“Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Việt Nam từ nay đến năm 2010”



tải về 0.7 Mb.
trang1/6
Chuyển đổi dữ liệu16.07.2016
Kích0.7 Mb.
#1746
  1   2   3   4   5   6

www.Luanvan.Online


LỜI MỞ ĐẦU

Nước ta là một nước nông nghiệp, với gần 80% dân số sống ở nông thôn. Nông thôn nước ta trải rộng suốt từ các vùng cao biên giới qua các vùng cao nguyên đến các đồng bằng châu thổ của các dòng sông lớn và ven biển. Nông thôn là địa bàn kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Công cuộc đổi mới làm cho “dân giàu, nước mạnh” không thể tách rời việc mở mang phát triển khu vực nông thôn rộng lớn.

Nhìn chung đại bộ phận nông thôn nước ta còn trong tình trạng kém phát triển về kinh tế- xã hội, cơ sở hạ tầng còn quá thiếu thốn và lạc hậu, điển hình là giao thông và thông tin liên lạc. Giao thông và thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng hàng đầu để mở mang sản xuất, tiếp cận thị trường, tiếp thu khoa học kỹ thuật và mở mang dân trí. Thực trạng nông thôn Việt Nam cũng giống như nông thôn của hầu hết các nước đang phát triển và một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kinh tế - xã hội chậm phát triển là sự yếu kém về hệ thống cơ sở hạ tầng, trong đó đặc biệt phải kể đến là sự yếu kém của cơ sở hạ tầng giao thông.

Hiện nay, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông cho nông thôn khó khăn nhất là làm thế nào để có vốn?. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, trong quá trình thực tập tại Ban Tổng hợp (Viện Chiến lược - Bộ Kế hoạch và đầu tư), tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Việt Nam từ nay đến năm 2010” để nghiên cứu làm Báo cáo Chuyên đề thực tập của mình.

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu những khó khăn, thuận lợi tác động đến quá trình đầu tư, thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư, từ đó đưa ra giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn nước ta trong thời gian tới.

Nội dung của đề tài được kết cấu làm ba chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.

Chương II: Thực trạng huy đông và sử dung vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Chương III: Một số giải pháp nâng cao đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn Việt Nam từ nay đến năm 2010.

Tôi xin chân thành cảm ơn: Thầy giáo Th.s Lê Quang Cảnh, Th.s Nguyễn Hồng Hà cùng các cô chú trong Ban Tổng hợp đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Do đề tài đề cập đến một vấn đề rất rộng lớn nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, tôi xin được sự góp ý của các thầy cô cùng các cán bộ trong ban Tổng hợp để đề tài được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn

Sinh viên thực hiện

Đỗ Xuân Nghĩa

CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ CƠ SỞ HẠ TẦNG

GIAO THÔNG NÔNG THÔN

I . Cở sở hạ tầng giao thông nông thôn

1. Các khái niệm cơ bản về cơ sở hạ tầng

1.1. Cơ sở hạ tầng

Thuật ngữ cơ sở hạ tầng được sử dụng lần đầu tiên trong lĩnh vực quân sự. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai nó được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau như: giao thông, kiến trúc, xây dựng… Đó là những cơ sở vật chất kỹ thuật được hình thành theo một “kết cấu” nhất định và đóng vai trò “nền tảng” cho các hoạt động diễn ra trong đó. Với ý nghĩa đó thuật ngữ “ cơ sở hạ tầng” được mở rộng ra cả các lĩnh vực hoạt động có tính chất xã hội để chỉ các cơ sở trường học, bệnh viện, rạp hát, văn hoá.. phục vụ cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá…

Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng thể các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và kiến trúc đóng vai trò nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội được diễn ra một cách bình thường.

Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm: cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng kỹ thuật

+ Cơ sở hạ tầng kinh tế là những công trình phục vụ sản xuất như bến cảng, điện, giao thông, sân bay…

+ Cơ sở hạ tầng xã hội là toàn bộ các cơ sở thiết bị và công trình phục vụ cho hoạt động văn hóa, nâng cao dân trí, văn hoá tinh thần của dân cư như trường học, trạm xá, bệnh viện, công viên, các nơi vui chơi giải trí…

1.2. Cơ sở hạ tầng nông thôn

Cơ sở hạ tầng nông thôn là một bộ phận của tổng thể cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật nền kinh tế quốc dân. Đó là những hệ thống thiết bị và công trình vật chất - kỹ thuật được tạo lập phân bố, phát triển trong các vùng nông thôn và rong các hệ thống sản xuất nông nghiệp, tạo thành cơ sở, điều kiện chung cho phát triển kinh tế, xã hội ở khu vực này và trong lĩnh vực nông nghiệp.

Nội dung tổng quát của cơ sở hạ tầng nông thôn có thể bao gồm những hệ thống cấu trúc, thiết bị và công trình chủ yếu sau:

+ Hệ thống và các công trình thuỷ lợi, thuỷ nông, phòng chống thiên tai, bảo vệ và cải tạo đất đai, tài nguyên, môi trường trong nông nghiệp nông thôn như: đê điều, kè đập, cầu cống và kênh mương thuỷ lợi, các trạm bơm…

+ Các hệ thống và công trình giao thông vận tải trong nông thôn: cầu cống, đường xá, kho tầng bến bãi phục vụ trực tiếp cho việc vận chuyển hàng hoá, giao lưu đi lại của dân cư.

+ Mạng lưới và thiết bị phân phối, cung cấp điện, mạng lưới thông tin liên lạc…

+ Những công trình xử lý, khai thác và cung cấp nước sạch sinh hoạt cho dân cư nông thôn.

+ Mạng lưới và cơ sở thương nghiệp, dịch vụ cung ứng vât tư, nguyên vật liệu,…mà chủ yếu là những công trình chợ búa và tụ điểm giao lưu buôn bán.

+ Cơ sở nghiên cứu khoa học, thực hiện và chuyển giao công nghệ kỹ thuật; trạm trại sản xuất và cung ứng giao giống vật nuôi cây trồng.

Nội dung của cơ sở hạ tầng trong nông thôn cũng như sự phân bố, cấu trúc trình độ phát triển của nó có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực, quốc gia cũng như giữa các địa phương, vùng lãnh thổ của đất nước. Tại các nước phát triển , cơ sở hạ tầng nông thôn còn bao gồm cả các hệ thống, công trình cung cấp gas, khí đốt, xử lý và làm sạch nguồn nước tưới tiêu nông nghiệp, cung cấp cho nông dân nghiệp vụ khuyến nông.

1.3. Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là một bộ phận của cơ sở hạ tầng nông nghiệp, bao gồm cơ sở hạ tầng đường sông, đường mòn, đường đất phục vụ sự đi lại trong nội bộ nông thôn, nhằm phát triển sản xuất và phục vụ giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội của các làng xã, thôn xóm. Hệ thống này nhằm bảo bảm cho các phuơng tiện cơ giới loại trung, nhẹ và xe thô sơ qua lại.

T
rong quá trình nghiên cứu cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn cần phân biệt rõ với hệ thống giao thông nông thôn

Hệ thống giao thông nông thôn bao gồm: cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, phương tiện vận tải và người sử dụng. Như vậy, cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn chỉ là một bộ phận của hệ thống giao thông nông thôn. Giao thông nông thôn không chỉ là sự di chuyển của người dân nông thôn và hàng hoá của họ, mà còn là các phương tiện để cung cấp đầu vào sản xuất và các dịch vụ hỗ trợ cho khu vự nông thôn của các thành phần kinh tế quốc doanh và tư nhân. Đối tượng hưởng lợi ích trực tiếp của hệ thống giao thông nông thôn sau khi xây dựng mới, nâng cấp là người dân nông thôn, bao gồm các nhóm người có nhu cầu và ưu tiên đi lại khác nhau như nông dân, doanh nhân, người không có ruộng đất, cán bộ công nhân viên của các đơn vị phục vụ công cộng làm việc ở nông thôn…

* Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn bao gồm:

+ Mạng lưới đưòng giao thông nông thôn: đường huyện, đường xã và đường thôn xóm, cầu cống, phà trên tuyến

+ Đường sông và các công trình trên bờ

+ Các cơ sở hạ tầng giao thông ở mức độ thấp (các tuyến đường mòn, đường đất và các cầu cống không cho xe cơ giới đi lại mà chỉ cho phép nguời đi bộ, xe đạp, xe máy .vv đi lại). Các đường mòn và đường nhỏ cho người đi bộ, xe đạp, xe thồ, xe súc vật kéo, xe máy và đôi khi cho xe lớn hơn, có tốc độ thấp đi lại là một phần mạng lưới giao thông, giữ vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hoá đi lại của người dân.

2. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn gắn liền với mọi hệ thống kinh tế, xã hội. Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, vừa phục thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nông thôn.

So với các hệ thống kinh tế, xã hội khác, cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn có những đặc điểm sau:

2.1. Tính hệ thống, đồng bộ

Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là một hệ thống cấu trúc phức tạp phân bố trên toàn lãnh thổ, trong đó có những bộ phận có mức độ và phạm vi ảnh hưởng cao thấp khác nhau tới sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nông thôn, của vùng và của làng, xã. Tuy vậy, các bộ phận này có mối liên hệ gắn kết với nhau trong quá trình hoạt động, khai thác và sử dụng.

Do vậy, việc quy hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, phối hợp kết hợp ghĩa các bộ phận trong một hệ thống đồng bộ, sẽ giảm tối đa chi phí và tăng tối đa công dụng của các cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn cả trong xây dựng cũng như trong quá trình vận hành, sử dụng.

Tính chất đồng bộ, hợp lý trong việc phối, kết hợp các yếu tố hạ tầng giao thông không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà còn có ý nghĩa về xã hội và nhân văn. Các công trình giao thông thường là các công trình lớn, chiếm chỗ trong không gian. Tính hợp lý của các công trình này đem lại sự thay đổi lớn trong cảnh quan và có tác động tích cực đến các sinh hoạt của dân cư trong địa bàn.

2.2. Tính định hướng

Đặc trưng này xuất phát từ nhiều khía cạnh khác nhau của vị trí hệ thống giao thông nông thôn: Đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, mở đường cho các hoạt động kinh tế, xã hội phát triển …

Đặc điểm này đòi hỏi trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn phải chú trọng những vấn đề chủ yếu:

- Cơ sở hạ tầng giao thông của toàn bộ nông thôn, của vùng hay của làng, xã cần được hình thành và phát triển trước một bước và phù hợp với các hoạt động kinh tế, xã hội. Dựa trên các quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội để quyết định việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Đến lượt mình, sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông về quy mô, chất lượng lại thể hiện định hướng phát triển kinh tế, xã hội và tạo tiền đề vật chất cho tiến trình phát triển kinh tế – xã hội.

Thực hiện tốt chiến lược ưu tiên trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của toàn bộ nông thôn, toàn vùng, từng địa phương trong mỗi giai đoạn phát triển sẽ vừa quán triệt tốt đặc điểm về tính tiên phong định hướng, vừa giảm nhẹ nhu cầu huy động vốn đầu tư do chỉ tập trung vào những công trình ưu tiên.

2.3. Tính địa phương, tính vùng và khu vực

Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa lý, địa hình, trình độ phát triển … Do địa bàn nông thôn rộng, dân cư phân bố không đều và điều kiện sản xuất nông nghiệp vừa đa dạng, phức tạp lại vừa khác biệt lớn giữa các địa phương, các vùng sinh thái.

Vì thế, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn mang tính vùng và địa phương rõ nét. Điều này thể hiện cả trong quá trình tạo lập, xây dựng cũng như trong tổ chức quản lý, sử dụng chúng.

Yêu cầu này đặt ra trong việc xác định phân bố hệ thống giao thông nông thôn, thiết kế, đầu tư và sử dụng nguyên vật liệu, vừa đặt trong hệ thống chung của quốc gia, vừa phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.

2.4. Tính xã hội và tính công cộng cao

Tính xã hội và công cộng cao của các công trình giao thông ở nông thôn thể hiện trong xây dựng và trong sử dụng

Trong sử dụng, hầu hết các công ttrình đều được sử dụng nhằm phục vụ việc đi lại, buôn bán giao lưu của tất cả người dân, tất cả các cơ sở kinh tế, dịch vụ.

Trong xây dựng, mỗi loại công trình khác nhau có những nguồn vốn khác nhau từ tất cả các thành phần, các chủ thể ttrong nền kinh tế quốc dân. Để việc xây dựng, quản lý, sử dụng các hề thống đường nông thôn có kết quả cần lưu ý:

+ Đảm bảo hài hoà giữa nghĩa vụ trong xây dựng và quyền lợi trong sử dụng đối với các tuyến đường cụ thể. Nguyên tắc cơ bản là gắn quyền lợi và nghĩa vụ.

+ Thực hiện tốt việc phân cấp trong xây dựng và quản lý sử dụng công trình cho từng cấp chính quyền, từng đối tượng cụ thể để khuyến khích việc phát triển và sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng.

II. Vai trò của đầu tư phát triển

1- Khái niệm và phân loại đầu tư

1.1. Đầu tư

Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển giao thông nông thôn nói riêng, các hoạt động kinh tế bao giờ cũng gắn liền với việc huy động và sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại những lợi ích kinh tế – xã hội nhất định. Các hoạt động đó gọi là hoạt động đầu tư.

Đầu tư (hay hoạt động đầu tư) theo nghĩa rộng nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại dể tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Các hoạt động nói trên được tiến hành trong một vùng không gian và tại khoảng thời gian nhất định.

Nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Trong các hoạt động kinh tế nguồn tài lực (tiền vốn) luôn có vai trò rất quan trọng. Quá trình sử dụng tiền vốn trong đầu tư nói chung là qúa trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật (máy móc, thiết bị, đất đai…)hoặc vốn dưới dạng hình thức tài sản vô hình (lao động chuyên môn cao, công nghệ và bí quyết công nghệ, quyền sở hữu công nghiệp… ) để tạo ra hoặc duy trì, tăng cường năng lực của các cơ sở vật chất – kỹ thuật hay những yếu tố, những điều kiện cơ bản của hoạt động kinh tế.

Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở trong hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó, hoạt động này được gọi là đầu tư phát triển .

Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và trí tuệ hoặc để duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có mới thuộc phạm vi đầu tư theo nghĩa hẹp.

Trong phạm vi một doanh nghiệp, hoạt động đầu ta là một bộ phận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để tạo ra hay tăng cường các yếu tố, các điều kiện sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2. Phân loại hoạt động đầu tư

Khái niệm về đầu tư cho thấy tính đa dạng của hoạt động kinh tế này. Hoạt động đầu tư có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa riêng trong việc theo dõi, quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư.

a. Theo các lĩnh vực của nền kinh tế ở tầm vĩ mô, hoạt động đầu tư có thể chia thành:

- Đầu tư tài sản vật chất, là hình thức đầu tư nhằm tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế hay tăng cường nang lực hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật làm nền tảng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác.

- Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiền vào các ngân hàng, mua trái phiếu… ) hoặc hưởng lãi suất tuỳ theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hiện hành ( cổ phiếu cty, trái phiếu công ty ). Đầu tư tài chính không trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mới cho nền kinh tế song đây là một trong những nguồn cung cấp vốn quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển . Do đó đầu tư tài chính còn goị là sự đầu tư di chuyển.

- Đầu tư thương mại: Là hình thức đầu tư dưới dạng bỏ tiền vốn mua hàng hóa để bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá mua và giá bán. Đầu tư thương mại nói chung không tạo ra tài sản cho nền kinh tế, sông lại có vai trò rất quan trọng đối với quá trình lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các hoạt động đầu tư phát triển .

- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Là hình thức đầu tư vào các hoạt động bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn, về học vấn và kỹ thuật cho lực lượng lao động để nâng cao tay nghề chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

- Đầu tư phát triển khoa học công nghệ: là hình thức đầu tư dưới dạng phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ và đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tế các lĩnh vực của nền kinh tế.

b. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có thể phân chia đầu tư thành:

- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đầu tư đồng thời là người trực tiếp quản lý quá trình đầu tư hay chủ đầu tư do đóng ghóp số vốn đủ lớn cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình đầu tư và quản lý khai thác, sử dụng công trình đầu tư.

- Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư do chỉ góp vốn dưới giới hạn nào đó nên không được quyền tham gia trực tiếp điều hành quá trình đầu tư và khai thác, sử dụng công trình đầu tư. Đó là các trường hợp viện trợ hay cho vay với lãi xuất ưu đãi của Chính phủ nước ngoài, các trường hợp đầu tư tài chính của các cá nhân, tổ chức dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu và cho vay để hưởng lợi tức.

c. Theo thời hạn đầu tư, có thể phân chia thành

- Đầu tư dài hạn từ 10 năm trở lên

- Đầu tư trung hạn từ 5 năm đến 10 năm

- Đầu tư ngắn hạn dưới 5 năm

d. Theo hình thức đầu tư, có thể phân chia thành:

- Đầu tư mới (để tạo ra công trình mới)

- Đầu tư theo chiều sâu (cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá…)

- Đầu tư mở rộng công trình đã có

e. Theo nội dung kinh tế của đầu tư:

- Đầu tư xây dựng cơ bản là hình thức đáàu tư nhằm tạo ra hay hiện đại hoá tài sản cố định thông qua xây dựng mới, cải tạo tài sản cố định hay mua bán bản quyền sở hữu công nghiệp…

- Đầu tư vào xây dựng tài sản cố định: là hình thức đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất giá trị nhỏ, nguyên vật liệu…nhằm đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá trình đầu tư tiến hành liên tục.

- Đầu tư vào lực lượng lao động nhằm tănng cường chất lượng và số lượng lao động thông qua đào tạo, thuê mướn công nhân, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý...

2. Vai trò của đầu tư phát triển

Các lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau:

2.1. Trên giác độ toàn nền kinh tế của đất nước

a. Đầu tư phát triển làm tăng tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.

-
Về mặt cầu: Đầu tư phát triển là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho đường AD dịch chuyển từ AD0 sang AD1. Do đó làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá cũng biến động từ PL0 đến PL1 hình 1).

- Về mặt cung: Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị phương tiện vận tải mới đưa vào quá trình sản xuất, làm cho tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này làm dịch chuyển đường tổng cung từ AS0 đến AS1, kéo theo sản lượng tăng từ Y0 sang Y1 và mức giá giảm từ PLo đến PL1. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội ( hình 2).

b- Đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế:

Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9- 10 %) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, do hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, đểđạt đượ tốc độ tăng trưởng 5- 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.

Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyêt những mặt cân đối về phát triển giữa các vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về taì nguyên, địa thế, kinh tế, chính ttrị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển .

c. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:

Kết quả nghiên cứu của các kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15 - 25 % so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước:

ICOR =


Từ đó suy ra:

Mức tăng GDP =

Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Theo tính toán của UNDP năm 1996, tác động của vốn đầu tư vào tốc độ tăng trưởng của một số nước là khác nhau. Đối với các nước phát triển , phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một “cái hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICs, các nước Đông Nam Á).

Đối với ngành công nghiệp, để đạt được mục tiêu đến năm 2010 tổng sản phẩm quốc nội tăng gấp đôi năm 2000 theo dự tính, cần phải tăng vốn đầu tư. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc chủ yếu vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, cấc vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong công nghiệp thấp hơn trong nông nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển , tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Các nước Nhật, Thuỵ sĩ có tỷ lệ đầu tư/ GDP lớn nên tốc độ tăng trưởng cao.

d- Đầu tư tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước

Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu trình phát triển công nghệ thế giơí thành 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 2. Việt Nam đang là một trong 9 nước kém nhất về công nghệ, với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và bền vững.

Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới cồng nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.

2.2. Trên giác độ các đơn vị kinh tế của Nhà nước:

+ Đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ: đầu tư quyết định sự ra đơì, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một thời kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.

Đối với các cở sở sản xuất – kinh doanh - dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học công nghệ và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội; mua sắm các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.

+ Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không thể thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên Tất cả những hoạt động mà chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.

3. Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Đầu tư trong nông nghiệp, kinh tế nói chung và trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn nói riêng thông thường đều trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh của các đặc điểm sản xuất nông nghiệp nên mang một số đặc điểm sau:

3.1. Thời gian thu hồi vốn dài

Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn thường có thời gian thu hồi vốn dài hơn trong đầu tư các ngành khác. Những nguyên nhân chủ yếu của thời gian thu hồi vốn dài bao gồm:

+ Số tiền chi phí cho một công trình GTNT thường khá lớn và phải nằm ứ đọng không vận động trong qúa trình đầu tư. Vì vậy, khu vực tư nhân không tích cực tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng GTNT mà chủ yếu là chính phủ.

+ Thời gian kể từ khi tiến hành đầu tư một công trình giao thông cho đến khi công trình đưa vào sử dụng thường kéo dài nhiều tháng thậm chí tới vài năm.

+ Tính rủi ro và kém ổn định của đầu tư cao do phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên.



3.2. Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, nhất là trong cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, thường tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn, trải dài theo vùng địa lý và phụ thuộc nhiều vào đặc điểm địa lý của vùng. Điều này làm tăng thêm tính phức tạp của việc quản lý, điều hành các công việc của thời kỳ đầu tư xây dựng công trình cũng như thời kỳ khai thác các công trình giao thông nông thôn.

3.3. Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ ở ngay nơi mà nó được tạo dựng, phục vụ lâu dài cho hoạt động sản xuất và đời sống dân cư. Do đó, khi xây dựng các công trình giao thông phải cân nhắc, lựa chọn công nghệ kỹ thuật tiên tiến nhất để phục vụ lâu dài cho nhân dân.

3.4. Tính hiệu quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố đầu tư tới hạn, là đầu tư đưa công trình xây dựng nhanh tới chỗ hoàn bị. Nếu chậm đạt tới chỗ hoàn bị, các công trình sẽ chậm đưa vào vận hành.

Tại nước ta trong thời gian qua, ngân sách Nhà nước đã dành một số vốn đáng kể đầu tư cơ bản cho nông nghiệp (thuỷ lợi, khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới, cơ sở hạ tầng…), nếu tính theo giá năm 1990, vốn đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp và phát triển nông thôn bình quân mỗi năm giai đoạn 1976-1985 là 732 tỷ, giai đoạn 1976-1980 là 704 tỷ, giai đoạn 1981-1985 là 7323 tỷ, giai đoạn 1986 -1990 là 673 tỷ, trong đó đầu tư dành cho phát triển giao thông nông thôn là 103 tỷ đồng trong giai đoạn 1986- 1990.

Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu sự đóng góp của giao thông nông thôn nói riêng và cho nông nghiệp nông thôn nói chung thì mức đầu tư là quá thấp. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn lạc hậu, nhất là các tỉnh trung du và miền núi. Do vậy, đây là những vấn đề bức xúc đòi hỏi Chính Phủ và các cấp chính quyền địa phương cần phải xem xét đầu tư và giải quyết một cách thoả đáng.

4. Nguồn vốn đầu tư phát triển

Ở mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền kinh tế, tức phần tiết kiệm không tiêu dùng đến (gồm tiêu dùng của cá nhân và tiêu dùng của Chính Phủ) từ GDP. Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài là nguồn bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều kiện đảm bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như các lĩnh vực khác. Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước, các quốc gia còn có thể và cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Từ đây, ta có thể chỉ ra các hướng chính trong nguồn đầu tư phát triển :

+ Nguồn trong nước: bao gồm tích luỹ từ ngân sách, vốn tích luỹ của các doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư.

+ Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở: bao gồm vốn ngân sách cấp, viện trợ không hoàn lại, vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết.

+ Nguồn vốn từ nước ngoài.

Trong cả ba nguồn trên thì vốn huy động từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong những bước đi đầu tiên, nó chính là những cái “hích” đầu tiên cho sự phát triển, tạo tích luỹ cho nền kinh tế để phát triển đất nước. Nhưng nếu xét về lâu dài, nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn thịnh một cách chắc chắn và không phụ thuộc lại là nguồn vốn trong nước. Đây chính là nền tảng để tiếp thu và phát huy tác dụng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đề cập đến sự phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và phát triển CSHT GTNT nói riêng trong giai đoạn hiện nay có nhiều khía cạnh cần phải quan tâm: Sự tiếp cận các công trình xây dựng, khả năng đáp ứng nhu cầu, vốn, con người...trong đó vốn là một trong những nhân tố hết sức quan trọng, như tiền đề không thể thiếu được. Thiếu vốn sẽ không có cơ hội, không có tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế nói chung và phát triển CSHT giao thông nói riêng. Vì vậy, thu hút tăng cường nguồn vốn và sử dụng một cách đúng đắn sao cho nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo khả năng bảo toàn, phát triển của đồng tiền vốn là một việc vô cùng cần thiết.

III. Nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

1. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn

Trong 5 thập kỷ qua, các tác giả phương Tây khi nghiên cứu sự phát triển của các nước thế giới thứ ba đã đưa ra các nhận xét. Các nước này muốn phát triển phải có sự đầu tư thích đáng vào yếu tố mà mình có thế mạnh. Khi nghiên cứu các nước thế giới thứ ba, các tác giả đã chú trọng xem xét sự phát triển của khu vực nông thôn và đã đưa ra nhiều nhận xét tập trung vào lĩnh vực giao thông nông thôn. ADam. Smith cho rằng “Giao thông là một yếu tố quan trọng, nó dẫn tới các thị trường, nối liền các khu nguyên vật liệu thô, các khu vực có tiềm năng phát triển và kích thích khả năng sản xuất”. Rostow mở rộng lý luận này và nâng cao vai trò của sự cần thiết phải đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn “Điều kiện tiên quyết cho giai đoạn cất cánh của khu vực nông thôn”. Giao thông nông thôn là một phần gắn bó không thể tách rời trong hệ thống giao thông vận tải chung, là nhân tố tác động đến mọi ngành sản xuất và là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của moị vùng nông thôn cũng như toàn xã hội.

Đối với Việt Nam, là một nước với gần 80% dân số làm nghề nông, để đạt được mục tiêu “đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp có trình độ khoa học công nghệ tiến” thì nhất thiết phải có sự đầu tư vào nông nghiệp mà nhất là phát triển cơ sở hạ tầng và trên hết là cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Trong các Đại hội đại biểu toàn quốc cũng như các hội nghị phát triển nông nghiệp nông thôn, đều đã nhận định đầu tư phát triển CSHT giao thông ở nông thôn là vô cùng cần thiết trong điều kiện hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Giao thông là mạch máu của tổ chức kinh tế, giao thông tốt thì mọi việc đều dễ dàng…”- trích Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giao thông vận tải.

Trong điều kiện nông nghiệp nước ta hiện nay, các CSHT GTNT còn rất lạc hậu, số xã chưa có đường đến trung tâm xã vẫn còn tại hầu hết các tỉnh thành, chất lượng đường kém, chủ yếu là đường đất và đường cấp phối. Về lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình đầu tư xây dựng, nâng cấp giao thông nông thôn cần thiết phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Cơ sở hạ tầng GTNT phát triển sẽ tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh của khu vực nông thôn, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh, tăng sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sức huy động nguồn vốn trong nước vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Những vùng có cơ sở hạ tầng đảm bảo, đặc biệt là mạng lưới giao thông sẽ là nhân tố thu hút nguồn lao động, hạ giá thành trong sản xuất và mở rộng thị trường nông thôn.

Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn tốt sẽ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong sản xuất kinh dính nông nghiệp và các ngành liên quan trực tiếp đến nông nghiệp - khu vực phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.

Cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn tốt sẽ tăng khả năng giao lưu hàng hoá, thị trường nông thôn được mở rộng, kích thích kinh tế hộ nông dân tăng gia sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thu nhập của các hộ nông dân tăng, đời sống nông dân được nâng lên, thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn phát triển sẽ tạo điều kiện tổ chức đơì sống xã hội trên điạ bàn, tạo một cuộc sống tốt hơn cho nông dân, nhờ đó mà giảm được dòng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, giảm bớt gánh nặng cho thành thị…

Nói tóm lại, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là nhân tố đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt để thực hiện chương trình phát triển kinh tế- xã hội nói chung và để thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng. Vì vậy, trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, cấu trúc nền kinh tế thế giới thay đổi đã đặt ra nhu cầu: cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo điều kiện thuận lợi chi các ngành, các vùng phát triển.

2. Mối quan hệ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn và phát triển kinh tế nông thôn

2.1- Vai trò của cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

2.1.1. Tạo điều kiện cơ bản cho phát triển kinh tế và tăng lợi ích xã hội cho nhân dân trong khu vực có mạng lưới giao thông

+ Tác động kinh tế của cơ sở hạ tầng giao thông gắn với sự phát triển sản xuất nông nghiệp được thể hiện cụ thể bằng việc nâng cao sản lượng cây trồng, mở rộng diện tích đất canh tác và nâng cao thu nhập của người nông dân. Tác giả Adam- Smith đã viết về tác động kinh tế rất mạnh mẽ khi hệ thống giao thông nông thôn ở Uganda được xây dựng vào giai đoạn 1948-1959, đã làm cho mùa màng bội thu chưa từng có, cùng với sự thay đổi tập quán canh tác trên diện rộng, thu nhập của các hộ nông dân đã tăng lên từ 100 đến 200% so với trước. Sự mở mang các tuyến đường mới ở nông thôn, nông dân đã bắt đầu sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phòng trừ sâu bệnh… đã tạo ra những vụ mùa bội thu.

Nhờ đường xá đi lại thuận tiện người nông dân có điều kiện tiếp xúc và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, quay vòng vốn nhanh để tái sản xuất kịp thời vụ, nhờ vậy họ càng thêm hăng hái đẩy mạnh sản xuất.

Mặt khác, khi có đường giao thông tốt các vùng sản xuất nông nghiệp lại từng phần thuận tiện, các lái buôn mang ô tô đến mua nông sản ngay tại cánh đồng hay trang trại lúc mùa vụ. Điều này làm cho nông dân yên tâm về khâu tiêu thụ, cũng như nông sản đảm bảo được chất lượng từ nơi thu hoạch đến nơi chế biến.

Tóm lại “việc mở mang mạng lưới giao thông ở nông thôn là yếu tố quan trọng làm thay đổi các điều kiện sản xuất nông nghiệp, giảm bớt thiệt hại hư hao về chất lượng và số lượng sản phẩm nông nghiệp, hạ chi phí vận chuyển và tăng thu nhập của nông dân” – GiTec.

+ Về mặt xã hội

Chúng ta thấy rằng, về mặt kinh tế đường xá nông thôn có tác động tới sản xuất, sẩn phẩm và thu nhập của nông dân, thì mặt xã hội nó lại là yếu tố và phương tiện đầu tiên góp phần nâng cao văn hoá, sức khoẻ và mở mang dân trí cho cộng đồng dân cư đông đảo sống ngoài khu vực thành thị.

- Về y tế

Đường xá tốt tạo cho người dân năng đi khám, chữa bệnh và lui tới các trung tâm dịch vụ cũng như dễ dàng tiếp xúc, chấp nhận các tiến bộ y học như bảo vệ sức khoẻ, phòng tránh các bệnh xã hội. Và đặc biệt là việc áp dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình, giảm mức độ tăng dân số, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ em và bảo vệ sức khoẻ cho nguời già…

- Về giáo dục

Hệ thống đường xá được mở rộng sẽ khuyến khích các trẻ em tới lớp, làm giảm tỷ lệ thất học ở trẻ em nông thôn. Với phần lớn giáo viên sống ở thành thị xã, thị trấn, đường giao thông thuận tiện có tác dụng thu hút họ tới dạy ở các trường làng; tránh cho họ sự ngại ngần khi phải đi lại khó khăn và tạo điều kiện ban đầu để họ yên tâm làm việc.

- Giao thông thuận lợi còn góp phần vào việc giải phóng phụ nữ, khuyến khích họ lui tới các trung tâm dịch vụ văn hoá, thể thao ở ngoài làng xã, tăng cơ hội tiếp xúc và khả năng thay đổi nếp nghĩ. Do đó có thể thoát khỏi những hủ tục, tập quán lạc hậu trói buộc người phụ nữ nông thôn từ bao đời nay, không biết gì ngoài việc đồng áng, bếp núc. Với các làng quê ở nước ta, việc đi lại, tiếp xúc với khu vực thành thị còn có tác dụng nhân đạo tạo khả năng cho phụ nữ có cơ hội tìm đưọc hạnh phúc hơn là bó hẹp trong luỹ tre làng rồi muộn màng hay nhỡ ng đường nhân duyên.

Tác động tích của hệ thống đường giao thông nông thôn về mặt xã hội đã được William Anderton và Charlers, khi nghiên cứu về sự phát triển nông thôn ở các nước đang phát triển như Colombia, Liberia, Philipines và Jamaica có những điều kiện xã hội và sản xuất nông nghiệp đã đưa ra kết luận “đường giao thông nông thôn được mở mang xây dựng tạo điều kiện giao lưu thuận tiện giữa vùng sản xuất nông nghiệp với các thị trấn, các trung tâm văn hoá, xã hội có tác dụng mạnh mẽ đến việc mở mang dân trí cho cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để thanh niên nông thôn tiếp cận cái mới cũng như góp phàn giải phóng phụ nữ “.

2.1.2. Tác động mạnh và tích cực đến quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn:

Thông qua việc đảm bảo các điều kiện cơ bản, cần thiết cho sản xuất và thúc đẩy sản xuất phát triển, thì các nhân tố và điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn cũng đồng thời tác động tới quá trình làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế ở khu vực này.

Trước hết, việc mở rộng hệ thống giao thông không chỉ tạo điều kiện cho việc thâm canh mở rộng diện tích và tăng năng suất sản lượng cây trồng mà còn dẫn tới quá trình đa dạng hoá nền nông nghiệp, với những thay đổi rất lớn về cơ cấu sử dụng đất đai, mùa vụ, cơ cấu về các loại cây trồng cũng như cơ cấu lao động và sự phân bố các nguồn lực khác trong nông nghiệp, nông thôn.

Tại phần lớn các nước nông nghiệp lạc hậu hoặc trong giai đoạn đầu quá độ công nông nghiệp, những thay đổi này thường diễn ra theo xu hướng thâm canh cao các loại cây lương thực, mở rộng canh tác cây công nghiệp, thực phẩm và phát triển ngành chăn nuôi. Trong điều kiện có sự tác động của thị trường nói chung, “các loại cây trồng và vật nuôi có giá trị cao hơn đã thay thế cho loại cây có giá trị thấp hơn”. Đây cũng là thực tế diễn ra trên nhiều vùng nông thôn, nông nghiệp nước ta hiện nay.

Hai là, tác động mạnh mẽ đến các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ngoài nông nghiệp ở nông thôn như: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng… Đường xá và các công trình cộng cộng vươn tới đâu thì các lĩnh vực này hoạt động tới đó. Do vậy, nguồn vốn, lao động đầu tư vào lĩnh vực phi nông nghiệp cũng như thu nhập từ các hoạt động này ngày càng tăng. Mặt khác, bản thân các hệ thống và các công trình cơ sở hạ tầng ở nông thôn cũng đòi hỏi phải đầu tư ngày càng nhiều để đảm bảo cho việc duy trì, vận hành và tái tạo chúng. Tất cả các tác động đó dẫn tới sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế của một vùng cũng như toàn bộ nền kinh tế nông nghiệp. Trong đó, sự chuyển dịch theo hướng nông- công nghiệp (hay công nghiệp hoá) thể hiện rõ nét và phổ biến.

Ba là, cơ sở hạ tầng giao thông là tiền đề và điều kiện cho quá trình phân bố lại dân cư, lao động và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và các ngành khác ở nông thôn cũng như trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò này thể hiện rõ nét ở trong vùng khai hoang, xây dựng kinh tế mới, những vùng nông thôn đang được đô thị hoá hoặc sự chuyển dịch của lao dộng và nguồn vốn từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang công nghiệp.

2.1.3. Cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là điều kiện cho việc mở rộng thị trường nông nghiệp nông thôn, thúc đảy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển

Trong khi đảm bảo cung cấp các điều kiện cần thiết cho sản xuất cũng như lưu thông trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn thì các yếu tố hạ tầng giao thông cũng đồng thời là mở rộng thị trường hàng hoá và tăng cường quan hệ giao lưu trong khu vực này.

Sự phát triển của giao thông nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho thương nghiệp phát triển, làm tăng đáng kể khối lượng hàng hoá và khả năng trao đổi. Điều đó cho thấy những tác động có tính lan toả của cơ sở hạ tầng đóng vai trò tích cực. Những tác động và ảnh hưởng của các yếu tố cơ sở hạ tầng giao thông không chỉ thể hiện vai trò cầu nối giữa các giai đoạn và nền tảng cho sản xuất, mà còn góp phần làm chuyển hoá và thay đổi tính chất nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá và kinh tế thị trường. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở những nước có nền nông nghiệp lạc hậu và đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường.

2.1.4. Cơ sở hạ tầng giao thông góp phần cải thiện và nâng cao đời sống dân cư nông thôn

Trước hết có thể nhìn nhận và đánh giá sự đảm bảo của các yếu tố và điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông cho việc giải quyết những vấn đề cơ bản trong đời sống xã hội nông thôn như:

+ Góp phần thúc đẩy hoạt động văn hoá xã hội, tôn tạo và phát triển những công trình và giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí đời sống tinh thần của dân cư nông thôn.

+ Đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ công cộng như giao lưu đi lại, thông tin liên lạc… và các loại hàng hoá khác.

+ Cung cấp cho dân cư nông thôn nguồn nước sạch sinh hoạt và đảm bảo tốt hơn các điều kiện vệ sinh môi trường.

Việc giải quyết những vấn đề trên và những tiến bộ trong đời sống văn hóa-xã hội nói chung ở nông thôn phụ thuộc rất lớn vào tình trạng và khả năng phát triển các yếu tố cơ sở hạ tầng giao thông nói chung và cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng. Sự mở rộng mạng lưới giao thông, cải tạo hệ thống điện nước sinh hoạt… cho dân cư có thể làm thay đổi và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cá nhân trong mỗi cộng đồng dân cư nông thôn.

Nói cách khác, sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt, làm tăng phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn. Từ đó, tạo khả năng giảm bớt chênh lệch, khác biệt về thu nhập và hưởng thụ vật chất, văn hoá giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư trong nông thôn cũng như giữa nông thôn và thành thị.

Nói tóm lại, vai trò của các yếu tố và điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông ở nông thôn nói chung và ở Việt Nam nói riêng là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển toàn diện nền kinh tế, xã hội của khu vực này. Vai trò và ý nghĩa của chúng càng thể hiện đầy đủ, sâu sắc trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường. Vì vậy, việc chú trọng đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là vô cùng cần thiết, đòi hỏi sự quan tâm của Nhà nước cùng các cấp chính quyền.

2.2. Phát triển kinh tế nông thôn tác động đến đầu tư phát triển CSHT GTNT.

Đầu tư cho GTNT cần một khối lượng vốn lớn, do đó mà không thể huy động đủ số vốn cần thiết từ một nguồn. Nguồn vốn đầu tư cho các công trình GTNT được lấy từ nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn ODA, vay tín dụng ưu đãi và sức đóng góp của dân.

Để thúc đẩy nhanh chóng quá trình CNH- HĐH nông thôn đòi hỏi phải đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình GTNT trên cả nước. Nhu cầu về vốn là rất lớn nhưng nguồn cung cấp vốn lại rất hạn hẹp, nguồn ODA hay vay ưu đãi chỉ dành cho một số công trình trọng yếu hoặc dành cho các vùng kém phát triển , vùng sâu, vùng xa. Nguồn NSNN thì phải chi cho nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội do đó số vốn dành cho phát triển CSHT GTNT là không đáng kể so với nhu cầu đòi hỏi. Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư thi công các công trình GTNT, Nhà nước đề ra chủ trương: “Dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần”.

Xét trong nền kinh tế khép kín, nếu gọi GDP là tổng sản phẩm quốc nội, C là tiêu dùng của dân cư và S là tiết kiệm của dân cư, I là số vốn bổ sung vào vốn cố định và vốn lưu động để đầu tư (nếu không có sự rò rỉ vốn đầu tư).

GDP= C + I= C+ S

Từ đó ta có I =S

Như vậy, khi nền kinh tế nông thôn phát triển người dân sẽ có cơ hội tăng thu nhập và từ đó tăng tích luỹ (S). Mặt khác, kinh tế phát triển người nông dân sẽ có nhu cầu giao lưu văn hoá, nghỉ ngơi, đi lại và tham gia lưu thông hàng hoá nhiều hơn với các vùng khác. Do đó họ sẽ tự động đóng góp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, nhờ đó mà tác động ngược lại làm cho giao thông nông thôn phát triển nhanh hơn.

3. Kinh nghiệm của một số nước về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn.

Thực tế phát triển kinh tế thế giới trong vòng 2- 3 thập niên vừa qua đã chỉ rõ, tất cả các nước có nền kinh tế phát triển nhanh đều đề ra chủ trương phát triển hệ thông cơ sở hạ tầng đi trước một bước đặc biệt chú trọng đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Có thể nói hầu hết các nước có tốc độ phát triển nhanh nhiều năm qua đều là những nước đã hoàn thành cơ bản dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, trong đó có giao thông nông thôn. Có thể thấy rõ điều này qua tình hình thực hiện đầu tư và chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn của một số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Bangladesh và một số nước trong khu vực Đông Nam Á có điều kiện tự nhiên và đặc điểm sản xuất nông nghiệp như nước ta.

3.1. Malaysia

Trong cuốn “Malaysia- kế hoạchtriểnvọng lần thứ hai, 1991-2000 do cục xuất bản quốc gia Malaysia ấn hành, phần cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn đã đưa ra những kết luận quan trọng về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn trong sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Các kết luận hầu hết cũng được các nước khác trong khu vực và thế giới ghi nhận. Các kết luận đã ghi:



    • Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn là cần thiết. Việc xây dựng và nâng cao đường xá nông thôn sẽ tiếp tục nâng cao khả năng tiếp cận của những khu vực nông thôn và bổ sung những nỗ lực xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Các phương tiện cơ sở hạ tầng sẽ được mở rộng đến các trung tâm tăng trưởng mới và những vùng kém phát triển hơn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, phù hợp với mục tiêu cân đối tổng thể sự phát triển kinh tế-xã hội.

    • Việc cung cấp một hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn rộng rãi hơn và hiệu quả hơn trong một mạng lưới giao thông nông thôn ngày càng phức tạp với chất lượng ngày một nâng cao sẽ đòi hỏi những nguồn lực phức tạp. Trong khi khu vực Nhà nước sẽ tiếp tục huy động các nguồn ngân sách để đáp ứng những nhu cầu này, thì sự tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân sẽ trở lên ngày càng quan trọng. Để thực hiện phương châm này chính phủ cần giải quyết những vàn đề mà khu vực tư nhân gặp phải như: Khuyến khích đầu tư, định giá, thu hồi phí…

3.2. Thái Lan

Thái Lan là một trong những nước lớn cả về diện tích và dân số trong khu vực Đông Nam Á, là nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới sau Mỹ và Việt Nam, xuất khẩu cao su tự nhiên hàng đầu thế giới. Chính sách kinh tế của Thái Lan là ưu tiên phát triển giao thông đặc biệt là giao thông đường bộ.

Năm 1992 tổng chiều dài đường bộ cả nước là 167.448 km, trong đó 107.300 Km đường nông thôn. Từ kế hoạch 5 năm lần ba (1972-1976) mạng lưới giao thông nông thôn đã được quan tâm phát triển , đặc biệt là các đường nối liền khu sản xuất với các thị trường chế biến, tiêu thụ. Tính đến năm 1976, năm cuối cùng của kế hoạch đã xây dựng mới và nâng cấp 16569 km đường nông thôn, phần lớn tập trung vào các vùng có tiềm năng sản xuất.

Đường giao thông nông thôn được đưa vào kế hoạch xây dựng với mục đích phát triển các khu vực có tiềm năng chưa được khai thác và phục vụ nhu cầu quốc phòng. Mục đích chung của việc phát triển mạng lưới đường giao thông nông thôn là:

+ Bảo đảm khoảng cách từ các làng xóm đến bất cứ tuyến đường ô tô nào cũng không được lớn hơn 5 km.

+ Hoàn thiện mạng lưới giao thông nông thôn kết hợp với biên giới hành chính của các tỉnh, huyện, xã.

+ Bảo đảm đầu tư các tuyến đường phục vụ cho quyền lợi của dân làng.

Mặc dù đã phát triển hệ thống giao thông nông thôn trên toàn quốc và đã thu được nhiều kết quả đáng kể trong việc mở mang sản xuất, nhưng sự cách biệt giàu nghèo ở nông thôn ngày càng lớn, đây là một vấn đề mà Thái Lan đang gặp phải.

3.3. Bangladesh

Bangladesh là nước thuộc vào nhóm nước chậm phát triển song Chính phủ Bangladesh coi đường xá nông thôn là đầu vào quan trọng nhất để phát triển nông thôn. Nhà nước dành ưu tiên cho việc mở mang đường nông thôn ở những nơi nào nối được nhiều trung tâm dịch vụ nông nghiệp và phải tính toán sao cho người nông dân ở nơi xa nhất có thể dễ dàng đến giao dịch, đi về trong cùng một ngày.

Các dự án đường nông thôn phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội nông nghiệp. Việc tham gia trực tiếp của các cộng đồng dân cư địa phương được coi là động lực phát triển giao thông nông thôn. Mục tiêu phát triển đường xá nông thôn phải chú ý tạo thêm việc làm cho nông dân vào lúc nông n.

3.4. Trung Quốc

Trung Quốc là nước nông nghiệp, đất rộng người đông, dân số trên 1,2 tỷ người trong đó nông đân chiếm 80%. Với cơ sở nông thôn là làng hành chính mỗi làng có từ 80- 900 dân, do đó công nghiệp nông thôn phát triển nên mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông ở Trung Quốc có tác dụng rất lớn. Nhưng do vốn đầu tư cơ bản có hạn, nưóc đã phát động phong trào toàn dân làm đường giao thông nông thôn. quan điểm chủ đạo của Chính phủ Trung Quốc là “thà làm nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp để liên hệ với những xóm làng hơn là đường tốt mà nối đưọc ít làng xóm. Bước đầu có đi tạm, sau đó nâng cấp cũng chưa muộn”.

Với phương châm này, sử dụng một cách khoa học các loại vật liệu địa phương như đất và các vật liệu cấp thấp để xây dựng đường giao thông sử dụng kịp thời. Sau đó phân loại để lần lượt nâng cấp và đặc biệt chú ý công tác bảo dưỡng nền đường. Nhờ đó tạm thời đáp ứng được nhu cầu vận tải trước mắt, tiết kiệm vốn đầu tư ban đầu.

3.5. Hàn Quốc

Nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp công của, nhân dân tự quyêt định loại công trình nào cần ưu tiên xây dựng và chịu trách nhiệm, quyết định tất cả về thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu công ttrình. Nhà nước bỏ ra 1 (chủ yếu là vật tư, xi măng, sắt thép…) thì nhân dân bỏ ra 5 - 10 ( công sức và tiền của). Sự giúp đỡ đó của Nhà nước trong năm đầu chiếm tỷ trọng cao, dần dần các năm sau tỷ trọng hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa phương và nhân dân tham gia tăng dần. Nhân dân thực hiện và bước đầu đã đạt được kêt quả khả quan. Và bước đi của chương trình này diễn ra như sau:

- Phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn. Nông dân ở mỗi làng dưới sự tổ chức của Uỷ ban phát triển nông thôn tiến hành dân chủ lựa chọn các dự án phát triển . Bước đầu là các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thôn xã. Có khoảng 16 loại dự án chi tiết đáp ứng yêu cầu như làm đường, làm cầu… Qua hệ thống hành chính địa phương, mỗi làng báo cáo và liệt kê các dự án theo thứ tự ưu tiên cho các văn phòng huyện.

- Để kích cầu tiêu thụ bớt xi măng sản xuất ứ đọng, Chính phủ phân phối xi măng hỗ trợ các làng làm chương trình. 1600 làng được chọn tiến hành đự án bước đầu Chính phủ cấp cho mỗi làng 300 bao phân phối qua các kênh hành chính địa phương, từ TƯ - tỉnh - tới làng không phân biệt quy mô và vị trí của làng, không phân biệt làng giàu làng nghèo. Trợ giúp khiêm tốn này được coi như chất xúc tác thúc đẩy phát triển đi lên. Đến năm 1978, các dự án phát triển giao thông nông thôn cơ bản được hoàn thành, tổng chiều đài con đường mới được xây dựng mới và mở rộng từ làng tới các trục đường chính lên tới 43631 km. Các con đường trong xã được mở rộng và xây mới lên tới 42220 km. Khoảng 70000 các cây cầu kênh nhỏ cá loại được sửa chữa và xây mới.

- Mở rộng phong trào xây dựng giao thông nông thôn sang các hợp tác xã và doanh nghiệp

Trong những năm 50 - 60, hệ thống hợp tác xã được tổ chức song song với hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước nhằm phục vụ tốt cho các mục tiêu của Chính phủ. Phần lớn các khoản thu nhập của hợp tác xã được trả cho nhân viên của hệ thống tổ chức xây dựng giao thông.

Qua nghiên cứu tình hình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn của một số nước Châu Á có chế độ chính trị khác nhau, ta thấy rằng muốn phát triển nông thôn nhất thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng và trên hết phải có một mạng lưới đường giao thông phát triển hợp lý mới có khả năng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội và qua đó đưa đất nước đi lên. Qua đây xin rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với quá trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn ở Việt Nam:

Thứ nhất, muốn phát triển nông thôn nhất định phải xây dựng cơ sở hạ tầng và trên hết phải có một hệ thống mạng lưới đường giao thông phát triển hợp lý với khả năng phát triển của từng vùng, từng địa phương.

Thứ hai, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn, dưới sự tổ chức của UBND xã, huyện, nhân dân mỗi làng xã góp sức và vật chất, tiền của để xây dựng giao thông.

Thứ ba, trong điều kiện kinh tế còn khó khăn thì việc đầu tư xây dựng nhiều đường tiêu chuẩn cấp thấp phục vụ đi lại sản xuất sau đó sẽ nâng cấp, bảo dưỡng. Mở rộng phong trào phát triển cơ sở giao thông sang tất cả các thành phần kinh tế, chủ thể trong xã hội.



Каталог: uploads -> Luan%20Van%20Mau
Luan%20Van%20Mau -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Luan%20Van%20Mau -> MỤc lục lời mở đầu Chương I : Tình hình thu hút fdi,vai trò của nó đối với nền kinh tế Việt Nam
Luan%20Van%20Mau -> LỜi mở ĐẦu n
Luan%20Van%20Mau -> MỤc lục trang Lời nói đầu

tải về 0.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương