MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài


Những hạn chế và nguyên nhân



tải về 0.49 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích0.49 Mb.
#24136
1   2   3   4   5   6   7

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Những hạn chế

- Về đối tượng nộp thuế.

Tại Chi cục Hải quan Ninh Bình số DN nợ thuế quá hạn còn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 11% trên tổng số DN làm thủ tục hải quan qua địa bàn Ninh Bình). Như vậy cùng với số DN làm thủ tục hải quan trong thời gian qua không ngừng tăng nhanh thì số DN nợ thuế không tìm thấy địa chỉ, DN phá sản, ngừng hoạt động, mất tích cũng tăng lên đáng kể. Việc cập nhật theo dõi thông tin về DN còn nhiều hạn chế nên chưa thể chủ động đưa ra các biện pháp áp dụng phù hợp với từng loại DN.



- Về tình trạng gian lận thuế.

Dấu hiệu gian lận qua căn cứ tính thuế ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN chấp hành tốt pháp luật hải quan và các DN lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật của Nhà nước để trục lợi bất chính.

Các hình thức gian lận qua các căn cứ tính thuế trong thời gian qua là: gian lận qua giá tính thuế, gian lận qua xuất xứ hàng hoá, mã số hàng hoá, số lượng hàng hoá... Thực tế công tác quản lý căn cứ tính thuế nổi lên một số hạn chế sau:

+ Công tác tham vấn và xác định giá tính thuế chưa đạt hiệu quả cao; đa số chấp nhận trị giá khai báo sau khi tham vấn. Tổ chức tham vấn chủ yếu dựa trên một khuôn mẫu nhất định nên các biên bản tham vấn hầu như giống nhau; chưa chủ động, sáng tạo trong quá trình tham vấn, chưa làm nổi bật những mâu thuẫn, những nghi ngờ của cơ quan hải quan đối với trị giá khai báo của DN.

+ Một số công chức thực hiện công tác kiểm tra hồ sơ ban đầu và cập nhật dữ liệu khai báo còn mang tính hình thức, chưa đầy đủ; việc kiểm tra khai báo của DN đôi lúc còn chưa chặt chẽ, còn để xảy ra sai xót, chưa phát hiện kịp thời sự bất hợp lý của mức giá khai báo để tham vấn, bác bỏ.

+ Việc kiểm tra, phát hiện các chứng từ làm giả như: hoá đơn thương mại, xuất xứ hàng hoá... còn hạn chế.



- Về tình trạng nợ đọng thuế còn tăng cao, phức tạp, dây dưa kéo dài.

Qua phần số liệu thực trạng cho ta thấy tình hình nợ đọng tại Chi cục Hải quan Ninh Bình tăng lên hàng năm. Cụ thể tính đến ngày 31/12/2011, tổng số nợ thuế quá hạn tại Chi cục Hải quan Ninh Bình là: 19,384 tỷ đồng so với năm 2006, tổng số nợ thuế tăng 2,4 lần, số DN nợ thuế tăng 2,2 lần. Điều này đã chứng tỏ công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế tại Chi cục Hải quan Ninh Bình chưa có hiệu quả, tình trạng nợ thuế quá hạn phát sinh cao [19].

- Về vai trò của công tác phúc tập hồ sơ hải quan.

+ Chưa coi phúc tập là khâu quan trọng của kiểm tra hồ sơ hải quan thay cho kiểm tra trong thông quan; khả năng phát hiện các chứng từ bất hợp pháp và gian lận trong phúc tập còn thấp.

+ Chưa xây dựng được cẩm nang phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan và thanh tra thuế. Chưa thật nhạy bén, năng động trong hoạt động và chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ. Cán bộ làm công tác phúc tập hồ sơ chưa có nhiều kinh nghiệm do thường xuyên phải luân chuyển công tác theo quy định của Ngành. Thiếu các kỹ năng hành chính như lập biên bản, xác định hành vi vi phạm, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại ...

2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

- Nguyên nhân chủ quan

Một là, chưa làm tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ pháp luật cho ĐTNT nhưng công tác tuyên truyền, hỗ trợ pháp luật thuế tại Chi cục Hải quan Ninh Bình vẫn còn có một số hạn chế nhất định, đặc biệt là trước khi Luật Quản lý thuế có hiệu lực. Những hạn chế đó là:

+ Hình thức tuyên truyền hỗ trợ còn đơn điệu, chủ yếu là thuyết trình phổ biến văn bản mới, số lượt được phổ biến hẹp, thời gian ngắn (tối đa là 01 ngày/01 Luật). Hình thức truyên truyền qua mạng tuy đã có những bước đột phá, song còn đơn điệu, nghèo nàn.

+ Nội dung tuyên truyền tuy đã được chú trọng nhưng chưa sát với yêu cầu. Hầu hết vẫn chỉ là phổ biến lại quy định của pháp luật mà chưa giải thích rõ bản chất của quy định đó nên chất lượng tuyên truyền chưa cao, người nộp thuế chưa hiểu và chưa nắm hết được quy định của pháp luật. Do chưa hiểu được bản chất của sự việc, quyền lợi trách nhiệm của mình, nên còn khai sai, thiếu trung thực, chây ỳ, gian lận, trốn tránh thuế. Cá biệt có những DN nộp nhầm sắc cho một tờ khai hoặc không biết phân loại mã số cho hàng hoá NK nên đã kê khai nộp theo mức thuế suất thuế NK cao trong khi theo quy định của Biểu thuế NK mặt hàng đó lại thấp hơn.

+ Ngành Hải quan chưa có bộ máy độc lập, đủ mạnh; trình độ tổ chức, thực hiện công tác truyên truyền, hỗ trợ của cơ quan hải quan còn hạn chế và chưa được thực hiện theo quy trình, chuẩn mực chung.

Những tồn tại, hạn chế trên đây cần sớm được khắc phục theo hướng bảo đảm phù hợp với nhu cầu của người nộp thuế và chuẩn mực quốc tế. Đối tượng nộp thuế cần được coi là khách hàng và cơ quan hải quan là đơn vị cung cấp dịch vụ. Đối tượng nộp thuế đánh giá cơ quan hải quan thông qua việc cung cấp thông tin hỗ trợ pháp luật cho họ (được đối tượng nộp thuế hài lòng và tin tưởng ở chất lượng phục vụ hay không) trên cơ sở đó đánh giá một trong các tiêu chí về cơ quan hải quan văn minh, hiện đại.



Hai là, phương pháp kiểm tra các căn cứ tính thuế hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu mới, cụ thể:

+ Việc kiểm tra trị giá tính thuế chủ yếu dựa vào hồ sơ mà chưa chú ý đến sự bất hợp lý của mức giá khai báo. Tham vấn chưa có trọng điểm, trọng tâm.

+ Kiểm tra C/O lâu nay thường chỉ là kiểm tra tính hợp lệ về mặt hình thức của C/O mà ít chú ý đến yêu cầu chủ yếu của tiêu chuẩn của C/O. Việc kiểm tra, phát hiện chống C/O giả rất phức tạp. Nguyên nhân do người có thẩm quyền trong việc ký C/O ở các nước thuộc khu vực ưu đãi thuế quan diễn ra thường xuyên, mà cơ quan chức năng Việt Nam lại không thể cập nhật kịp thời chữ ký. Việc kiểm tra, đối chiếu các bản đăng ký chữ ký trên C/O cũng gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian do tờ khai đã trải qua sao chụp nhiều lần. Trong trường hợp có nghi ngờ, phát hiện gian lận về C/O nhập khẩu từ các nước có ưu đãi thuế quan, cơ quan hải quan sẽ phải gửi công văn sang cơ quan có thẩm quyền cấp C/O của nước xuất khẩu hàng hoá đó để yêu cầu kiểm tra.

+ Chưa xây dựng được hệ thống tra cứu mã số thuế hàng hoá khoa học và thuận tiện. Các nguyên tắc chung của hệ thống hài hoà mô tả và mã hàng hoá rất rõ ràng nhưng khó áp dụng thống nhất trong tất cả các trường hợp. Thực tế việc áp mã số thuế lại phụ thuộc nhiều vào nhận thức của từng cá nhân. Do đó, cùng một mặt hàng nhưng tại các đơn vị hải quan khác nhau lại phân loại và áp mã số thuế khác nhau.

+ Chưa chú ý đến việc tổng hợp và lưu giữ kết quả phân tích phân loại của cơ quan phân tích, phân loại và các mã thường xuyên xuất nhập khẩu qua địa bàn quản lý nên việc áp mã số đôi khi bị chậm trễ.

Ba là, chưa thực hiện quyết liệt công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế.

Có thể nói công tác thu hồi nọ đọng thuế là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và nhạy cảm của ngành Hải quan. Lãnh đạo Chi cục coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, là giải pháp tăng nguồn thu NSNN. Tại Chi cục Hải quan Ninh Bình đã triển khai thực hiện các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế, phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc thu hồi nợ đọng, bên cạnh kết quả đạt được, công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế vẫn còn nhiều tồn tại. Nguyên nhân của nợ đọng tăng cao là do:

+ Nhiều ĐTNT thay đổi địa chỉ nhưng không thông báo cho các cơ quan hữu quan, gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc thực hiện các biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ đọng thuế ;

+ Khi cơ quan hải quan đôn đốc nợ thuế, hầu hết các ĐTNT chây ỳ đều cam kết trả nợ thuế nhưng sau đó lại không thực hiện cam kết hoặc trả nợ thuế rất ít so với số nợ ;

+ Trường hợp ĐTNT nợ tiền phạt chậm nộp thuế lớn hơn số thuế phải nộp thì việc thu hồi nợ lại càng khó khăn. Bởi vì nhiều trường hợp nợ đọng được cơ quan hải quan chuyển hồ sơ sang cơ quan công an nhưng cơ quan công an lại trả lời là chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

+ Một số trường hợp theo dõi nợ thiếu chính xác, không thống nhất.

+ Hiện nay tại Chi cục có tổ đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế nhưng chưa có lực lượng chuyên trách. Tuy nhiên cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ này chủ yếu là kiêm nhiệm, nên hiệu quả hoạt động chưa cao.

+ Trình độ công chức làm công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế còn hạn chế, chưa chuyên sâu, số lượng còn thiếu chưa đáp ứng được công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế hiện nay.



Bốn là, quy trình Phúc tập hồ sơ và nắm tình hình thông tin doanh nghiệp phục vụ cho công tác Kiểm tra sau thông quan và thanh tra thuế hiện nay chưa đổi mới.

Hiện tại Hải quan Việt Nam chưa có tình báo hải quan, nên việc thu thập thông tin về giá người bán (giá FOB) gặp nhiều khó khăn. Hiện tượng thanh toán bằng tiền mặt trong giao dịch hoạt động xuất nhập khẩu còn khá phổ biến; hệ thống quản lý hóa đơn chứng từ bán hàng của các DN và cơ sở sản xuất kinh doanh chưa chặt chẽ; có tình trạng một số DN liên kết ngầm với nhau, thông tin cho nhau để cùng khai giá thấp để trốn thuế... nên việc kiểm soát, quản lý, đấu tranh, cũng như xác minh đối với các lô hàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan, gian lận thương mại gặp nhiều trở ngại.



Năm là, hạn chế về chất luợng đội ngũ cán bộ, công chức.

Năng lực cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Nghiệp vụ phân tích, phân loại để áp mã số thuế, cũng như xác định giá tính thuế đòi hỏi phải có kiến thức tổng hợp, chuyên sâu. Trong khi đó, trên thực tế, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức hải quan trực tiếp đảm nhiệm công tác kiểm tra thu thuế, tính thuế chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì vậy, việc áp nhầm thuế suất, áp nhầm giá, áp dụng chính sách thuế không đúng, không cập nhật thông tin về những mặt hàng mới của công chức hải quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ đọng.



Sáu là, hệ thống cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và hệ thống thông tin về cơ sở dữ liệu còn nghèo nàn, cụ thể:

+ Hệ thống cơ sở vật chất thiếu đồng bộ, trang thiết còn lạc hậu. Đặc biệt là tại Chi cục, trụ sở làm việc còn chật hẹp, nhà công vụ còn thiếu. Hệ thống máy móc trang thiết bị chuyên dụng còn thiếu Cân điện tử, máy đo vải, dụng cụ kiểm hoá ... Hệ thống máy tính được trang bị, phần lớn đã xuống cấp, cũ hỏng...



+ Có thể nói rằng hệ thống thông tin về cơ sở dữ liệu hiện hành mà cơ quan hải quan đã và đang thu thập, sử dụng là căn cứ vô cùng quan trọng để xác định thời hạn nộp thuế, áp dụng biện pháp cưỡng chế, phân loại hồ sơ hoàn thuế, kiểm tra, hỗ trợ cho việc xác định trị giá tính thuế cho hàng hoá nhập khẩu hoặc quyết định hình thức, mức độ kiểm tra. Nhưng, do hệ thống dữ liệu hiện hành cơ bản được cập nhật từ các thông tin khai báo trên hồ sơ hải quan, rất ít thông tin qua kiểm tra hoặc thu thập từ các nguồn khác, nên còn nghèo nàn, độ tin cậy thấp. Một số nguồn thông tin chưa được phân tích, xử lý, đánh giá mức độ tin cậy theo mức độ rủi ro trước khi khai thác sử dụng nên hiệu quả thấp. Một số thông tin dữ liệu chưa được cập nhật kịp thời hoặc còn sơ sài, mang tính chiếu lệ, không có cơ sở phân biệt dẫn đến tình trạng rất “thiếu thông tin” song lại có “thông tin thừa” do không thể sử dụng được. Năng lực thu thập, xử lý thông tin của cán bộ làm công tác thu thập xử lý thông tin còn rất yếu.

+ Một số thông tin trong hệ thống dữ liệu GTT22 không rõ ràng, minh bạch, do đó cơ quan hải quan không thể sử dụng để so sánh, kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn và xác định giá. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hiệu quả của công tác kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn còn thấp, tỷ lệ bác bỏ trị giá khai báo chỉ đạt từ 35 đến 40% tổng số lô hàng tham vấn trong khi xu hướng khai báo trị giá thấp ngày càng gia tăng. Việc chỉ sử dụng nguồn thông tin do doanh nghiệp khai báo như hiện nay để kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn và xác định trị giá vô hình dung đã “hợp thức hoá” cho tình trạng gian lận thương mại vì các doanh nghiệp đều đồng loạt khai báo trị giá giao dịch thấp.



- Nguyên nhân khách quan:

Một là, ý thức tuân thủ pháp luật về thuế của một số doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn thấp.

Một số DN đã lợi dụng chính sách ân hạn thuế: trong thời gian được ân hạn thuế DN đã nhập ồ ạt nhiều lô hàng, có số thuế từ trăm triệu đến vài tỷ đồng. Sau đó DN ngừng hoạt động, giải thể... để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Một số doanh nghiệp khác lợi dụng việc cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp đã cố tình thực hiện không đúng quy định, khai báo sai, gian lận thuế. Sau khi bị cơ quan hải quan kiểm tra, phát hiện tiến hành truy thu tiền thuế thì các doanh nghiệp này chây ì không nộp.



Hai là, nhiều khó khăn, trở ngại khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế.

Trích số dư tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng để nộp thuế là một biện pháp cưỡng chế đối với DN. Thực tế, biện pháp này gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực thi. Một số ngân hàng và tổ chức tín dụng chưa hợp tác chặt chẽ với cơ quan hải quan vì muốn bảo vệ khách hàng. Một số trường hợp ngân hàng chấp nhận hợp tác với cơ quan hải quan thì tài khoản của DN không còn số dư. Do đó việc thu thuế từ biện pháp số dư tài khoản của DN tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng là không có hiệu quả.

Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt là một biện pháp cưỡng chế khác. Mặc dù Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định chi tiết về vấn đề này, nhưng thực tế khi áp dụng còn nhiều khó khăn vướng mắc. Việc xác định tài sản hợp pháp của cá nhân nợ thuế đang nắm giữ, xác định trị giá tài sản, xác định và tính tỷ lệ tài sản đối với các tài sản có đồng sở hữu vốn... rất khó tiến hành trong thực tế.

Các biện pháp cưỡng chế như: dừng làm thủ tục hải quan, thu hồi giấy đăng ký chứng nhận kinh doanh, mã số thuế chỉ có hiệu quả đối với DN còn hoạt động. Đối với khoản nợ từ năm 2005 trở về trước, hiện nay phần lớn các DN không còn hoạt động, không truy tìm được địa chỉ và người đại diện hợp pháp có liên quan để thu hồi nợ.



Ba là, văn bản chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước còn nội dung phức tạp khó thực hiện và nhiều kẽ hở để doanh nghiệp lách luật.

Một số quy định của pháp luật thuế và quản lý thuế còn phức tạp, chưa tương thích với chuẩn mực quốc tế, khu vực và mục tiêu đơn giản hoá trong điều kiện hải quan hiện đại. Điều đó biểu hiện trên các góc độ sau đây:

- Pháp luật về quản lý thuế còn quá phức tạp. Thời hạn nộp thuế được quy định khác nhau tuỳ theo mục đích NK hàng hóa để sản xuất XK hay tiêu dùng, hay tạm nhập tái xuất. Quy định này tuy một mặt đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế trong điều kiện các DN còn thiếu vốn nhưng quá phức tạp. Cơ quan hải quan phải phân bổ nguồn lực lớn cho công tác đôn đốc, cưỡng chế thu nợ thuế, nợ phạt.v.v, không phù hợp với mục tiêu hiện đại hóa và áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro.

- Một số quy định về chính sách thuế (đặc biệt là Biểu thuế NK ưu đãi) chưa ổn định, hay thay đổi và không được hệ thống hoá kịp thời gây khó khăn cho quá trình thực hiện; người nộp thuế bị động trong tính toán hiệu quả kinh doanh v.v..

Ví dụ như mặt hàng ô tô chở người dưới 10 chỗ ngồi loại mới, trong thời gian 07 tháng (từ tháng 8/2007 đến tháng 4/2008), đã sửa đổi thuế suất thuế NK 04 lần. Cụ thể là:

+ Theo Quyết định số 70/2007/QĐ-BTC ngày 3/8/2007, mặt hàng có mức thuế suất thuế NK ưu đãi là 70%.

+ Theo Quyết định số 85/2007/QĐ-BTC ngày 22/10/2007, mặt hàng có mức thuế suất thuế NK ưu đãi là 60%.

+ Theo Quyết định số 13/2008/QĐ-BTC ngày 11/3/2008, mặt hàng có mức thuế suất thuế NK ưu đãi là 70%.

+ Theo Quyết định số 17/2008/QĐ-BTC ngày 17/4/2008, mặt hàng có mức thuế suất thuế NK ưu đãi là 83%.

- Chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu còn có nhiều nội dung phức tạp, chưa phù hợp với tính chất và đặc điểm của hoạt động XK, NK. Ví dụ, tiêu chí để xác định máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu để tạo tài sản cố định của DN là số máy móc, thiết bị đó phải do DN trực tiếp NK hoặc uỷ thác NK hoặc đấu thầu. Trường hợp DN nhập khẩu để bán thì phải chịu thuế giá trị gia tăng. Trong khi ở khâu thông quan, Cơ quan hải quan không thể xác định một cách chính xác nội dung của việc NK hàng hóa đó là ủy thác, NK để sử dụng hay để bán. Hoặc tiêu chí để xác định cho các mặt hàng là sản phẩm của ngành cơ khí, nếu là cơ khí tiêu dùng thì thuộc mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 10% nếu thuộc cơ khí công nghiệp thì mức thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5%, trong khi trong thực tế, việc xác định được phạm vi sử dụng của một số hàng hóa lại tùy thuộc vào người sử dụng, không phải do người sản xuất và không thể xác định một cách chính xác việc sử dụng hàng hoá trong quá trình làm thủ tục hải quan. Lợi dụng những kẽ hở của chính sách, một số DN đã khai báo sai mục đích sử dụng hàng hoá để trốn thuế.

Hoặc có nhiều hàng hóa mà việc phân loại áp mã HS lại phụ thuộc vào mục đích sử dụng, trong khi đó tại thời điểm thông quan không thể xác định mục đích sử dụng hàng hóa, kiểm tra sau thông quan để xác định mục đích sử dụng cũng sẽ rất khó khăn nếu hàng hóa đó được mua đi bán lại nhiều lần. Ví dụ như mặt hàng ‘Động cơ điện’ ở phân nhóm 850120 được phân ra làm hai loại đó là loại dùng cho máy giặt, máy điều hòa có thuế suất NK 3%, còn dùng cho loại khác là 22%. Thực tế kiểm tra hàng hóa tại thời điểm thông quan cho thấy không có cách nào để phân biệt được mục đích sử dụng của hàng hóa này, vì nếu cùng một thông số kỹ thuật thì chúng có thể lắp lẫn cho nhau.

- Công tác thu thuế XK, thuế NK về thủ tục hành chính áp dụng trong lĩnh vực hải quan nhưng lại đang được quy định ở 2 luật khác nhau là Luật Hải quan và Luật Quản lý thuế (quy định về khai hải quan với khai thuế, hồ sơ hải quan với hồ sơ thuế, kiểm tra hải quan với kiểm tra thuế, thông tin hải quan với thông tin thuế...), hoặc thường xuyên được sửa đổi, bổ sung (Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi) hoặc được hướng dẫn thực hiện bằng các công văn (đăng ký danh mục miễn thuế hàng đầu tư, quản lý nợ thuế). Do đó, một số quy định còn trùng lặp hoặc mâu thuẫn hoặc chồng chéo. Điều đó dẫn đến việc tuỳ tiện trong áp dụng, gây phiền hà cho DN và cũng là một trong những nguyên nhân gây cản trở quá trình cải cách, hiện đại hóa công tác thu thuế mà trước mắt là áp dụng thông quan điện tử của ngành hải quan trong thời điểm hiện tại.



Bốn là, các mặt hàng xuất nhập khẩu ngày càng phong phú, đa dạng. Nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu mới lần đầu xuất hiện nên không kịp bổ sung vào danh mục quản lý rủi ro về giá, không có hàng hoá giống hệt, tương tự để so sánh giá, từ đó dẽ bị gian lận về giá tính thuế, gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước.

Hoặc như mặt hàng ‘Bơm dầu bôi trơn’ trong lô hàng bộ linh kiện NK lắp ráp động cơ diesel có rất nhiều chi tiết cấu thành. Vậy mặt hàng ‘Bơm dầu bôi trơn’ là một linh kiện hay là cụm, cụm chức năng ? Trong khi đó không có tài liệu, hình ảnh minh hoạ nào của các cơ quan chức năng giải thích cho việc này.


Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ KIẾN NGHỊ

NHẰM HOÀN THIỆN THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU HIỆU QUẢ TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NINH BÌNH
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU HIỆU QUẢ TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NINH BÌNH

3.1.1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình

Xác định rõ những khó khăn trước mắt là khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế, Ninh Bình đã đề ra mục tiêu chính cho phát triển kinh tế trong những năm tới là ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chủ động phòng ngừa lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Đến năm 2015 các mục tiêu phát triển KT - XH chủ yếu của tỉnh Ninh Bình như sau:

Ninh Bình tiếp tục thực hiện các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Phấn đấu tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm 14%; GDP bình quân đầu người 50 triệu đồng năm 2015. Về cơ cấu ngành, phấn đấu giá trị tăng thêm của ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,5%/năm; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 15%/năm; ngành dịch vụ tăng 19%/năm; tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản trong tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) đến năm 2015 chiếm 10%, công nghiệp - xây dựng chiếm 48%, dịch vụ chiếm 42%.

Chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân theo tinh thần Nghị quyết TW7 (khóa X). Đồng thời, tập trung triển khai xây dựng Khu công nghiệp Gián Khẩu và Khu công nghiệp Khánh Phú thành khu kinh tế động lực của tỉnh. Bên cạnh đó, tiếp tục hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động XK, NK và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ DN để từng bước mở rộng quy mô đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp của Tỉnh.

Về công nghiệp, tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và có tiềm năng như: công nghiệp ô tô, sản xuất xi măng, sản xuất phân đạm .... Bên cạnh đó, với thế mạnh về lĩnh vực du lịch - dịch vụ, tỉnh Ninh Bình tập trung đầu tư phát triển hạ tầng các ngành dịch vụ vận tải, kho bãi, khách sạn, nhà hàng, đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng khu du lịch Tràng An - Bái Đính . Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch, tổ chức tốt công tác dự báo thị trường, đặc biệt là thị trường XK.

Về tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững, tập trung chỉ đạo, kiểm tra để tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, đặc biệt là quỹ đất giao cho các cơ quan, đơn vị quản lý. Thực hiện cơ chế giám sát, đánh giá, bảo vệ môi trường hiệu quả, chú trọng bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn đất và khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường. Bên cạnh đó, có kế hoạch triển khai thực hiện các mục tiêu định hướng chiến lược phát triển bền vững cho tỉnh.

Đến năm 2015, dự kiến Ninh Bình sẽ đảm bảo cung cấp nước hợp vệ sinh cho 90% dân số nông thôn và cho 98% dân số đô thị, tỷ lệ diện tích đất rừng che phủ rừng là 20%, tỷ lệ xã được công nhận nông thôn mới là 20% trở lên, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề là 40%, khách du lịch đạt 6 triệu lượt khách, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân đạt 15.000 tỷ đồng/năm, sản lượng lương thực có hạt bình quân hàng năm 48 vạn tấn trở lên, Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 300 triệu USD, Thu ngân sách đến năm 2015 là 4.200 tỷ đồng ... [29].

3.1.2. Một số phương hướng cơ bản nhằm hoàn thiện thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiệu quả trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

- Củng cố tiến tới hoàn thiện bộ máy tổ chức của Chi cục Hải quan Ninh Bình sao cho phù hợp với yêu cầu của công tác thu thuế XK, thuế NK trong giai đoạn mới. Đào tạo đội ngũ cán bộ hải quan có năng lực, có phẩm chất đạo đức để tổ chức thực hiện tốt công tác thu thuế XK, thuế NK, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào NSNN. Thể chế các quy định cụ thể trong chỉ đạo, điều hành nhằm tăng cường công tác kiểm tra của lãnh đạo. Nghiên cứu xây dựng quy hoạch sử dụng và luân chuyển cán bộ để đáp ứng các quy định về luân chuyển và tạo được động lực phấn đấu cho cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ.

- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và đẩy mạnh thu thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Phấn đấu hàng năm thu vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao bằng cách áp dụng các giải pháp thực hiện đúng chính sách thuế, tăng cường quản lý nhằm giảm nợ đọng thuế; Đảm bảo làm thủ tục cho hàng hóa xuất nhập khẩu, người và phương tiện xuất nhập cảnh được thuận tiện, nhanh chóng, đúng quy trình thủ tục hải quan theo phương châm của ngành “ chuyên nghiệp - minh bạch - hiệu quả”.

- Xây dựng và thực hiện đầy đủ các hình thức và nội dung tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT phù hợp với nhu cầu của các đối tượng này và chuẩn mực quốc tế, theo nguyên tắc cơ quan hải quan coi ĐTNT là đối tượng phục vụ. Công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế phải được thực hiện theo quy trình, chuẩn mực đã ban hành, đảm bảo chất lượng và thời gian cung cấp dịch vụ theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đã được xây dựng. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ, trao đổi thông tin với đối tượng nộp thuế được thực hiện chủ yếu trên hệ thống mạng điện tử ngành Hải quan. Tăng dần tỷ lệ ĐTNT thực hiện hình thức khai báo hải quan từ xa tiến tới 2012 sẽ thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

- Đổi mới công tác phúc tập hồ sơ hải quan để phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế của Cục Hải quan Thanh Hoá. Công tác Phúc tập hồ sơ dựa trên hồ sơ hải quan và dựa vào hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về ĐTNT, sử dụng phân tích thông tin, đánh giá rủi ro để xác định đúng đối tượng để cung cấp cho kiểm tra sau thông quan. Nâng cao chất lượng phúc tập hồ sơ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tránh phiền hà cho ĐTNT chấp hành tốt pháp luật thuế. Xử lý nghiêm các trường hợp đã phát hiện nhằm răn đe, ngăn ngừa các ĐTNT có mục đích gian lận trốn thuế.

- Xây dựng và thực hiện các phương pháp, biện pháp theo dõi, đánh giá nợ thuế và thu nợ thuế phù hợp với chuẩn mực quốc tế nhằm thu đủ số thuế nợ đọng vào NSNN, không để thất thu và đảm bảo công bằng xã hội.

- Xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về ĐTNT từ các nguồn thông tin trong và ngoài ngành Hải quan, đáp ứng được các yêu cầu của công tác thu thuế XK, thuế NK, phân tích, dự báo thu NSNN, công tác chỉ đạo điều hành. Hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về ĐTNT phải đầy đủ các thông tin đáp ứng yêu cầu công tác thu thuế và được cập nhật, xử lý, lưu trữ đầy đủ, chính xác, kịp thời [25].



tải về 0.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương