2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Các nghiên cứu ngoài nước
Nhiều nghiên cứu học thuật đã xác định một số
cách ở đó chu kỳ kinh doanh tác động đến sự chia
sẻ lao động bán thời gian (Delsen, 1998). Theo nhà
tuyển dụng, hai tác động có thể đóng vai trò quan
trọng. Thứ nhất, có sự tác động hỗn hợp. Như chú
ý bởi Lester (1999), sự dịch chuyển giữa hai nhóm
lao động tăng lên bởi vì ngành nghề với sự chia sẻ
phần lớn lao động trọn thời gian, ví dụ như ngành
sản xuất và kiến trúc, thường chịu tác động sớm
hơn và bị tác động mạnh hơn bởi chu kỳ kinh
doanh hơn những ngành nghề khác. Vì thế, việc
làm bán thời gian có thể phản ứng nhẹ với tác động
của chu kỳ kinh doanh hơn tổng số việc làm. Thứ
hai, sự thay đổi trong cùng ngành nghề có thể đẩy
việc làm bán thời gian trong thời gian suy thoái vì
người tuyển dụng cung cấp việc làm bán thời gian
như là một cách để điều chỉnh giờ làm việc trong
suốt chu kỳ, trong khi vẫn tiếp tục đáp ứng giờ làm
việc (Delsen 1998). Điều này cho phép người lao
động vào đúng vị trí và người tìm việc tránh được
thất nghiệp dài hạn. Vì thế, trong suốt thời gian suy
thoái, nhà tuyển dụng có thể giảm số giờ làm việc
trên nhóm nhân sự hiện tại hoặc thuê công nhân
mới làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, như khuyến
nghị bởi Lester (1999) cho Úc và Faber (1999) cho
Mỹ, người ta không nên nghĩ rằng hầu hết lao động
trọn thời gian chuyển sang việc làm bán thời gian ở
vị trí hiện tại.
Ngược lại, người lao động nên dịch chuyển
trong thời gian thất nghiệp. Hơn nữa, khi nhà tuyển
dụng sử dụng lao động bán thời gian để giám sát
người lao động ở vị trí trọn thời gian (Houseman
2001) và doanh nghiệp có thể có nhu cầu nhiều hơn
và hạn chế rủi ro phải thuê nhân viên mới trong
khoảng thời gian xấu nhất mà họ có thể thích tuyển
dụng có hệ thống những lao động bán thời gian
hơn lao động trọn thời gian trong thời điểm kinh tế
tăng trưởng chậm. Trong thời gian tăng trưởng, nhà
tuyển dụng có thể cung cấp nhiều hợp đồng trọn
thời gian cho công nhân bán thời gian để có thể
tăng nguồn lợi cho lực lượng lao động, như trường
hợp của Thuỵ Điển những năm 1980s (Sundström
1991).
Như khẳng định bởi Doudeijns (1998), những
khó khăn tài chính để tìm kiếm việc làm có tác
động quan trọng lên quyết định làm thêm, trong khi
công việc làm thêm không quyết định thu nhập
cao. Ngược lại, những thuận lợi trong công việc,
thắt chặt các tiêu chí đánh giá bắt buộc và quản lý
nâng cao quá trình thực hiện của họ có thể làm
giảm bớt các khiếm khuyết tài chính.
2.2.2 Các nghiên cứu trong nước
Theo tác giả Nguyễn Thị Như Ý (2012) trong
nghiên cứu về khảo sát nhu cầu làm thêm của sinh
viên của Trường Đại học Cần Thơ. Sử dụng phân
tích phân biệt, kết quả điều tra cho thấy có 10 nhân
tố ảnh hưởng đến nhu cầu đi làm thêm của sinh
viên. Sau khi phân tích nhân tố tác giả gom nhóm
lại được 3 nhóm nhân tố đó là kinh nghiệm - kỹ
năng, chi tiêu của sinh viên và kênh thông tin tìm
việc. Bên cạnh đó, Trần Thị Ngọc Duyên và Cao
Hoài Thi (2009) trong nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định làm việc tại doanh nghiệp
nhà nước. Kết quả cho thấy 8 nhân tố ảnh hưởng
đến quyết định làm việc tại các doanh nghiệp nhà
nước như: cơ hội đào tạo và thăng tiến, thương
hiệu và uy tín tổ chức, sự phù hợp giữa cá nhân-tổ
chức, mức trả công, hình thức trả công, chính sách
và môi trường tổ chức, chính sách và thông tin
tuyển dụng, gia đình và bạn bè.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |