còn cho lập nông trường sau Linh Nham để chùa có thể tự túc lương thực, đồng thời tiến hành những công tác từ thiện như nuôi dạy cô nhi, chữa bệnh miễn phí, phát thuốc, thí cháo cho dân nghèo v.v… Khi Trung Quốc Phật Giáo Hiệp Hội thành lập dưới thời Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, đại chúng suy cử Diệu Chân làm Lý Sự Trưởng và phó chủ tịch hội Phật Giáo Giang Tô. Sư viên tịch năm 1967, thọ 73 tuổi, hạ lạp 56 năm.

8 Ông La Ung Hồng Đào chưa hề được đích thân học với Tổ Ấn Quang, chỉ do đọc Văn Sao sau khi Tổ đã mất mà tu tập theo giáo huấn của Ngài nên được gọi là “tư thục đệ tử”.

9 Pháp Sư Đức Sâm (1883-1962) tên thật là Dương Long, người huyện Hưng Quốc tỉnh Giang Tây, có chí xuất gia từ lúc mới lớn, nhưng mãi đến năm 1912 mới được thỏa nguyện xuống tóc với hòa thượng Kim Thái chùa Báo Ân huyện Trường Đinh tỉnh Phước Kiến, rồi thọ Cụ Túc Giới tại chùa Đại Thừa huyện Ninh Đô (Phước Kiến) vào năm 1913. Pháp sư Liễu Nhiên cũng cùng thọ giới trong Tam Đàn Đại Giới này. Năm 1921, Sư cùng với sư Liễu Nhiên kết thành đồng bạn đi tham học các nơi. Năm 1922, đến chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà, gặp được Tổ Ấn Quang, Tổ biết hai người là pháp khí của Tông Tịnh Độ, hết sức khuyên dạy, bảo ban chuyên tu Tịnh nghiệp. Tổ lại còn đích thân đến gặp hòa thượng Văn Chất xin cho hai người được ở lại Tàng Kinh Các chùa Pháp Vũ để tu học và nghiên cứu kinh điển. Từ đấy, hai vị phát nguyện trọn đời theo hầu dưới gối Tổ Ấn Quang. Do giúp Tổ giảo duyệt kinh sách, pháp sư Đức Sâm đọc bản truyện ký về Tổ do cư sĩ Mã Khế Tây biên soạn mà Tổ không thèm đọc, vứt bỏ đó, mới biết Tổng Thống Từ Thế Xương của chánh quyền Dân Quốc thời ấy đã từng ban tặng Tổ một tấm biển ngạch với bốn chữ Ngộ Triệt Viên Minh, bèn đem chuyện ấy hỏi Tổ. Tổ quở: “Ngộ còn chưa được, nói chi viên minh? Mù quáng bịa chuyện, khiến tôi thêm xấu hổ”. Mãi về sau, Đức Sâm thấy trên đại điện tấm biển ấy được Trụ Trì chùa Pháp Vũ cho treo vào một chỗ rất khuất, nếu không chú ý sẽ không thấy được! Năm 1930, Tổ Ấn Quang thành lập Hoằng Hóa Xã thuộc Thượng Hải Tịnh Nghiệp Xã để lưu thông kinh sách, Tổ đã giao cho Đức Sâm trông nom mọi việc tại Tịnh Nghiệp Xã và Hoằng Hóa Xã. Khi Tổ về bế quan tại Tô Châu, Đức Sâm cũng dời Hoằng Hóa Xã từ Thượng Hải về Tô Châu để có dịp luôn theo hầu hạ. Chỉ đến khi chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, đường bưu điện không bảo đảm, vâng theo lời dạy của Tổ, Sư đành ở lại Thượng Hải để lo giảo chánh, ấn tống kinh sách. Suốt hai mươi năm sau đó, Đức Sâm tận tụy đảm trách nhiệm vụ ấn loát, phát hành những kinh sách do Tổ đã giám định hoặc trước tác. Năm 1940, Tổ viên tịch, đại chúng thành lập Ấn Quang Đại Sư Vĩnh Cửu Kỷ Niệm Hội, suy cử sư Đức Sâm làm phó hội trưởng. Năm 1946, Đức Sâm tuổi đã 64, cảm thấy vô thường sắp tới, từ tạ mọi nhiệm vụ trong Hoằng Hóa Xã, bế quan tu Tịnh nghiệp cho đến khi viên tịch vào ngày Mười Sáu tháng Mười năm Nhâm Dần (1962), thọ 81 tuổi, giới lạp bốn mươi chín năm.

10 Tức lá thư gởi Hòa Thượng Quảng Huệ được đánh số 152 trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng.

11 Tô Đông Pha là hậu thân của Ngũ Tổ Giới.

12 Truy Đảnh là cách niệm Phật liên tiếp, chưa dứt câu này đã niệm tiếp ngay câu khác, không xen hở chút nào, giống như câu này gối đầu lên câu kia nên gọi là “truy đảnh”. Cách này chỉ có thể áp dụng trong chốc lát khi vọng tưởng quá mạnh mẽ, không nên niệm trong một thời gian dài sẽ bị tổn khí thành bệnh.

13 Tam Huyền, Tam Yếu là phương pháp được Tông Lâm Tế áp dụng để tiếp dẫn học nhân. Tam Huyền là:

1) Thể Trung Huyền: Lời nói hoàn toàn không bóng bẩy, chỉ căn cứ theo chân tướng và đạo lý của sự vật để diễn tả.

2) Cú Trung Huyền: Lời nói chân thật chẳng dính dấp vào tình thức phân biệt, không câu nệ vào ngôn ngữ với mục đích khiến người học hiểu được ý nghĩa huyền diệu.

3) Huyền Trung Huyền (Dụng Trung Huyền): Những câu nói huyền diệu xa lìa hết thảy những đối đãi và gông cùm ngôn ngữ.

Tam Yếu là “lời lẽ không phân biệt, tạo tác; vào thẳng chỗ huyền áo, dứt bặt ngôn ngữ”.


14 Minh Tạng, gọi đủ là Minh Bản Đại Tạng Kinh, hoặc Minh Bản, gồm có năm loại:

1) Hồng Vũ Nam Tạng (Sơ Khắc Nam Tạng), được khắc theo lệnh của Minh Thái Tổ, mãi cho đến năm đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (1402) mới xong, có thuyết nói là tới năm Hồng Vũ 31 (1398) đã khắc xong. Bản khắc xong được giữ tại chùa Báo Ân ở Nam Kinh, gồm 1.612 bộ kinh. Bản này cũng được bảo tồn tại chùa Khoái Hữu thuộc quận Phong Phố, Nhật Bản.

2) Vĩnh Lạc Nam Tạng, khắc từ năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1412) đến năm Vĩnh Lạc 15 (1417) mới xong, bản này cũng khắc tại Nam Kinh, nội dung giống bản Hồng Vũ nhưng được giảo chánh cẩn thận hơn và tăng thêm một số kinh nữa thành 1.625 bộ kinh, chia thành 6.331 quyển.

3) Vĩnh Lạc Bắc Tạng: cũng được khắc theo lệnh của Minh Thành Tổ, bắt đầu khắc vào năm Vĩnh Lạc 18 (1420) mãi cho đến năm Chánh Thống thứ năm (1440) đời Minh Anh Tông mới xong, gồm 1.615 bộ, tức là đã lược bỏ một số trước tác ra khỏi tạng. Về sau, tuân lệnh của mẹ vua Minh Thần Tông, đưa thêm 35 bộ như Hoa Nghiêm Huyền Đàm Hội Huyền Ký v.v… vào tạng, trở thành 1.660 bộ kinh sách.

4) Vũ Lâm Tạng: được khắc in dưới niên hiệu Gia Tĩnh, được khắc ván tại Vũ Lâm tỉnh Chiết Giang, tạng này nay đã thất truyền.

5) Lăng Nghiêm Tự Bản, còn gọi là Vạn Lịch Bản, Mật Tạng Bản, Gia Hưng Bản, Kính Sơn Bản v.v… được khắc in vào năm Vạn Lịch 14 (1586), do ngài Mật Tạng Đạo Khai phát nguyện đứng ra khắc in tại Kính Sơn (Chiết Giang), cuối cùng đem bản khắc về in tại chùa Lăng Nghiêm huyện Gia Hưng (Chiết Giang), hoàn thành cuối đời Vạn Lịch (1620). Bản này được lưu truyền rộng rãi nhất. Sau này, vào cuối đời Thanh còn bổ sung thêm những trước tác được triều đình chấp thuận cho nhập tạng gọi là Tục Tạng, rồi Hựu Tục Tạng gồm 185 bộ nữa. Như vậy, bản Minh Tạng được Tổ Ấn Quang nói đến ở đây chính là phần Tục Tạng của tạng kinh này.



15 Lưu Ly Xưởng là tên một “phố văn hóa” nổi danh ở Bắc Kinh, dọc theo con đường này toàn là những cửa tiệm chuyên bán các sản phẩm văn hóa và sách vở rất có giá trị.

16 Tục Thể là một lối viết chữ Hán cho nhanh gọn phổ biến trong dân gian. Lối viết này đã hình thành từ thời Lục Triều, phổ biến nhất vào thời Tùy - Đường. Tục Thể về sau được áp dụng chủ yếu trong công cuộc xây dựng chữ Hán giản thể tại Hoa Lục. Đặc điểm của Tục Thể là bỏ bớt nét nếu có thể, chẳng hạn chữ Đáp (答) được viết thành 荅, Thư (書) viết thành 书, hoặc sử dụng những chữ có âm gần giống nhưng ít nét hơn để thay thế như Đăng (燈) viết thành 灯, Phần (墳) viết thành 坟.

Có hai cách hiểu chữ Phá: một là không hoàn chỉnh, hai là vượt ra ngoài khuôn khổ quy định một cách táo bạo, sáng tạo. Đa phần chữ Phá Thể được dùng với ý nghĩa thứ hai. Theo Thư Pháp Tiểu Từ Điển (Tạ Đức Hoa, Tôn Đôn Tú biên soạn, Bắc Kinh Xuất Bản Xã ấn hành) thì: “Phá Thể là những chữ viết theo lối Tục Thể, hoặc vận dụng âm nghĩa giống nhau mà thành. Hoặc là biến thể của lối Hành Thư, do Vương Hiến Chi đời Tấn (con của Vương Hy Chi) biến đổi lối viết Hành Thư, sáng chế một lối viết riêng, biến đổi tự dạng”. Nói cách khác, Phá Thể là những kiểu viết tung hoành, bay bướm, tùy hứng không tuân thủ những nguyên tắc của những lối chữ truyền thống như Chân, Hành, Triện, Thảo, Lệ đến nỗi nếu không nghiên cứu về lối chữ này sẽ không thể đọc được!

Thiếp Thể là một lối viết chuyên biệt để dành viết thiếp, gần giống với Phá Thể.

Cổ Thể là lối viết chữ Hán theo thời cổ, thường là những chữ được viết thời Tần - Hán, thường rất khác với chữ hiện thời, chẳng hạn chữ Nhân (人) viết theo lối Cổ Thể sẽ giống như chữ Nhập (入), còn Nhập lại viết giống như chữ Bát (八).



17 Tứ Tổ Pháp Chiếu có soạn một tác phẩm mang tựa đề Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi Quỹ (thường gọi tắc là Ngũ Hội Pháp Sự Nghi), ba quyển, nhưng bị thất truyền từ lâu. Mãi đến năm 1908, ông Pelliot người Pháp tìm được hai quyển trung và hạ của tác phẩm này tại Đôn Hoàng, gồm hai mươi mốt bài tán tụng. Theo truyền thuyết, Tứ Tổ từng được Văn Thù Đại Sĩ dạy cách niệm Phật theo Ngũ Hội khi triều bái Ngũ Đài, nhưng cách này đã thất truyền từ lâu; người đời sau phỏng theo những lời dạy trong bộ Ngũ Hội Pháp Sự Nghi chế ra lối niệm Phật gồm năm khúc, từ chậm rãi uyển chuyển đến nhanh dần, âm thanh cao dần lên, đến hội thứ năm chỉ còn niệm bốn chữ hồng danh. Sở dĩ chia thành ngũ hội là nhằm thể hiện ý nghĩa trừ Ngũ Khổ, đoạn Ngũ Cái, tịnh Ngũ Nhãn, đủ Ngũ Căn, thành Ngũ Lực, đắc Bồ Đề, giải thoát trọn vẹn… Giai điệu của Ngũ Hội niệm Phật quá du dương nên dễ khiến người nghe say đắm nhạc điệu, không chú trọng nhiếp niệm. Do giai điệu Ngũ Hội Niệm Phật được lưu hành cho tới hiện thời vẫn là mạo danh Tứ Tổ nên bị Tổ chê trách.

18 Đây là mười tám món vật tùy thân của tăng sĩ hành hạnh Đầu Đà thường mang theo bên mình: Nhành dương (để chà răng cho miệng thơm sạch, tương ứng bàn chải đánh răng hiện thời), tháo đậu (những loại bột đậu có chất nhờn nhẹ hòa với đất sét để kỳ cọ chất bẩn trên thân khi tắm gội, rửa ráy, giống như xà-phòng), ba áo ca-sa, bình đựng nước, bát, ngọa cụ (đồ trải để nằm hay ngồi), tích trượng, lò hương, đãy lọc nước, khăn tay, dao (để cạo tóc, cắt móng tay, cắt y v.v…), đá lửa và bùi nhùi (để đánh lửa khi cần dùng), nhíp nhổ lông mũi, giường do những sợi dây bện thành (không phải võng), quyển kinh, giới bổn, tượng Phật, tượng Bồ Tát.

19 Đây là một cách giải thích chú Đại Bi không biết phát xuất từ thời nào, mỗi câu trong bài chú Đại Bi tương ứng với một hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc một vị Bồ Tát, Thanh Văn nào đó, chẳng hạn câu “Ma-ha Ca-rô-ni-ca-da” là Mã Minh Bồ Tát hiện thân, “Nam-mô tất-cát-lật-đỏa y mông” là Quán Thế Âm hiện thân Long Thọ Bồ Tát, câu “địa rị ni” là Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân Sư Tử Vương Bồ Tát, “bồ-đà-dạ bồ-đà-dạ” là Quán Thế Âm hiện thân tôn giả A Nan v.v…

20 Trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Quán Thế Âm Bồ Tát tự bạch nhân duyên như sau: “Bạch đức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến con và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa đảnh đầu con mà bảo: ‘Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích an vui lớn’. Lúc đó, con mới ở ngôi Sơ Địa vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên Đệ Bát Địa. Bấy giờ con rất vui mừng, liền tự phát thệ rằng: ‘Nếu trong đời vị lai con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt’. Khi con phát thệ rồi, ngàn tay ngàn mắt đều hiện nơi thân…” (theo bản dịch của hòa thượng Thiền Tâm)

21 Tứ Minh tôn giả (960-1028), chính là ngài Tri Lễ, pháp hiệu Pháp Trí, một vị cao tăng Tông Thiên Thai. Ngài quê ở Tứ Minh (thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang), lên bảy tuổi mất mẹ bèn phát nguyện xuất gia, mới mười lăm tuổi đã được đặc cách thọ Cụ Túc Giới, năm hai mươi tuổi sang chỗ ngài Bảo Vân Nghĩa Thông học Thiên Thai Giáo Quán, chỉ một buổi đã tinh thông. Năm Chí Đạo thứ nhất (995), ngài được thỉnh về làm Trụ Trì Bảo Ân Tự núi Tứ Minh, ba năm sau chùa được sắc tứ là Diên Khánh Tự. Sư hoằng pháp giảng kinh tại đây hơn bốn chục năm, khắp cả vùng Đông Nam Trung Hoa đều theo học. Sư cùng với đại sư Tuân Thức là những nhân vật chủ chốt của Thiên Thai Xuất Gia Phái, đối lập với Sơn Ngoại Phái của Ngộ Ân, Hồng Mẫn, Nguyên Thanh v.v… Sư bình sinh dốc sức biên soạn sám pháp và giảng các bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (bảy lần), Pháp Hoa Văn Cú (tám lần), Ma Ha Chỉ Quán (tám lần), Đại Niết Bàn Kinh Sớ (một lần), Kim Quang Minh Huyền Nghĩa Sớ (mười lần), Quán Âm Biệt Hành Huyền Sớ (bảy lần), Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ (bảy lần). Sư chuyên tu Pháp Hoa Sám mỗi kỳ tu tập là hai mươi mốt ngày đêm hành trì liên tục. Sư còn chuyên tu Di Đà Sám Pháp năm mươi lần. Sư từng đốt ba ngón tay cúng Phật, mỗi năm Tổ chức pháp hội niệm Phật thí giới. Sư trước tác rất nhiều, hiện còn giữ được các bộ Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Ký, Giải Báng Thư, Đại Bi Sám Nghi, Tu Sám Yếu Chỉ, Quang Minh Sám Nghi, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Dung Tâm Giải, Quán Âm Biệt Hành Huyền Nghĩa Ký, Quán Âm Biệt Hành Sớ Ký, Thích Thỉnh Quán Âm Sớ Trung Tiêu Phục Tam Dụng, Vấn Mục Nhị Thập Thất Điều Đáp Thích, Nhị Thập Vấn, Biệt Lý Tùy Duyên, Nghĩa Lệ Cảnh Quán v.v…

22 Vị Tăng rời chúng đi nơi khác gọi là “khởi đơn” hay “trừu đơn”. Khi xưa Tăng chúng chỉ nằm trên những miếng ván kê thành hàng, vừa đủ một người nằm nên gọi là Đơn.

23 Còn gọi là “kế thừa y bát”, tức vị thầy thấy trong số các đệ tử hoặc tăng sĩ đến nhập chúng tu học, người nào lãnh hội được giáo pháp mình đang truyền thụ, sẽ phó chúc cho vị đó nhận lãnh vai trò đứng đầu chúng, tiếp tục hoằng truyền giáo nghĩa (Có thể tạm hiểu thô thiển là giống như tiếp nhận chức chưởng môn trong các phái võ).

24 Tạng Giáo (gọi cho đủ là Tam Tạng Giáo), là một trong bốn giáo (Tứ Giáo) do Tông Thiên Thai thành lập, tức là tên gọi khác của Tiểu Thừa. Sách Tứ Giáo Nghĩa quyển một, giảng: “Giáo này hiểu rõ lý bốn Thánh Đế nhân duyên sanh diệt, chủ yếu dạy hàng Tiểu Thừa, kiêm dạy hàng Bồ Tát. Gọi là Tam Tạng Giáo thì một là Tu Đa La Tạng, hai là Tỳ Ni Tạng, ba là A Tỳ Đàm Tạng… Ba tạng này thuộc về Tiểu Thừa”. Như vậy, giáo này chú trọng đến những giáo pháp Tiểu Thừa trong Tam Tạng kinh điển, cụ thể hơn là Tứ A Hàm của Kinh Tạng, Bát Thập Tụng Luật của Luật Tạng và các pháp nghĩa được phân biệt bởi đức Phật và các Thanh Văn đệ tử.

25 Theo Tông Thiên Thai, Viên có nghĩa là viên mãn hoàn bị chẳng thiên lệch. Theo Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết, quyển một, thì tuy những giáo pháp được nói trong Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát Nhã đều là viên đốn nhưng chưa phải là viên đốn triệt để, chỉ có kinh Pháp Hoa là viên đốn triệt để. Theo Ma Ha Chỉ Quán, trong Viên Giáo lại chia thành bốn môn, tức:

1) Hữu Môn: Quán Kiến Hoặc, Tư Hoặc đều là giả, nhưng chúng chẳng lìa ngoài pháp giới, đầy đủ hết thảy Phật pháp.

2) Không Môn: Quán hết thảy pháp chẳng tại nhân, chẳng thuộc duyên, Ngã và Niết Bàn đều là không.

3) Diệc Hữu Diệc Không Môn: Không chính là Giả, Giả chính là Không.

4) Phi Hữu Phi Không Môn: Kiến Hoặc, Tư Hoặc chính là pháp tánh, do vậy Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều chẳng phải có (Phi Hữu). Pháp Tánh chính là Kiến Hoặc, Tư Hoặc nên pháp tánh chẳng phải là Không (Phi Không).


26 Ô Vưu là tên núi, đồng thời là tên chùa. Chùa này cũng thuộc Tứ Xuyên, gần với chùa Lăng Vân, nơi có Lăng Vân Đại Phật (Lạc Sơn Đại Phật). Chùa được xây trên đảnh núi Ô Vưu vào thời Đường, mang tên là Chánh Giác Tự, đến đời Bắc Tống đổi thành Ô Vưu Tự.

27 Có hai cách hiểu chữ Thất Chi:

1) Thân khẩu thất chi: Tức những điều ác nơi thân và miệng (ba điều nơi thân tức Giết - Trộm - Dâm và bốn điều nơi miệng, tức nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều và ác khẩu).

2) Bảy tụ (nhóm) giới trong giới luật tỳ-kheo, tức Ba-la-di, Tăng-tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề, Ðề-xá-ni, Ác-tác, Ác-thuyết.


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   21   22   23   24   25   26   27   28   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương