MỤc lục lời mở đầu Chương I : Tình hình thu hút fdi,vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam


Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện thực hiện AFTA



tải về 255.84 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu27.07.2016
Kích255.84 Kb.
#7136
1   2   3

2. Giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong điều kiện thực hiện AFTA

2.1. Nhóm giải pháp thích ứng với đòi hỏi của AFTA

2.1.1. Cải thiện môi trường pháp luật và thủ tục hành chính

Tham gia AFTA cũng có nghĩa là các quốc gia ASEAN phải tạo thuận lợi hóa cho hoạt động thươngmại. Chỉ riêng khía cạnh này thôi thì các quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng đã phải có sự điều chỉnh cho phù hợp và thống nhất trong toàn khu vực và đơn giản hóa thủ tục cho lưu chuyển hàng hóa trong khu vực. Theo đòi hỏi trên, thì những quy định về luật pháp và thủ tục hành chính cũng sẽ phải điều chỉnh, tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ rõ ràng vừa mang tính ổn định vừa mang tính linh hoạt trong thời gian dài để nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư cả trong nước cũng như nước ngoài, bổ sung các luật mới như luật về cạnh tranh, bảo hiểm, thị trường chứng khoán… tạo môi trường bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

Như vậy Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và thủ tục cấp giấy phép đầu tư để tránh phiền hà, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Tạo chủ trương “một cửa, một dấu” chứ không phải là “một cửa, nhiều khóa”. Thêm vào đó cần phải xóa bỏ các ràng buộc các nhà đầu tư về việc phải xác định rõ một địa điểm đầu tư nhất định ngay từ đầu, mà cứ xét duyệt dự án sau đó để nhà đầu tư tự tìm địa điểm xây dựng, triển khai và báo cáo lại. Các cơ quan quản lý Nhà nứoc chỉ nên cần báo cáo lại chứ không nhất thiết phải phê duyệt lại mỗi khi dự án có thay đổi. Như đã phân tích ở trên việc liên doanh của Việt Nam lại chủ yếu với doanh nghiệp Nhà nước và có sự phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, do đó cần thiết phải đa dạng hóa và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và tiến tới cho phép các khu vực kinh tế được bình đẳng khi tham gia liên doanh, làm ăn với nước ngoài.

Việc hoàn thiện luật pháp và cải cách các thủ tục hành chính được nhấn mạnh – mặc dù đây không còn là một vấn đề mới đối với Việt Nam và các nhà nghiên cứu, song nó có tầm quan trọng bởi:

Thứ nhất, nó giải quyết những bất cập trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng và thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư. Bởi như đã phân tích, do cạnh tranh trong thu hút FDI thời gian tới là rất lớn, đồng thời với những khó khăn và thách thức lớn trong quá trình tham gia AFTA, nếu chính phủ không có những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực này thì sẽ cónguy cơ luồng FDI chuyển sang các nước khác trong ASEAN. Kinh nghiệm này ở trong nước thời gian qua đã cho một kiểm chứng rất rõ ràng. Khi mà thị trường trong nước là thống nhất với các doanh nghiệp ở tất cả các tỉnh thành thì địa phong nào trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư, địa phương nào đơn giản hóa thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho các nhà đầu tư thì địa phương đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Từ thực tế trong nước cũng sẽ thấy ngay khi hội nhập AFTA thì vấn đề môi trường luật pháp và thủ tục hành chính là quan trọng đến mức nào.

Thứ hai, việc cải cách thủ tục hành chính và môi trường luật pháp cũng là một điều kiện cần thiết chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế - thương mại trong khu vực, nhằm tạo ra sự đồng nhất và thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam cũng như các nhà doanh nghiệp đến từ ASEAN. Trên cơ sở đó, sẽ tăng cường và củng cố thêm các quan hệ thương mại và đầu tư nội bộ ASEAN, phát huy những điểm mạnh về tính thống nhất trong cùng một khu vực mậu dịch tự do.

2.1.2. Hỗ trợ những ngành có tiềm năng phát triển và chịu sức ép của AFTA

Theo phân tích trong những nội dung trên, Việt Nam sẽ có một số ngành mà lợi thế so sánh hiện ẫn chỉ ở dạng tiềm năng, song khi thực thi AFTA thì sẽ có nguy cơ chuyển sang các nước khác trong ASEAN theo sơ đồ chuyên môn hóa sản xuất trong khu vực dưới tác động của AFTA. Đặc biệt Việt Nam phải hết sức chú trọng tới một số ngành mà hiện Chính phủ đang rất mong muốn phát triển trong chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước như một số ngành: điện tử tin học; thép; ngành cơ khí… Những ngành này, nếu Chính phủ không có những giải pháp hỗ trợ tích cực và hiệu quả thì sẽ rất khó có thê thu hút thêm FDI để phát triển. Bởi thời gian được bảo hộ của những ngànhnày không còn nhiều. Lợi thế duy nhất của Việt Nam trong những ngành này hiện nay dường như vẫn chỉ là lực lượng lao động rồi rào, rẻ và tiếp thu nhanh công nghệ mới. Song các nước trong khu vực, đặc biệt là ASEAN 4 đã đi trước Việt Nam trong những ngành này và hiện nay họ đang có ưu thế về tài chính, khả năng quản lý, và đặc biệt là công nghệ sản xuất.

Ví dụ: trong ngành điện tử tin học, hiện Việt Nam chủ yếu là thực hiện các công đoạn lắp ráp. Trong khi đó, các nước ASEAN 4 đã tiến hành sản xuất được khá nhiều linh kiện cho ngành này. Như vậy, rõ ràng là họ có ưu thế hơn Việt Nam trong việc hướng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư sang nước họ để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất linh kiện tiến tới sản xuất toàn bộ các sản phẩm này tại đất nước họ. Và nếu điều kiện này thực sự xảy ra thì Việt Nam kể như đã mất cơ hội để phát triển toàn diện một ngành sản xuất quan trọng đối với đất nước không chỉ về mặt hiệu quả kinh tế mà ngành này đem lại, mà còn là những vấn đề về công nghệ, an ninh,… Cũng với những lập luận như vậy, thì e rằng Việt Nam nếu cố gắng như hiện nay, may ra cũng chỉ được tiếp tục thực hiện các công việc lắp ráp sản phẩm.

Bởi vậy, ngay từ bây giờ, Chính phủ cần nhanh chóng có những giai pháp mạnh mẽ hơn nữa nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào việc xây dựng những cơ sở ban đầu cho những ngành này, đồng thời biến nhưng lợi thế tiềm năng thành hiện thực để có thể tiếp tục thu hút FDI vào những ngành này ngay cả sau khi đã kết thúc lịch trình thực hiện CEPT. Muốn vậy, cần thiết phải huy động nỗ lực của nhiều ngành, nhiều cấp để cùng hỗ trợ về chính sách, tài chính, tổ chức và cả việc xúc tiến đầu tư, … để nhanh chóng phát triển những ngành mà nguy cơ Việt Nam sẽ để mất trong sơ đồ phân bổ sản xuất trong khu vực các nước ASEAN.

Đối với một số ngành sản xuát sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao, giá rẻ, Việt Nam có thể tính tới những chính sách mạnh dạn trong việc khuyến khích các nhà đầu tư Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam. Bởi hiện nay Trung Quốc đang rất có lợi thế trong việc sản xuất những sản phẩm này. Mặt khác, xét về mặt địa lý, giao thông, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành một trung tâm sản xuất mang tính “bàn đạp” để các nhà đầu tư Trung Quốc thâm nhập thị trường ASEAN khi mà quá trình tự do hóa thương mại ASEAN – Trung Quốc còn có một đội trễ nhất định so với AFTA. Tuy nhiên, để chớp được thời cơ thì vấn đề là các chính sách phải được thực hiện nhanh và thật mạnh dạn. Bởi một số nước ASEAN phát triển hơn đang có xu hướng đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại với việc thực hiện mở cửa thị trường theo các hiệp định song phương bên cạnh các hiệp định đa phương – thường có thời gian và tốc độ mở cửa chậm hơn. Trên thực tế thì Việt Nam vì là nước kém phát triển trong khối nên hay đòi hỏi thời gian mở cửa thị trường chậm hơn các nước khác. Và nếu như các hiệp định song phương hay đa phương hẹp (ASEAN + Trung Quốc) được thực hiện trước thì Việt Nam sẽ mất cơ hội thu hút FDI phục vụ cho việc tăng cường phát triển những ngành sản xuất phù hợp với chiến lược công nghiệp hóa của đất nước.

2.2 Nhóm giải pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI

Trong các nội dung trước ,luân án đã phan tích và khẳng định,hội nhập AFTA, Việt Nam sẽ có nhiều khó khăn trong cạnh tranh thu hút FDI so với các nước ASEAN phát triển khác , đặc biệt là sự thu hút FDI vào kĩnh vực công nghiệp chủ chốt . Vì vậy , đẻ đẩy mạnh thu hút FDI trong thời gian tới , khi Việt Nam đã chính thức hội nhập hoàn toàn với AFTA, thì rất cần đẩy mạnh một số giảI pháp tăng cường cạnh tranh thu hút FDI vào Việt Nam.



2.2.1 Cải cách thị trường tài chính

Để thu hút nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả cả vốn trong nước và vốn nước ngoài thì một điều cần thiết là phải tạo ra được một thị trường vốn ổn định, một hệ thống ngân hàng hoàn chỉnh. Muốn vậy, Nhà nước phải nhanh chóng phát huy vai trò của thị trường chứng khoán, lành mạnh hóa hệ thống tài chính góp phần chu chuyển vốn từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại được thuận tiện. Như vậy, Nhà nước cần phải soạn thảo và đưa ra luật thị trường chứng khoán, đào tạo con người có đủ khả năng và trình độ hoạt động tốt trên thị trường và hệ thống tài chính, nhanh chóng có biện pháp đẩy nhanh cổ phần hóa các doanh nghiệp. Ngoài ra Chính phủ không nên để hình thức đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động chỉ trên cơ sở công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn mà nên để các công ty này tự lựa chọn hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay theo hình thức công ty cổ phần. Như vậy vừa tạo điều kiện tốt cho thị trường chứng khoán ra đời, vừa tăng thêm vốn bổ sung của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia đóng gops cổ phần, đồng thời tạo thuận lợi và mở rộng thêm một kênh nữa cho thu hút FDI. Bởi nếu tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài bị khống chế khi mua cổ phần thì thứ nhất nó sẽ hạn chế nguồn đầu tư của họ, và thứ hai là hình thức này chỉ được coi là đầu tư gián tiếp. Còn nếu tỷ lệ sở hữu vốn của họ trong các Công ty cổ phần đạt mức khống chế thì họ sẽ trở thành nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài và quyền lợi, trách nhiệm của họ có thể được thi hành theo luật đầu tư trực tiếo nước ngoài. Như vậy, mức độ ổn định của đồng vốn có thể sẽ cao hơn, đồng thời đây cũng là một giải pháp biến các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trở thành một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài một cách nhanh chóng. Như vậy thì dòng FDI đổ vào trong nước lại có nhiều thuận tiện hơn, ít thủ tục rườm rà hơn do họ được đầu tư qua kênh thị trường chứng khoán – một kênh đầu tư có nhiều triển vọng thuận lợi, nhanh chóng hơn cách làm “truyền thống”. Bởi các nhà đầu tư sẽ không phải bận tâm nhiều đến các thủ tục thành lập Công ty, thuê đất, giải phóng mặt bằng,… những thủ tục mà hiện được coi là gây lãng phí khá nhiều tiền bạc và thời gian của các nhà đầu tư. Không những thế nó còn ảnh hưởng đến hình ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam và gây ức chế cho các nhà đầu tư. Điều này chắc chắn sẽ không có lợi cho Việt Nam nếu tiếp tục kéo dài. Về mặt tài chính Việt Nam cần có biện pháp để các nhà đầu tư tiếp cận một cách dễ dàng với nguồn ngoại hối hơn vì ngoại hối chính là dòng máu nuôi sống hoạt động đầu tư mà một khi khó khăn trong việc tiếp cận sẽ làm cho dự án không thể hoạt động trong thời gian lâu dài được.

Thêm vào đó là cần xóa bỏ những quy định về việc trả lương cho lao động Việt Nam bằng ngoại tệ điều đó sẽ làm cho nhà đầu tư giảm được chi phí, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề sử dụng nhiều lao động. Từ khủng hoảng kinh tế khu vực đã cho thấy cần phải thực hiện một chính sách về tỷ giá hối đoái sao cho có hiệu quả.

2.2.2. Hoàn thiện hơn các loại hình dịch vụ tư vấn đầu tư

Các nhà đầu tư vẫn phàn nàn về chi phí kinh doanh ở Việt Nam cao, tiến độ hoạt động trong khu công nghiệp – khu chế xuất còn quá thấp. Do vậy, Nhà nước nên xem xét và giải quyết những thắc mắc của nhà đầu tư. Thêm vào đó Nhà nước nên giảm một số lệ phí cũng như tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển, để tăng việc sử dụng diện tích trong các khu công nghiệp – khu chế xuất để giảm giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.

Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… về các dịch vụ tư vấn đầu tư thiết nghĩ Việt Nam nên hoàn thiện các loại hình dịch vụ này để tham gia tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước biết các thông tin về đầu tư như: lĩnh vực nào Nhà nước cho phép đầu tư, lĩnh vực nào hạn chế và lĩnh vực nào không cho phép đầu tư. Ngoài ra, còn cung cấp cho các nhà đầu tư biết hiện tại lĩnh vực nào đang có lợi nhuận, hoặc các thông tin khác về tài chính, thuế, phí… kinh nghiệm cho thấy các loại hình dịch vụ này ở các nước làm ăn rất hiệu quả, thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư, cũng như hiệu quả của những đồng vốn bỏ ra.

Bên cạnh việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư thì dịch vụ tư vấn cần được tổ chức để tăng cường phục vụ thông tin cho các bên hợp doanh cho Nhà nước để từ đó giảm tối thiểu mức thiệt hại do việc nâng giá công nghệ nâng giá đất… làm được như vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng “lỗ giả, lãi thật” hiện nay của một bộ phận các doanh nghiệp liên doanh.

Mặt khác, các dịch vụ này cũng sẽ giúp giảm được chi phí cho các nhà đầu tư, thông qua đó cũng tăng thêm tính hấp dẫn trong thu hút FDI của Việt Nam.

2.2.3. Tạo thuận lợi cho quá trình chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp

Theo báo cáo về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp liên doanh, có rất nhiều doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ nặng, hoạt động theo kiểu hợp doanh không có hiệu quả. Vì thế, Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp này chuyển sang thành các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để tránh hai bên gìm nhau dẫn đến vốn đầu tư vào không hiệu quả. Thậm chí, nếu có thể, cần nhanh chóng hoàn thiện các quy định pháp lý cho việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Hiện nay, trên thế giới hiện tượng xáp nhập, chia tách, mua bán các công ty là hoạt động bình thường diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Nhờ có những hoạt động mua bán, chuyển quyền sở hữu này thông qua sự hoạt động hoàn thiện của thị trường tài chính mằ các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển nguồn vốn của họ sang lĩnh vực mà họ đã lựa chọn. Nếu Việt Nam không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp thì ngoài những khó khăn do trục trặc trong quan hệ đối tác giữa các bên trong liên doanh, sự khó khăn trong chuyển quyền sở hữu vốn sẽ tạo tâm lý không yên tâm và thoải mái cho các nhà đầu tư khi đem vốn vào Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến những hệ quả là môi trường đầu tư ở Việt Nam sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn, kém an toàn hơn.

Trong điều kiện của tự do hóa thương mại và đầu tư trong ASEAN, những khó khăn như trên sẽ là một bất lợi đối với Việt Nam trong cạnh tranh thu hút FDI đối với các quốc gia trong khu vực. Do vậy, việc thuận lợi hóa cho các nhà đầu tư chuyển quyền sở hữu vốn cần thực hiện nhanh chóng. Theo tôi điều này không quá khó và không nên chậm trễ.



2..2.4. Nâng cấp các trục giao thông xuyên quốc gia và châu lục

Ngay nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị đánh giá là tồi tàn, yếu kém. Một số nơi cơ sở hạ tầng được nâng cấp thì sinh ra nhiều khoản phí dẫn đến các nhà đầu tư cảm thấy “nản lòng” không muốn đầu tư. Việc đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng là cần thiết cho hoạt động thu hút đầu tư nhưng lại đòi hỏi một lượng vốn lớn mà chỉ có Nhà nước mới làm được. Do đó, Nhà nước cần phải tập trung xây dựng và tăng cường việc cho phép bên nước ngoài sử dụng các hình thức BOT, BTO, BT.. để ngày càn hoàn thiện và xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng mới giúp ích cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài.

Đặc biệt trong điều kiện tự do hóa thương mại, nếu Việt Nam phát huy lợi thế vị trí địa lý trung tâm, đồng thời với việc nâng cấp các tuyến đường giao thông quan trọng nối thông với các nước trong khu vực thì sẽ là một tiền đề tốt để các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn Việt Nam như một cứ điểm sản xuất và hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Nếu làm được việc này thì Việt Nam không chỉ là quốc gia cung cấp sản phẩm cuối cùng cho các quốc gia ASEAN mà còn cho cả các tỉnh phía nam Trung Quốc nữa. Như vậy rõ ràng Việt Nam lúc này đã trở thànhmột cầu nối cho hàng hóa của ASEAN xuất sang Trung Quốc. Điều này lại một lần nữa nâng cao vị thế của Việt Nam trong lợi thế thu hút FDI. Bởi các nhà đầu tư nước ngoài, không chỉ tính đến một thị trường ASEAN với 500 triệu dân, mà còn cộng thêm với cả hàng triệu dân vùng Vân Nam Trung Quốc. Rõ ràng giao thông với các tuyến đường xuyên lục địa sẽ phát huy vai trò địa lý trung tâm của Việt Nam trong khu vực, và nếu Việt Nam tận dụng được điều đó cho thu hút FDI trong sơ đồ cơ cấu chuyên môn hóa khu vực với việc thu hút những ngành công nghiệp hoàn thiện sản phẩm cuối cùng và chế tạo thì Việt Nam sẽ có thể vươn lên như là một trung tâm kinh tế trong khu vực.

2..2.5. Đài tạo nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng trong điều kiện Việt Nam thực hiện hội nhập khu vực và tiến hành thu hút FDI. Nguồn lao động rẻ của Việt Nam nếu thực sự khống chế được mức lương thấp so với các quốc gia trong khu vực thì cũng chỉ nên xem đó chỉ là những lợi thế trước mắt. Những lợi thế này sẽ nhanh chóng mất đi khi kinh tế Việt Nam phát triển.

Mặt khác, các doanh nghiệp FDI đổ vào Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất công nghiệp và công nghệ cao thì nguồn nhân lực được đào tạo tốt và có tay nghề mới là điều quan trọng. Nếu thiếu đội ngũ lao động được đào tạo nghề thì việc phát triển các khu công nghiệp quy mô lớn của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt quan trọng hơn, Việt Nam vốn được xem là có ít lợi thế so với các quốc gia ASEAN, đặc biệt là các quốc gia ASEAN phát triển hơn trong việc thu hút FDI vào những ngành sản xuất công nghiệp, thì những khó khăn về nguồn lao động được đào tạo sẽ cản trở lớn đến việc nâng cao tính cạnh tranh trong thu hút FDI vào Việt Nam.

Giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần tổ chức thêm nhiều loại hình đào tạo khác nhau để có khả năng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có đạo đức kinh doanh gửi vào các doanh nghiệp để tham gia liên doanh với đối tác nước ngoài. Mặt khác, vấn đề lao động kỹ thuật cũng là một thách thức cho Việt Nam. Để giảm bớt chi phí đào tạo cũng như những khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, chính phủ nên tìm giải pháp hỗ trợ cho đào tạo nghề, nhằm cung cấp kịp thời nguồn lao động kỹ thuật, chi phí thấp cho các doanh nghiệp. Có như vậy, mới tăng thêm tính hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam.

Cũng cần phải lưu ý thêm rằng, đào tạo nguồn lao động có trình độ cao – sự nghiệp trồng người là một công việc có tính lâu dài, liên tục và kết quả chỉ đến sau một quá trình đầu tư cho giáo dục, đào tạo trong nhiều năm. Do vậy, các chương trình đào tạo cần có sự chuẩn bị tốt về nội dung, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và cần phải được thực hiện khẩn trương nếu Việt Nam không muốn để mất thêm thời gian hơn nữa cho việc thúc đẩy thu hút FDI, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn đối với các quốc gia trong khu vực.

2.2.6. Tăng cường hướng dẫn các doanh nghiệp tìm đối tác

Việc thu hút đầu tư và hiệu quả đầu tư còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng của các doanh nghiệp cũng như hiêụ quả của từng dự án cụ thể. Sự yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam là nguyên nhân giảm hiệu quả đầu tư cũng như hạn chế vai trò của phía Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, từng doanh nghiệp cần có những giải pháp riêng ở tầm vi mô. Đồng thời chính phủ cần có sự trợ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm các đối tác một cách an toàn và thuận lợi.

Trên giác độ của các doanh nghiệp, để có thể tìm được những đối tác tốt và sẵn sàng đầu tư thì vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tự thể hiện mình như là một đối tác trong nước đáng tin cậy.

Một vấn đề cần thiết là làm thế nào để tăng tiềm lực của các doanh nghiệp Việt Nam. Cho đến nay, trong quá trình cải cách, Việt Nam đã chú ý đến vấn đề này, tuy vậy vẫn còn không ít những khó khăn đặt ra như: chủ trương thành lập các tổng Công ty để tăng tiềm lực thực tế của doanh nghiệp Việt Nam nhưng rõ ràng tổng Công ty không phải là một phương thức màu nhiệm. Bởi lẽ đó mới chỉ là sự tập hợp lại của một hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có vốn chưa phải là mạnh, mà vốn này chủ yếu do Nhà nước “rót” xuống nó chưa chứng minh được hiệu ủa hoạt động thực sự của các tổng Công ty này. Mặt khác, cơ chế quản lý và vấn đề chịu trách nhiệm, liên quan đến quyền và lợi ích của người quản lý tổng Công ty còn chưa rõ ràng và không đủ cao, do vậy khó có thể mong đợi một kết quả hoạt động hiệu quả có tính đột biến đối với các Tổng Công ty này.

Công việc đầu tiên là các doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị sẵn cho mình một đội ngũ lao động am hiểu về các hoạt động của hợp tác kinh doanh quốc tế. Sẵn sàng và có đầy đủ tự tin cũng như năng lực trong hợp tác với các đối tác nước ngoài.

Thứ hai, các doanh nghiệp khi tiếp xúc và tìm đối tác, kêu gọi đầu tư thì cần chuẩn bị và nghiên cứu sẵn các phương án hợp tác cũng như xây dựng các dựán để kêu gọi đầu tư và tìm đối tác. Có như vậy, các doanh nghiệp mới có thể tạo được lòng tin từ phía các đối tác cũng như đẩy nhanh tiến độ hợp tác và góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập AFTA và cạnh tranh trong thu hút FDI, chiếm lợi thế trong quá trình phân bố sản xuất trên toàn khu vực ASEAN thì bất kỳ một nỗ lực nào, dù là nhỏ nhất cũng đều là đáng quý, đó có thể sẽ là những điểm mấu chốt, những đòn quyết định để các doanh nghiệp Việt Nam có thể lôi kéo đối tác về phía mình và tăng thêm lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam.

Thứ ba, trong điều kiện hội nhập AFTA, khi mà các điều kiện về kinh doanh và đầu tư được tạo thuận lợi, thì ngoài việc chú ý, cạnh tranh trong thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngoài khu vực đổ vào trong nước thì ans đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là phải cócác phương án tìm hiểu và hợp tácnhằm thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ chính các doanh nghiệp trong ASEAN đổ vào Việt Nam. Bởi thời gian qua cho thấy, chính các doanh nghiệp ASEAN mới là những doanh nghiệp có nhiều dự án và vốn đầu tư đổ vào Việt Nam nhiêù nhất. Một vài năm gần đây, do những khó khăn nhất thời của khủng hoảng tài chính - kinh tế trong khu vực gây ra nên nguồn FDI từ khu vực này đổ vào Việt Nam có phần giảm sút. Song trong tương lai thì nguồn FDI từ khu vực này vẫn sẽ là quan trọng đối với Việt Nam. Mặt khác, khi hợp tác với các doanh nghiệp trong khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn, bởi nhờ những thuận lợi ở tầm vĩ mô được tạo ra nhờ quá trình hội nhập trong khu vực đem lại, thì các chi phí cần có cho việc xúc tiến hợp tác như chi phí giao thông, liên lạc,… cũng sẽ rẻ hơn so với việc tìm kiếm đối tác tại những thị trường xa xôi. Một lợi thế nữa cũng có thể kể đến đó là các doanh nghiệp ASEAN dễ hội nhập với môi trường kinh doanh tại Việt Nam hơn nhờ sự gần gũi về văn hóa – xã hội, đây cũng có thể được xem như một yếu tố thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tính đến trong việc tìm kiếm đối tác thu hút FDI.

Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên doanh, hợp tác cùng với các tập đoàn lớn của ASEAN để cùng đàm phán phân chia việc lựa chọn các địa điểm đầu tư sản xuất trong sơ đồ phân bố chuyên môn hóa trong khu vực. Thông qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể cùng chia sẻ “miếng bánh” FDI với các doanh nghiệp khác trong ASEAN. Ví dụ: trong công nghiệp chế tạo ôtô, Việt Nam khong nhất thiết phải đầu tư phát triển bằng được các công đoạn từ A đến Z cho sản xuất ôtô. Đây là một vấn đề cực kỳ khó khăn bởi dù ít hay nhiều Việt Nam cũng đi sau các quốc gia ASEAN phát triển khác như Thái Lan, Malaysia, … Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sẽ tập trung nguồn lực, chuyên sâu vào sản xuất một số chi tiết cho ôtô, biến ngành công nghiệp ôtô trở thành một ngành công nghiệp mang tầm cỡ ASEAN chứ không chỉ là ở tầm quốc gia. Có như vậy, mới phát huy hết tác dụng của tự do hóa thương mại trong khu vực và nâng cao hiệu quả của đầu tư, sản xuất trong những ngành mà đòi hỏi cả vốn đầu tư cũng như thị trường đều lớn.


KẾT LUẬN
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành biện pháp quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. Nhu cầu đầu tư càng trở nên bức thiết trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế hiện nay. Sẽ không có sự hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bảm và công nghệ giữa các nước trong khu vực và thế giới. Đối với các nước đang phát triển đó có Việt Nam thì đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.

Việt Nam tiến hành xây dựng CNXH xuất phát từ điểm rất thấp, nền kinh tế trong tình trạng lạc hậu, thu nhập quốc dân theo đầu người vào dạng thấp nhất thế giới.

Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn những khó khăn, việc này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những biện pháp hết sức cụ thể để đưa con tàu Việt Nam đi đúng hướng phù hợp với xu thế và bắt kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Vụ quản lý các dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

  2. Adam Smith (1997) của cải của các dân tộc. NXB Giáo dục

  3. Thuý Anh (2000) tự do hóa thương mại và những vấn đề đặt ra.

Tạp chí Thông tin lý luận số 8 /2000

  1. Bộ Kế hoạch và đầu tự Vụ quản lý dự án Tổng hợp đầu tư nước ngoài ngày 7/1/2003.

  2. Chỉ thị 19/2001/CT-TTg về thực hiện nghị quyết 9/01/NQ-CP

  3. Tập san đặc biệt thời báo kinh tế 2002 – 2003.

  4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000). Định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) Hà Nội.

  5. Tạp chí Thông tin Kinh tế – Xã hội tháng 1/2004.

  6. Tạp chí Kinh tế và dự báo số10/2004

  7. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 315 tháng 8/2004.

  8. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay 3/1998

  9. Đầu tư trựctiếp của các Công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển HVQHQT – CTQG96.

  10. Công ty xuyên Quốc gia của các nền kinh tế chuyên nghiệp mới ở Châu Á. Hoàng Thị Bích Lan CTQG 2002.

  11. Quan hệ kinh tế Đại học Luật

  12. Hỏi đáp kinh tế ASEAN Trần Thanh Hải

NXB TG Hà Nội 2000

  1. Hội nhập AFTA

  2. Liên kết kinh tế ASEAN Tạp chí Cộng sản số 31/2003.

  3. Thực trạng Liên kết kinh tế ASEAN

Tạp chí cộng sản số 34/2003.



Luanvan.online Page


Каталог: uploads -> Luan%20Van%20Mau
Luan%20Van%20Mau -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Luan%20Van%20Mau -> “Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Việt Nam từ nay đến năm 2010”
Luan%20Van%20Mau -> LỜi mở ĐẦu n
Luan%20Van%20Mau -> MỤc lục trang Lời nói đầu

tải về 255.84 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương