MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài


Những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình



tải về 0.49 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích0.49 Mb.
#24136
1   2   3   4   5   6   7

2.1.2. Những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình

2.1.2.1. Đặc điểm kinh tế

Kinh tế tỉnh Ninh Bình tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2001 - 2005 đạt 11,9%/năm, gấp gần 3 lần giai đoạn 1996 - 2000, cao hơn mức bình quân chung cả nước (7,5). Giai đoạn 2006 - 1010, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,5%. Tăng trưởng bình quân của giá trị sản xuất các ngành đạt cao: nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt 4,3%, công nghiệp - xây dựng đạt 28,4% và dịch vụ đạt 19,1%. Cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng: 48,9%, Dịch vụ: 35,3% và nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 15,8%. Bình quân GDP/người năm 2005 gấp 2,1 lần năm 2000, đạt 5,6 triệu đồng, nhưng chỉ bằng 53% so với mức chung của cả nước và bằng 54,2% của vùng đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn 2006 - 2010, GDP/người tăng mạnh do quy mô nền kinh tế tăng nhanh và thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình. Năm 2010 GDP/người đạt mức 20,9 triệu đồng, gấp 2,5 lần so với năm 2005, bằng 92% bình quân vùng đồng bằng sông Hồng và bằng 94% bình quân chung của cả nước

Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu và suy giảm kinh tế trong nước đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội địa phương trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế năm 2009 xuống thấp, chỉ đạt 15,4% (thấp nhất trong giai đoạn) nhưng hiện nay đang được phục hồi, tạo tiền đề để tiếp tục tăng cao trong các năm tiếp theo.

Bảng 2.1. GDP tỉnh Ninh Bình so với đồng bằng Sông Hồng và cả nước

Năm

Ninh Bình

ĐBSH

Cả nước

2000

9,6 %

9,4 %

6,9%

2005

11,9 %

11,0 %

7,5%

2010

16,5 %

10,5 %

6,9%

Nguồn: UBND tỉnh Ninh Bình [48]

Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân 32,9%/năm giai đoạn 2001 - 2005 ; giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 41,2%/năm, năm 2010 thu ngân sách đạt 3.100 tỷ đồng, gấp 5,6 lần so với năm 2005 qua đó đưa Ninh Bình trở thành tỉnh có mức thu khá trong cả nước. Tuy nhiên, thu chưa đáp ứng được nhu cầu chi (năm 2010 chi ngân sách là 5.200 tỷ đồng) [48].

Ngành công nghiệp giai đoạn 2001 - 2010 đã có bước phát triển nhanh, năm 2010 giá trị sản xuất đạt 10,61 nghìn tỷ đồng, gấp 11,4 lần so với năm 2000 (bình quân tăng 27,6%/năm). Trong đó giai đoạn 2006 - 2010 đã tăng mạnh hơn nhiều giai đoạn trước với tốc độ tăng bình quân 28,4%/năm - một kỷ lục trong phát triển của tỉnh. Tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp đã tăng mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh (tăng từ 15,5% năm 2000 lên 32,4% năm 2010) nhờ mở rộng quy mô và nâng cao năng suất. Tuy nhiên, năng suất lao động ngành công nghiệp vẫn còn thấp so với tiềm năng do trình độ, kỹ năng của người lao động và việc ứng dụng khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu.

Tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất các ngành dịch vụ giai đoạn 2001 - 2010 đạt trên 15,5%, trong đó giai đoạn 2006 - 2010 tăng 19,12%. Đến năm 2010, giá trị sản xuất cố định của các ngành dịch vụ đạt gần 3.485 tỷ đồng, gấp hơn 4,2% so với năm 2000. Thương mại phát triển mạnh, giai đoạn 2006 - 2010, tổng mức bán lẻ hàng hoá trên địa bàn tăng bình quân 27%/năm. Dịch vụ vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng khoảng 10%/năm. Hạ tầng các ngành dịch vụ được đầu tư mạnh, nhất là tại các khu du lịch trọng điểm như: khu du lịch sinh thái Tràng An, núi chùa Bái Đính, Tam Cốc, Bích Động ... Năng lực, kết cấu hạ tầng các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông, kho tàng, bến bãi được tăng cường đáng kể, góp phần vào tăng trưởng nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.

Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản đã có bước phát triển mới, hàng hoá nông sản được thị trường trong nước và nước ngoài chấp nhận; đảm bảo yêu cầu về an ninh lương thực, tạo nền tảng để ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết; chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu nội ngành và khu vực nông thôn; sản xuất thuỷ sản còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh ... Đến nay, trong cơ cấu giá trị sản xuất thì nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng khoảng 85,2%, thuỷ sản đang có chiều hướng tăng mạnh nhưng chiếm tỷ trọng 12,9%, lâm nghiệp cơ bản duy trì giá trị sản xuất và hiện chiếm gần 1,9%.

2.1.2.2. Đặc điểm văn hoá - xã hội

Tỉnh Ninh Bình đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ tháng 12/2002; có 7/8 huyện, thị xã và thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh có trường học cao tầng, kiên cố; 3 trường mầm non, 106 trường tiểu học và trường trung học cơ sở được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia. Đến nay, 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; có 49,7% trạm y tế có bác sĩ. Có 1622/1622 thôn, bản, phố xây dựng được hương ước, quy ước; có 4.192 gia đình văn hóa, 130 làng văn hoá và 90 cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hoá. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng khắp, có 17% dân số tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên; 12% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao, có 320 câu lạc bộ thể dục thể thao hoạt động thường xuyên; tại Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VI, đoàn vận động viên của Ninh Bình xếp thứ 24/64 đoàn tham gia. Việc thực hiện các chính sách xã hội đã có nhiều cố gắng, trong 2 năm qua, tỉnh đã đào tạo truyền nghề cho 58.000 người; giải quyết việc làm cho 38.625 lượt người, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm được 1,8%.

Cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả của cơ quan hành chính các cấp. ủy ban nhân dân tỉnh đã tích cực chỉ đạo các ngành, các đơn vị thực hiện thống kê, rà soát thủ tục hành chính theo Quyết định số 30/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiến hành rà soát và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế "một cửa", tổ chức triển khai cơ chế "một cửa liên thông" trong một số lĩnh vực có đủ điều kiện. Kết quả là thủ tục hành chính ở nhiều cơ quan, đơn vị đã từng bước được đơn giản hoá, thời gian giải quyết công việc được rút ngắn, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức thực thi công vụ được nâng lên, bộ máy vận hành nhịp nhàng, thông suốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và DN.

Tóm lại, kinh tế của tỉnh Ninh Bình tiếp tục được duy trì và phát triển với nhịp độ tăng trưởng khá; năng lực và trình độ của nhiều lĩnh vực kinh tế đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng, từng bước khai thác và phát huy được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Tuy vậy, Ninh Bình vẫn là một tỉnh nghèo, tốc độ đô thị hóa còn chậm, sản xuất công nghiệp nhỏ bé so với khu vực và cả nước, các hiện tượng như buôn lậu, gian lận thương mại còn diễn biến phức tạp, thu nhập bình quân đầu người chưa cao... Những vấn đề trên đã tác động không nhỏ đến công tác thu thuế XK, thuếNK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Yêu cầu đặt ra cho cơ quan hải quan làm sao để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, chống thất thu cho NSNN [48].


2.2. THỰC TRẠNG THU THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NINH BÌNH

Công tác thu thuế XK, thuế NK trên địa bàn tỉnh Ninh Bình do Chi cục Hải quan Ninh Bình tổ chức thực hiện và thu nộp thuế vào NSNN.

Chi cục Hải quan Ninh Bình là trực thuộc Cục Hải quan Thanh Hoá, Chi cục được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1995 theo Quyết định số 198/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan với chức năng, nhiệm vụ là quản lý nhà nước về hải quan trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Biên chế của Chi cục Hải quan Ninh Bình hiện nay có 20 người trong đó có 18 người làm công tác nghiệp vụ, 01 lái xe và 01 làm công tác tạp vụ. Theo quy trình nghiệp vụ hải quan, đơn vị phân chia theo các bộ phận sau: bộ phận tiếp nhận và đăng ký tờ khai, bộ phận kiểm tra thực tế hàng hoá, bộ phận tính thuế và bộ phận phúc tập hồ sơ hải quan.

Hiện nay, Chi cục Hải quan Ninh Bình được trang bị 20 máy vi tính, đảm bảo mỗi công chức nghiệp vụ có 1 máy vi tính để thực hiện nhiệm vụ công vụ (trong đó 18 máy vi tính để bàn và 02 máy tính xách tay). Chi cục được trang bị trụ sở để làm việc, nhà công vụ để ở, hệ thống thông tin tiên tiến phục vụ khai báo từ xa và tiến tới năm 2012 thông quan điện tử. Chi cục được trang bị một máy chủ, một mạng nội bộ LAN phục vụ cho tra cứu văn bản toàn ngành, kết nối số liệu kế toán, số liệu về giá các mặt hàng, quản lý rủi ro... giữa các đơn vị trong toàn ngành, có đường truyền internet phục vụ nghiệp vụ chuyên môn sâu.

Là một Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu, thủ tục hải quan của các doanh nghiệp có hoạt động XK, NK là hàng hoá chuyển cửa khẩu, vì thế hoạt động XNK rất phức tạp và đa dạng có rất nhiều loại hình như: đầu tư, gia công, sản xuất xuất khẩu, kinh doanh, nhập trở lại, tạm nhập tái xuất ... mà khu vực kiểm tra thực tế hàng hoá là chân công trình, nơi sản xuất, vì thế việc quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn. Một điểm nữa là Biểu thuế, giá tính thuế chưa được có sự thống nhất, luôn có sự thay đổi, bổ sung dẫn đến khó khăn cho công tác cập nhật và xác định thuế suất và giá tính thuế. Việc áp dụng Biểu thuế có trường hợp có thể áp dụng nhiều thuế suất khác nhau cho một mặt hàng. Trong khi đó thị trường Ninh Bình lại nhỏ, đang kêu gọi nguồn thu nên có doanh nghiệp ở ngoài tỉnh về làm thủ tục hải quan để nộp thuế cho tỉnh nhà lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế, có doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu có phát sinh thuế không mang hàng về địa phương tiêu thụ. Có hai doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang nợ đọng thuế lại lâm vào tình trạng phá sản, giải thể. Do đó việc thu thuế XK, thuế NK, đôn đốc nợ đọng thuế, chống gian lận thương mại trên địa bàn còn gặp rất nhiều khó khăn.

Ngoài những khó khăn trên, Chi cục Hải quan Ninh Bình cũng có những thuận lợi nhất định. Về cơ bản lực lượng hải quan đã được đào tạo cơ bản qua trường lớp nghiệp vụ hải quan, trình độ giác ngộ cao, nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, bên cạnh đó được sự quan tâm của lãnh đạo chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành có liên quan và nhất là sự kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo của lãnh đạo Cục Hải quan Thanh Hoá cộng với sự đồng tình ủng hộ về công tác thu nộp thuế XK, thuế NK của các DN trong và ngoài tỉnh.



2.2.1. Đối tượng nộp thuế

Nhằm tăng cường hoạt động quản lý ĐTNT, Chi cục Hải quan Ninh Bình đã xây dựng cơ sở dữ liệu về hệ thống thông tin của ĐTNT và quá trình chấp hành pháp luật về hải quan của ĐTNT. Hệ thống dữ liệu bao gồm: danh sách các DN bị cưỡng chế làm thủ tục hải quan; danh sách các DN nợ thuế quá hạn, cưỡng chế; thời gian hoạt động xuất nhập khẩu của DN; mặt hàng kinh doanh; thông tin vi phạm pháp luật về hải quan của các DN: trốn thuế, gian lận thuế, buôn lậu...

Sau khi có Luật Quản lý thuế, Luật Thuế XK, thuế NK và các Nghị định của Chính phủ, cùng các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, Ngành có trách nhiệm, Chi cục Hải quan Ninh Bình đã tích cực tổ chức cho cán bộ tập huấn nghiệp vụ theo quy định mới. Nhờ có chuẩn bị tốt cho hoạt động quản lý ở khâu kê khai thuế XK, thuế NK nên công việc ở đây đã đi vào nề nếp. Cụ thể là: theo quy trình, khi tiếp nhận hồ sơ khai báo thuế của người nộp thuế, lãnh đạo Chi cục căn cứ tính chất của bộ hồ sơ khai thuế, trình độ năng lực của công chức thừa hành để phân công công việc tiếp nhận hồ sơ.

Theo khoản 4, Điều 3, Thông tư số 194/2010/TT-BTC, công chức hải quan xác định đối tượng chịu thuế (hàng hoá xuất nhập khẩu), để xác định thời hạn nộp thuế theo Điều 18 của Thông tư số 194/2010/TT-BTC; thứ tự thanh toán tiền thuế theo Điều 42, Luật Quản lý thuế; cưỡng chế thuế làm thủ tục hải quan theo Điều 93, Luật Quản lý thuế. Khi đối tượng đủ điều kiện để đăng ký tờ khai hải quan thì công chức hải quan kiểm tra sơ bộ hồ sơ khai thuế, nếu thấy hợp lệ thì chấp nhận khai báo của người nộp thuế trên hệ thống máy tính của cơ quan hải quan, còn nếu thấy bộ hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ thì yêu cầu người nộp thuế bổ sung hoặc khai báo lại. Khi công chức hải quan chấp nhận khai báo của người nộp thuế, hệ thống quản lý rủi ro sẽ tự động cấp số tờ khai hải quan cho hồ sơ khai thuế của ĐTNT và phân luồng ở một trong ba mức : xanh, vàng, đỏ. Sau khi có số tờ khai và hệ thống quản lý rủi ro đã phân luồng thì công chức hải quan ra chứng từ ghi số thuế phải thu và thời hạn nộp thuế lưu cùng bộ hồ sơ khai thuế.



Luồng xanh: Công chức hải quan kiểm tra sơ bộ, chấp nhận thông quan hàng hoá trên cơ sở thông tin khai hải quan của DN;

Luồng vàng: Công chức hải quan kiểm tra chi tiết chứng từ giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan trước khi thông quan hàng hoá. Công chức hải quan kiểm tra nội dung khai của người khai hải quan, kiểm tra số lượng, chủng loại giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan, tính đồng bộ giữa các chứng từ trong hồ sơ hải quan; kiểm tra việc tuân thủ chính sách quản lý XK, NK, chính sách thuế và các quy định khác của pháp luật.

Luồng đỏ: Công chức hải quan kiểm tra chi tiết chứng từ giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hoá. Công chức hải quan kiểm tra nội dung khai của người khai hải quan, kiểm tra số lượng, chủng loại giấy tờ thuộc hồ sơ hải quan, tính đồng bộ giữa các chứng từ trong hồ sơ hải quan; kiểm tra việc tuân thủ chính sách quản lý XK, NK, chính sách thuế và các quy định khác của pháp luật; Kiểm tra thực tế hàng hoá: kiểm tra tên hàng, mã số, số lượng, trọng lượng, chủng loại, chất lượng, xuất xứ của hàng hoá. Kiểm tra đối chiếu sự phù hợp giữa thực tế hàng hoá với hồ sơ hải quan.

Trên thực tế, mặc dù đã được cơ quan hải quan phân luồng hồ sơ khai thuế để phân biệt mức độ kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra hàng hoá, nhưng vẫn còn nhiều doanh nghiệp lợi dụng sự phân luồng hồ sơ khai thuế để gian lận, trốn thuế. Chính vì thế, thông qua công tác thu thập và quản lý thông tin rủi ro, Chi cục Hải quan Ninh Bình đã thực hiện việc chuyển luồng từ luồng xanh sang luồng vàng, từ luồng vàng sang luồng đỏ hoặc từ luồng xanh sang luồng đỏ. Kết quả việc chuyển luồng đã phát hiện và ngăn chặn được biểu hiện vi phạm của các DN.



* Hàng hoá xuất nhập khẩu làm thủ tục tại Chi cục Hải quan Ninh Bình

Trong những năm gần đây hoạt động XK, NK trên địa bàn Ninh Bình có sự tăng trưởng khá mạnh mẽ, kể cả về số lượng hàng hoá và kim ngạch XK, NK. Tổng kim ngạch hàng hoá XK, NK làm thủ tục tại Chi cục Hải quan Ninh Bình trong những năm gần đây được thể hiện trong bảng 2.2:



Bảng 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu từ năm 2006 - 2011

Đơn vị tính: triệu USD



Năm

Kim ngach XK

Kim ngach NK

Tổng kim ngạch XNK

So sánh với năm trước

2006

20,6

69,7

90,3

121,3%

2007

42,9

81,6

124,5

137,8%

2008

44

127,1

171,1

137,4%

2009

38,4

247,3

285,7

167%

2010

84,2

396,6

480,8

168,3%

2011

143,5

288,7

432,2

90%

Nguồn: Số liệu báo cáo của Chi cục Hải quan Ninh Bình [18]

Qua số liệu ở bảng 2.2 ta thấy kim ngạch xuất nhập khẩu năm sau cao hơn năm trước, điều đó phù hợp với xu thế phát triển chung, chứng tỏ việc mở rộng giao lưu hàng hoá với các nước ngày càng phát triển. Trong các năm 2006, 2007 và 2008 kim ngạch xuất nhập khẩu đều tăng ở mức trên 20%/năm, nhưng số tăng không đột biến. Giai đoạn 2009 đến 2010 kim ngạch tăng rất mạnh, đặc biệt là năm 2009 tăng 67% so với năm 2008 và năm 2010 tăng 68,3% so với năm 2009. Nguyên nhân của sự tăng đột biến này là cuối năm 2008 tỉnh Ninh Bình phê duyệt xây dựng 03 nhà máy xi măng và nhà máy đạm Ninh Bình.

Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu qua Chi cục Hải quan Ninh Bình như sau:

- Hàng xuất khẩu: hàng nông sản thực phẩm; hàng gia công xuất khẩu; hàng mây tre đan; hàng thêu ren, khoáng sản …

- Hàng nhập khẩu: phôi thép; máy móc thiết bị nhập khẩu tạo tài sản cố định; hàng lâm sản; ô tô, xe máy nguyên chiếc; nguyên liệu phục vụ ngành may...

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Ninh Bình ngày càng tăng, điều đó chứng tỏ rằng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu qua chi cục ngoài cửa khẩu tăng, Hải quan Ninh Bình đã có những biện pháp đúng đắn để thu hút DN về làm thủ tục. Song điều này cũng đặt ra một vấn đề quan trọng đó là làm thế nào để quản lý tốt số thuế xuất nhập khẩu, đảm bảo thu đúng, thu đủ thì chắc chắn sẽ mang lại số thu lớn cho NSNN trên địa bàn tỉnh.



* Số lượng doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn

Trong giai đoạn 2006 - 2011 số lượng DN tham gia hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Ninh Bình không ngừng tăng nhanh. Có 103 DN thường xuyên làm thủ tục xuất nhập khẩu tại Chi cục, trong đó 13 DN nước ngoài chiếm 13 % và 90 DN trong nước chiếm 87 %, như:



  • Nhà máy ô tô Thành Công

  • Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường

  • Nhà máy xi măng The Vissai

  • Nhà máy đạm Ninh Bình

  • Nhà máy xi măng Duyên Hà

  • Nhà máy xi măng Hướng Dương

  • Nhà máy xi măng Hệ Dưỡng

  • Công ty TNHH ADM 21



2.2.2. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 

Trên thực tế có nhiều cách xác định căn cứ tính thuế, do đó cũng có nhiều căn cứ tính thuế. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn chỉ tập trung vào một số căn cứ tính thuế chủ yếu sau: giá tính thuế, thuế suất của hàng hóa, số lượng hàng hóa.



2.2.2.1. Giá tính thuế

Việc áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO đã tạo bước ngoặt cơ bản cho hệ thống xác định trị giá tính thuế hiện hành ở Việt Nam, một mặt vừa đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế và thực hiện cam kết quốc tế, mặt khác tạo thuận lợi cho các DN hoạt động XK, NK thương mại.

Có 6 phương pháp để xác định hàng hoá NK được quy định tại Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ về việc quy định xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá XK, NK [Phụ lục số 3]; Phương pháp trị giá giao dịch được coi là phương pháp chủ đạo, vì nó là cơ sở cho việc xác định giá tính thuế cho phần lớn các trường hợp hàng hoá NK. Theo phương pháp trị giá giao dịch, giá NK căn cứ vào hóa đơn thương mại và chi phí hợp lý thực tế phát sinh. Cách xác định trị giá giao dịch đã phản ánh một cách khách quan giá tính thuế của hàng NK và loại bỏ những áp đặt về giá mà cơ quan hải quan vẫn thực hiện trước đây qua bảng giá tối thiểu. Từ đó tạo sự chủ động cho DN trong việc xác định trị giá, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh và ngành hải quan đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục hành chính.

Để áp dụng phương pháp trị giá giao dịch, Chi cục Hải quan Ninh Bình đã tích cực hoạt động tham vấn. Tham vấn là một hoạt động nghịêp vụ trong khâu xác định trị giá tính thuế trong quy trình nghiệp vụ hải quan. Tham vấn là việc cơ quan hải quan và người nộp thuế trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định trị giá tính thuế đã kê khai theo yêu cầu của người nộp thuế. Mục đích của tham vấn để xác định tính trung thực của trị giá khai báo của người khai hải quan trước những nghi vấn của cơ quan hải quan và tạo điều kiện cho người khai hải quan cung cấp các tài liệu liên quan chứng minh tính trung thực của trị giá khai báo hoặc buộc họ phải thừa nhận những sai phạm của họ trong khai báo hải quan.

Đối tượng tham vấn ở Chi cục Hải quan Ninh Bình thường là các chủ lô hàng NK có nghi vấn về trị giá khai báo. Khi cơ quan hải quan có nghi vấn về mức giá đối với các mặt hàng thuộc danh mục mặt hàng quản lý rủi ro về giá do Tổng cục Hải quan quy định hoặc thuộc Danh mục mặt hàng trọng điểm do Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Thanh Hoá quyết định có nghi vấn về mức giá khai báo và người khai hải quan đã được cơ quan hải quan thông báo về cơ sở, căn cứ nghi vấn mức giá khai báo, phương pháp, mức giá do cơ quan hải quan xác định nhưng người khai hải quan không thống nhất với mức giá và phương pháp xác định trị giá do cơ quan hải quan xác định thì Chi cục Hải quan Ninh Bình mời chủ hàng đến tham vấn. Ngoài ra, đối tượng tham vấn còn là các mặt hàng mà người XK và người NK có mối quan hệ đặc biệt có thể ảnh hưởng đến trị giá giao dịch hoặc một số nghi vấn khác mà Chi cục Hải quan Ninh Bình đã theo dõi, đúc rút trong thực tế.

Trong những năm qua, tại Chi cục Hải quan Ninh Bình công tác trị giá tính thuế được đặc biệt chú trọng, cơ bản hàng NK được xác định giá tính thuế theo phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá NK, do vậy đã rút ngắn được thời gian thông quan, tạo thuận lợi cho hoạt động XK, NK, nâng cao trách nhiệm khai báo của doanh nghiệp. Chi cục Hải quan Ninh Bình đã triển khai hàng loạt các biện pháp như:

- Tăng cường công tác tuyên truyền để người nộp thuế hiểu và thực hiện các luật thuế mới.

- Lựa chọn cán bộ, công chức có năng lực về công tác trị giá tính thuế để bố trí phù hợp, đã hạn chế tình trạng gian lận thương mại qua giá.

- Đề nghị cấp trên tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ, công chức các kỹ năng về nghiệp vụ.

- Tổ chức thực hịên tham vấn nhanh trước khi thông quan đối với các lô hàng nhập khẩu có thuế suất cao nhưng DN khai trị giá thấp.

Nhờ tổ chức tốt công tác tham vấn trị giá tính thuế, Chi cục Hải quan Ninh Bình đã thu được những kết quả nhất định, góp phần tăng thu cho NSNN. Cụ thể như đã được nêu trong biểu 2.3:

Bảng 2.3. Số liệu truy thu thu thuế qua tham vấn giá từ năm 2006 - 2011

Stt

Năm

Số tờ khai qua tham vấn (tờ khai)

Số thuế truy thu sau tham vấn (tỷ đồng)

1

2006

4

0,15

2

2007

13

0,87

3

2008

124

1,98

4

2009

47

2,72

5

2010

19

3,1

6

2011

68

2,43

Nguồn: Chi cục Hải quan Ninh Bình qua các năm [20]

Bên cạnh những kết quả cao đã đạt được từ khi áp dụng việc xác định trị giá tính thuế hàng NK, thì ngành hải quan nói chung và Chi cục Hải quan Ninh Bình đang phải đối mặt với rất nhiều thủ đoạn gian lận thuế qua trị giá tính thuế. Các hành vi gian lận thường được các DN thực hiện dưới các hình thức sau:

- Dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan Hải quan (GTT22) để khai báo trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch thực tế, sau đó khai thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng loại, tương tự đã NK trước đó.

- Khai thấp trị giá đối với lô hàng nhập “thử”, tức nhập để thăm dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa kịp xác minh, xử lý, tiến hành thủ tục giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.

- Thông đồng với nước ngoài giảm giá: Nhiều DN đã thông đồng với đối tác bán hàng để lập hoá đơn, hợp đồng hạ thấp giá trị hàng hoá so với giá trị thực; Khai báo thấp về chất lượng hàng hóa hoặc đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn; Đặc biệt trong loại hình NK hàng hoá phi mậu dịch, với đặc thù loại hình này là hàng hoá không cần hợp đồng mua bán, việc gian lận về giá diễn ra rất phức tạp, dễ xảy ra móc nối tiêu cực giữa hải quan làm thủ tục và DN. Nhiều DN đã lợi dụng hình thức này để mua gom hàng hoá tại nước ngoài, sau đó tạo công ty giả để làm hợp đồng, hoá đơn hạ thấp trị giá hàng hoá.

- Chia nhỏ linh kiện, phụ tùng của sản phẩm nguyên chiếc để gian lận giá: Lợi dụng chính sách thuế hiện hành thuế suất đối với linh kiện hoặc nguyên liệu NK thấp hơn hàng nguyên chiếc nhập khẩu do vậy thủ đoạn này được thực hiện bằng cách lập nhiều công ty khác nhau hoặc móc nối giữa các công ty với nhau và mỗi công ty nhập khẩu một bộ phận cấu thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau trong các thời điểm khác nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan.

Việc áp dụng trị giá tính thế theo GATT đã tạo thuận lợi cho DN chủ động hơn trong kinh doanh, sản xuất. Tuy nhiên, cùng với thuận lợi ấy, nhiều doanh nghiệp lại đang lợi dụng chính sách này để khai báo mức giá giao dịch thấp nhằm giảm số thuế phải nộp…

Hơn nữa, việc gian lận qua giá là một hình thức gian lận phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Nhưng việc quản lý của hải quan lại rất khó khăn vì việc tổ chức tham vấn chỉ có thể tập trung ở một số mặt hàng trọng tâm, trọng điểm là hàng hoá có thuế suất cao, kim ngạch lớn, là hàng hoá thuộc luồng vàng và luồng đỏ. Thực tế trên 80% hàng hoá thông quan ở Chi cục Hải quan Ninh Bình có hồ sơ khai thuế thuộc diện luồng xanh là miễn kiểm tra thực tế hàng hoá. Đối tượng này sẽ do lực lượng kiểm tra sau thông quan thực hiện việc kiểm soát.



2.2.2.2. Thuế suất của hàng hoá

- Việc áp mã hàng hoá

Việc phân loại hàng hoá để xác định các mức thuế suất phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc phân loại hàng hoá, được thực hiện theo hướng dẫn về phân loại hàng hoá XK, NK và các văn bản hiện hành khác.

Tại Chi cục Hải quan Ninh Bình trong thời gian qua đã kiểm tra, phát hiện một số thủ đoạn trốn thuế qua việc khai báo sai mã số hàng hóa như sau:

+ Lợi dụng cơ chế tự kê khai, tự tính thuế trong quá trình thông quan, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện hành vi mô tả sai hàng hoá trên tờ khai hải quan, đưa hàng hoá từ mã số có thuế suất cao về mã số có thuế suất thấp để gian lận trốn thuế.

+ Trong thực tế, để trốn thuế các DN cố tình khai báo sai mã số của hàng hoá nhập khẩu; lợi dụng sự phức tạp trong cơ cấu sản phẩm cũng như tên gọi, đặc biệt là những sản phẩm mới, là hỗn hợp của nhiều chất hoặc linh kiện khó có thể phân biệt bằng cảm quan để kê khai vào mã số có thuế suất thấp.

+ Đối với trường hợp hàng hoá là nguyên chiếc có thuế suất thuế nhập khẩu cao hơn thuế suất thuế nhập khẩu của các chi tiết tháo rời thì DN nhập khẩu sẽ tháo rời các chi tiết rời của một sản phẩm, chia nhỏ lô hàng để nhập khẩu làm nhiều chuyến (NK các chi tiết, linh kiện rời không đồng bộ trong từng lô hàng NK nhưng lại là đồng bộ qua nhiều lô hàng NK) để được phân loại theo từng chi tiết linh kiện nhằm trốn thuế NK qua thuế suất...

+ Tình trạng DN gian lận trốn thuế bằng thủ đoạn nhập nhằng trong khai báo hải quan, như: khai báo sai mặt hàng hoặc tính chất mặt hàng để được áp mã số thuế thấp; nhập nhiều, khai ít… cũng diễn ra phổ biến. Có những lô hàng, do khai báo sai mặt hàng dẫn đến chênh lệch thuế vài trăm triệu đồng, thậm chí cả tỉ đồng. Điển hình có lô hàng là ô tô tải của Công ty CP Dịch vụ và Thương mại Đức Phát, năm 2008 nhập khẩu lô hàng khai báo sai thuế suất thuế nhập khẩu, sau khi kiểm tra Chi cục truy thu thuế là 2.753.950.000 VNĐ [14].

- Xuất xứ hàng hoá

Xuất xứ hàng hoá (C/O) là một căn cứ quan trọng để cơ quan hải quan áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt.

Theo quy định hiện hành, thuế suất đối với hàng hoá NK bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường, trong đó mức thuế suất ưu đãi đặc biệt thường thấp hơn rất nhiều so với thuế suất suất ưu đãi và thuế suất thông thường. Thuế suất ưu đãi đặc biệt được áp dụng cho hàng hoá NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và các trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.

Một trong những điều kiện để được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt là DN phải xuất trình: C/O phải có chữ ký và con dấu phù hợp với mẫu chữ ký và con dấu được cơ quan có thẩm quyền cấp C/O của các nước có thoả thuận ưu đãi đặc biệt với Việt Nam cấp. Danh sách các cơ quan có thẩm quyền cấp C/O của các nước có thoả thuận ưu đãi đặc biệt với Việt Nam được quy định tại các quyết định ban hành biểu thuế NK ưu đãi đặc biệt cho từng hiệp định thương mại của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng thuế suất suất ưu đãi đặc biệt cho các nước Asean, Trung quốc và Hàn quốc. Do chênh lệch lớn về mức thuế suất nên thời gian qua đã xuất hiện nhiều trường hợp làm giả C/O hoặc khai báo sai C/O để hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt

2.2.2.3. Số lượng hàng hoá

Việc quản lý số lượng hàng hoá được thông qua kiểm tra thực tế hàng hoá XK, NK. Kiểm tra thực tế hàng hoá do cán bộ hải quan thực hiện với nội dung kiểm tra: kiểm tra đối chiếu thực tế hàng hoá XK, NK với nội dung khai trên tờ khai hải quan và chứng từ của bộ hồ sơ hải quan về: tên hàng, mã số thuế, số lượng hàng hoá, chất lượng hàng hoá, C/O ... Việc kiểm tra thực tế hàng hoá được thực hiện bằng các máy móc, thiết bị: cân điện tử, ... hoặc bằng phương pháp thủ công. Sau khi có kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá, cán bộ hải quan phải ghi kết luận kiểm tra và xử lý kết quả kiểm tra theo quy định.

Tại Chi cục Hải quan Ninh Bình do chưa được trang bị đồng bộ và đầy đủ máy móc, thiết bị hiện đại, chuyên dụng, nên việc kiểm tra thực tế hàng hoá chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thủ công. Do đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kiểm tra. Nhận thức được việc khai thuế của ĐTNT là một khâu quan trọng nên Chi cục Hải quan Ninh Bình đã đề ra nhiều biện pháp như :

- Chủ động triển khai khai báo hải quan từ xa (năm 2009), đây là bước đệm quan trọng để Chi cục Hải quan Ninh Bình tiến tới thông quan điện tử vào năm 2012.

- Tăng cường công tác tập huấn cho cán bộ, công chức tham vấn giá kỹ năng cần thiết về nghiệp vụ. Lựa chọn cán bộ, công chức có năng lực trình độ để bố trí làm công tác thuế giá nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng gian lận thuế qua giá, đồng thời hướng dẫn DN khai báo giá tính thuế đúng quy định.

- Công khai các văn bản có liên quan đến lĩnh vực khai thuế để DN nắm vững nghiệp vụ tại bàn làm thủ tục của Chi cục.

- Chi cục đã xây dựng nhiều chuyên đề như chuyên đề “Chống gian lận thương mại qua giá”, thành lập “Tổ giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp” ...

- Xây dựng và đưa vào áp dụng thành công chương trình hỗ trợ kiểm tra hồ sơ và tính thuế.

- Tập huấn và phổ biến triển khai thực hiện Luật Thuế XK, thuế NK, Luật Quản lý Thuế và các văn bản có liên quan cho cán bộ công chức trong Chi cục.

- Thực hiện hướng dẫn doanh nghiệp áp dụng đúng các mức thuế suất của các nước mà Việt Nam tham gia ký kết công ước quốc tế. Do mức thuế suất này thường xuyên thay đổi nên tại Chi cục bố trí cán bộ hướng dẫn khai báo thuế cho DN.

- Cập nhật thường xuyên, quán triệt đến từng cán bộ công chức việc thay đổi thuế suất của từng nhóm mặt hàng để mỗi cán bộ công chức nắm vững và áp dụng trong công việc hàng ngày nhằm thu đúng, thu đủ thuế đồng thời góp phần thực hiện đúng cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết trong lĩnh vực thuế.



tải về 0.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương