Ềm Tin & Vài Lời Nhắc Quan Trọ


Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại



tải về 1.63 Mb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích1.63 Mb.
#38315
1   2   3   4

Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại

اَلْحَمْدُ لِلهِ وَالصَّلَاةُ وَالسَّلَامُ عَلَى مَنْ لَا نَبِيَّ بَعْدَهُ، وَعَلَى آلِهِ وَصَحْبِهِ.

Mọi lời ca ngợi và tán dương điều kính dâng Allah, cầu Ngài ban bình an và phúc lành cho vị Nabi cuối cùng, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người.

Từ Abdul Azeez bin Abdullah bin Baaz xin gởi đến quí tín hữu Muslim đọc được bài viết này. Thành khẩn cầu xin Allah ban cho tôi cùng tất cả các bạn luôn là nhóm người đi đúng đường chánh đạo của Allah.

Assalamu a’laikum wa rahmatullahi wa barakatuh, Amma Ba’d:

Đây là lời khuyên của tôi muốn gởi đến quí đạo hữu Muslim để khuyến cáo vài vấn đề đã xảy ra do thiếu hiểu biết giáo lý, do bị lũ Shaytaan quyến rũ và do đuổi theo dục vọng bản thân của vài người.


Kêu Gọi Mọi Người Tôn Thờ Mình:

Tôi đã nghe được rằng có một số người đã tự xưng tôn, cho rằng bản thân xứng đáng được thờ phụng. Từ đó y ngụy tạo đủ điều che mắt thiên hạ nào là tinh thông thiên cơ địa lý, cứu nhân độ thế. . . đây là lời lẽ của những kẻ lầm lạc tựa như Fir-a’wn (Fa ra on) và nhóm người ngoại đạo Kafir. Quí đạo hữu phải biết rằng duy chỉ Allah mới xứng đáng được thờ phượng, Ngài có khả năng tuyệt đối vượt trên tất cả, tinh thông am tường vạn vật và giàu có vô cùng không cần đến bất cứ vật thể nào. Chỉ vì mục đích thờ phượng mà Allah đã tạo ra thiên hạ, lập nên vủ trụ trời đất, cử phái Rasul, thiên khải Kinh Sách, tạo ra con người và ma quỉ và dựng cờ thánh chiến, Allah phán:



﴿وَمَا خَلَقۡتُ ٱلۡجِنَّ وَٱلۡإِنسَ إِلَّا لِيَعۡبُدُونِ ٥٦﴾ الذاريات: ٥٦

Và TA (Allah) không tạo hóa ra loài Jin và loài người ngoại trừ để tôn thờ TA. Al-Zariyat: 56 (chương 51), ở chương khác Allah phán:



﴿وَمَنۡ أَضَلُّ مِمَّن يَدۡعُواْ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَن لَّا يَسۡتَجِيبُ لَهُۥٓ إِلَىٰ يَوۡمِ ٱلۡقِيَٰمَةِ وَهُمۡ عَن دُعَآئِهِمۡ غَٰفِلُونَ ٥ وَإِذَا حُشِرَ ٱلنَّاسُ كَانُواْ لَهُمۡ أَعۡدَآءٗ وَكَانُواْ بِعِبَادَتِهِمۡ كَٰفِرِينَ ٦﴾ الأحقاف: 5 - 6

Và lầm lạc thay cho kẻ cầu xin (những thần linh khác) thay vì cầu xin Allah, chúng (những thần linh) không hề đáp lại lời cầu xin đó cho đến ngày tận thế và chính chúng cũng chẳng biết đến lời cầu xin đó * Và một khi cả nhân loại được phục sinh sống lại (thì những thần linh và người được cầu xin) lại là kẻ thù của nhau. Lúc đó (những thần linh) phủ nhận hết tất cả sự tôn thờ dành cho y. Al-Ahqaaf: 5 - 6 (chương 46), ở chương khác Allah phán:



﴿وَمَن يَدۡعُ مَعَ ٱللَّهِ إِلَٰهًا ءَاخَرَ لَا بُرۡهَٰنَ لَهُۥ بِهِۦ فَإِنَّمَا حِسَابُهُۥ عِندَ رَبِّهِۦٓۚ إِنَّهُۥ لَا يُفۡلِحُ ٱلۡكَٰفِرُونَ ١١٧﴾ المؤمنون: ١١٧

Và ai cầu nguyện cùng với Allah một thần linh khác mà không có bằng chứng nào về việc thờ phụng đó thì việc thanh toán y chỉ thuộc về Thượng Đế của y. Quả thật, Ngài không giúp những kẻ ngoại đạo chiến thắng. Al-Muminoon: 117 (chương 23), ở chương khác:



﴿وَلَا تَدۡعُ مِن دُونِ ٱللَّهِ مَا لَا يَنفَعُكَ وَلَا يَضُرُّكَۖ فَإِن فَعَلۡتَ فَإِنَّكَ إِذٗا مِّنَ ٱلظَّٰلِمِينَ ١٠٦ ﴾ (سورة يونس: 106)

{Và chớ đừng cầu nguyện, khấn vái ngoài Allah những ai (vật) không thể mang lợi cũng chẳng thể gây hại được Ngươi. Mà nếu Ngươi làm thế thì quả thật Ngươi sẽ là một kẻ sai phạm.} Yunus: 106 (Chương 10), ở chương khác:



﴿إِنَّ ٱللَّهَ لَا يَغۡفِرُ أَن يُشۡرَكَ بِهِۦ وَيَغۡفِرُ مَا دُونَ ذَٰلِكَ لِمَن يَشَآءُۚ﴾ النساء: ٤٨

Quả thật, Allah không tha thứ cho hành vi Shirk (hành vi gán ghép một đối tác ngang hàng với Allah trong thờ phượng) nhưng Ngài sẽ tha thứ cho những tội lỗi khác cho người nào Ngài muốn. Al-Nisa: 48 (chương 4), ở chương khác:



﴿إِنَّ ٱلشِّرۡكَ لَظُلۡمٌ عَظِيمٞ ١٣﴾ لقمان: ١٣

Quả thật, tổ hợp những thần linh khác cùng với Allah là một điều sai quấy vô cùng to tác. Luqmaan: 13 (chương 31), ở chương khác:



﴿لَقَدۡ كَفَرَ ٱلَّذِينَ قَالُوٓاْ إِنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡمَسِيحُ ٱبۡنُ مَرۡيَمَۖ وَقَالَ ٱلۡمَسِيحُ يَٰبَنِيٓ إِسۡرَٰٓءِيلَ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ رَبِّي وَرَبَّكُمۡۖ إِنَّهُۥ مَن يُشۡرِكۡ بِٱللَّهِ فَقَدۡ حَرَّمَ ٱللَّهُ عَلَيۡهِ ٱلۡجَنَّةَ وَمَأۡوَىٰهُ ٱلنَّارُۖ وَمَا لِلظَّٰلِمِينَ مِنۡ أَنصَارٖ ٧٢﴾ المائدة: ٧٢

Quả thật, những ai nói: Allah chính là (Nabi Ysa – Giê-su) con trai của Mar-yam (Maria) là những kẻ vô đức tin thật sự. Ngược lại, chính (Nabi Ysa – Giê-su) đã nói: Hỡi con cháu Israa-il! Các người hãy tôn thờ Allah, Ngài chính là Thượng Đế của ta và của các người. Quả thật, những ai thờ phụng những thần linh khác bên cạnh Allah thì chắc chắn Allah sẽ cấm y vào Thiên Đàng và nơi ở dành cho y chính là hỏa ngục. Và không có sự giúp đỡ nào đối với những kẻ chuyên làm điều sai trái ngông cuồng. Al-Maa-idah: 72 (chương 5), ở chương khác:



﴿ٱتَّخَذُوٓاْ أَحۡبَارَهُمۡ وَرُهۡبَٰنَهُمۡ أَرۡبَابٗا مِّن دُونِ ٱللَّهِ وَٱلۡمَسِيحَ ٱبۡنَ مَرۡيَمَ وَمَآ أُمِرُوٓاْ إِلَّا لِيَعۡبُدُوٓاْ إِلَٰهٗا وَٰحِدٗاۖ لَّآ إِلَٰهَ إِلَّا هُوَۚ سُبۡحَٰنَهُۥ عَمَّا يُشۡرِكُونَ ٣١﴾ (التوبة : 31)

{Họ đã lấy các thầy tu Do thái và thầy tu Công giáo làm thượng Đế của họ thay vì Allah, và lấy cả Masih (Ysa) con trai của Maryam (làm Thượng Đế của họ) trong lúc tất cả bọn họ được lệnh chỉ thờ phượng một Thượng Đế duy nhất, không có Thượng Đế nào khác ngoài Ngài. Ngài quang vinh và trong sạch về những điều (kẻ) mà họ đã tổ hợp cùng với Allah.} Al-Tawbah – 31 (chương 9), ở chương khác:



﴿۞وَقَضَىٰ رَبُّكَ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّآ إِيَّاهُ﴾ الإسراء: ٢٣

Và Thượng Đế của Ngươi (Muhammad) đã quyết định rằng các người chỉ được phép thờ phụng Ngài duy nhất. Al-Isra: 23 (chương 17).

Tất cả các câu Kinh trên đồng khẳng định việc tôn thờ ngoài Allah hoặc tôn thờ cùng với Allah dù là Thiên Thần, là Nabi, là người đức hạnh, cây cối, đất đá, bụt tượng . . . đều là đại tội Shirk xóa đi tính Tawhid tức độc tôn của Allah, bởi đây là ý nghĩa việc mời gọi thiên hạ quy phục Islam và là ý nghĩa của câu La i la ha il lol loh tức không có Thượng Đến nào xứng đáng được thờ phượng ngoại trừ Allah duy nhất.

Một sự hành đạo đúng là phải phủ nhận mọi thần linh ngoài Allah không xứng đáng được tôn thờ và xác nhận việc thờ phượng dành riêng cho Allah như đã phán:



﴿ذَٰلِكَ بِأَنَّ ٱللَّهَ هُوَ ٱلۡحَقُّ وَأَنَّ مَا يَدۡعُونَ مِن دُونِهِۦ هُوَ ٱلۡبَٰطِلُ﴾ الحج: ٦٢

(Sự việc như) thế đấy là bởi chính Allah là Đấng Chân Lý Tuyệt Đối và chắc chắn những ai cầu xin ngoài Allah tất cả đều do hư cấu, giả tạo. Al-Haj: 62 (chương 22). Đây chính là nguồn gốc của thờ phượng, là nguyên lý chính của giáo lý Islam và sự thờ phượng không được công nhận nếu thiếu đi nguyên tố này, Allah phán:



﴿وَلَقَدۡ أُوحِيَ إِلَيۡكَ وَإِلَى ٱلَّذِينَ مِن قَبۡلِكَ لَئِنۡ أَشۡرَكۡتَ لَيَحۡبَطَنَّ عَمَلُكَ وَلَتَكُونَنَّ مِنَ ٱلۡخَٰسِرِينَ ٦٥﴾ (الزمر: 65)

{Và quả thật, Ngươi (Muhammad) và những vị Nabi trước Ngươi đã được mặc khải cho biết rằng: Nếu Ngươi làm điều Shirk (thờ phượng một thần linh khác cùng với Allah) thì việc làm của các ngươi sẽ trở thành vô nghĩa và chắc chắn rằng Ngươi sẽ là đồng bọn của những kẻ thất bại thật thảm hại.} Al-Zumar: 65 (Chương 39), Allah phán ở chương khác:



﴿وَلَوۡ أَشۡرَكُواْ لَحَبِطَ عَنۡهُم مَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ٨٨﴾ الأنعام: ٨٨

Nhưng nếu họ tổ hợp (trong việc tôn thờ) những thần linh khác cùng với Ngài thì tất cả việc hành đạo của họ sẽ tiêu tan hết. Al-An-a'm: 88 (chương 6).

Ở các câu Kinh khác Allah ra lệnh tín đồ thành tâm tôn thờ Ngài và khuyến cáo sự lệch lạc trong thờ phượng với lời phán:

﴿وَلَقَدۡ بَعَثۡنَا فِي كُلِّ أُمَّةٖ رَّسُولًا أَنِ ٱعۡبُدُواْ ٱللَّهَ وَٱجۡتَنِبُواْ ٱلطَّٰغُوتَۖ﴾ النحل: ٣٦

Và chắc chắn TA đã cử phái cho mỗi cộng đồng một vị Thiên Sứ (với mệnh lệnh): Hãy thờ phụng Allah (duy nhất) và tránh xa Toghut (Tà Thần).” Al-Nahl: 36 (chương 16), ở chương khác:



﴿وَمَا أَرْسَلْنَا مِنْ قَبْلِكَ مِنْ رَسُولٍ إِلا نُوحِي إِلَيْهِ أَنَّهُ لا إِلَهَ إِلا أَنَا فَاعْبُدُونِ ﭠ ﴾ الأنبياء: ٢٥

Và không một Rasul (Thiên Sứ, Nabi hay Sứ Giả) nào được cử phái trước Ngươi (Muhammad) mà TA lại không bảo: Quả thật, không có Thượng Đế nào khác xứng đáng được thờ phụng ngoài TA, do đó hãy thờ phụng riêng TA.” Al-Ambiya: 25 (chương 21), ở chương khác:



﴿الٓرۚ كِتَٰبٌ أُحۡكِمَتۡ ءَايَٰتُهُۥ ثُمَّ فُصِّلَتۡ مِن لَّدُنۡ حَكِيمٍ خَبِيرٍ ١ أَلَّا تَعۡبُدُوٓاْ إِلَّا ٱللَّهَۚ إِنَّنِي لَكُم مِّنۡهُ نَذِيرٞ وَبَشِيرٞ ٢﴾ هود: 1 - 2

Alif. Lam. Ra. (Đây là) một Kinh Sách gồm những Câu cơ bản có ý nghĩa rõ ràng tiếp đó được giải thích chi tiết bởi Đấng Sáng Suốt, Đấng Hằng Quen thuộc (với mọi việc) * Các ngươi chỉ được phép tôn thờ Allah duy nhất. Quả thật, Ta là Người khuyến cáo (kẻ bất tuân) và là người báo tin mừng cho người (ngoan đạo). Hud: 1- 2 (chương 11), ở chương khác:



﴿هَٰذَا بَلَٰغٞ لِّلنَّاسِ وَلِيُنذَرُواْ بِهِۦ وَلِيَعۡلَمُوٓاْ أَنَّمَا هُوَ إِلَٰهٞ وَٰحِدٞ وَلِيَذَّكَّرَ أُوْلُواْ ٱلۡأَلۡبَٰبِ ٥٢﴾ إبراهيم: 52

Đây (Thiên Kinh Qur’an) chính là thiên khải muốn loan báo cho loài người, để khuyến cáo (kẻ chống đối), để thiên hạ nhận biết rằng Thượng Đế Alalh chỉ là Đấng duy nhất và là lời nhắc nhở dành cho nhóm người biết suy ngẫm. Ibrahim: 52 (chương 14).

Có Hadith ghi nhận trong hai bộ Saheeh Al-Bukhary và Muslim, một người hỏi Nabi : Tội nào to lớn nhất ?

((أَنْ تَجْعَلَ لِلهِ نِدّاً وَهْوَ خَلَقَكَ))

Anh tạo dựng Nid khác ngang hàng với Allah trong khi Ngài tạo hóa ra anh.

Chữ “Nid” có nghĩa là: là con người, là động vật, vật vô tri hoặc thánh thần hay ma quỉ được tôn thờ, được khấn vái, được bái tế, được cúng tế, được tôn trọng, được sợ hãi.

Có Hadith khác, Rasul  hỏi:

((يَا مُعَاذُ أَتَدْرِى مَا حَقُّ اللهِ عَلَى الْعِبَادِ وَمَا حَقُّ الْعِبَادِ عَلَى اللهِ ؟))

Này Mu-a’z anh cho biết nhiệm vụ, và quyền lợi của con người đối với Allah là gì không ?” Ông Mu-a’z đáp: Allah và Rasul mới rõ. Người tiếp:

((حَقُّ اللهِ عَلَى الْعِبَادِ أَنْ يَعْبُدُوهُ وَلاَ يُشْرِكُوا بِهِ شَيْئًا، وَحَقَّ الْعِبَادِ عَلَى اللهِ أَنْ لاَ يُعَذِّبَ مَنْ لاَ يُشْرِكُ بِهِ شَيْئًا))

Nhiệm vụ của họ là chỉ tôn thờ Allah duy nhất, tuyệt đối không được đồng đẳng với Ngài trong thờ phụng và quyền lợi của họ là Allah không trừng trị những ai đã không vi phạm đại tội Shirk.

Trong những lầm lạc khác là có số người Muslim lại tin tưởng di đoan như bùa ngải, bói toán, tiên đoán, may gủi . . . đây chính là những điều nguy hại vô cùng và là nhánh của tội phủ nhận đức tin vì Rasul  đã nói:

((مَنْ أَتَى عَرَّافًا فَسَأَلَهُ عَنْ شَىْءٍ لَمْ تُقْبَلْ لَهُ صَلاَةٌ أَرْبَعِينَ لَيلَةً))

Người (Muslim) nào tìm đế nhà chiêm tinh để tìm hiểu thông tin thì lễ Salah của y không được (Allah) chấp nhận trong bốn mươi ngày (đêm).(71)

Theo Muslim ghi lại từ một số vợ của Nabi , Người nói:

((مَنْ أَتَى عَرَّافاً أَوْ كَاهِناً فَصَدَّقَهُ بِمَا يَقُولُ فَقَدْ كَفَرَ بِمَا أُنْزِلَ عَلَى مُحَمَّدٍ ))

Người (Muslim) nào tìm đến nhà tiên đoán hoặc thầy bói và tin tưởng vào lời lẽ chúng nói thì y đã phủ nhận hết tất cả mọi thông tin được mặc khải cho Muhammad .(72)

Người Muslim phải luôn đề cao cảnh giác, luôn nằm lòng rằng không một ai lại có thể thấu hiểu được thiên cơ huyền bí ngoại Allah cả dù đó là Đại Thiên Thần Jibreel hay vị Nabi được trọng dụng nhất, Allah phán:



﴿قُل لَّا يَعۡلَمُ مَن فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَٱلۡأَرۡضِ ٱلۡغَيۡبَ إِلَّا ٱللَّهُۚ وَمَا يَشۡعُرُونَ أَيَّانَ يُبۡعَثُونَ ٦٥ ﴾ النمل: 65

(Hỡi Muhammad) hãy báo với nhân loại: Không một ai dù ở trên trời (như Thiên Thần) cũng như (Ma quỉ, loài người) ở dưới đất có thể biết được chuyện huyền bí thiên cơ, ngoại trừ Allah duy nhất (tin thông tất cả). Và tất cả bọn chúng sẽ không cảm nhận được bao giờ chúng sẽ được phục sinh.” Al-Naml: 65 (chương 27).

Allah ra lệnh Rasul  phải truyền đạt lời mặc khải đến thiên hạ,

﴿قُل لَّآ أَقُولُ لَكُمۡ عِندِي خَزَآئِنُ ٱللَّهِ وَلَآ أَعۡلَمُ ٱلۡغَيۡبَ وَلَآ أَقُولُ لَكُمۡ إِنِّي مَلَكٌۖ إِنۡ أَتَّبِعُ إِلَّا مَا يُوحَىٰٓ إِلَيَّۚ قُلۡ هَلۡ يَسۡتَوِي ٱلۡأَعۡمَىٰ وَٱلۡبَصِيرُۚ أَفَلَا تَتَفَكَّرُونَ ٥٠﴾ الأنعام: 50

Hãy bảo họ (Muhammad): Ta không hề nói rằng là Ta sử hửu trong tay những kho báu của Allah, Ta cũng không hề biết được bất cứ việc thiên cơ huyền bí nào, lại càng không xưng rằng Ta là Thiên Thần. Chẳng qua, Ta chỉ làm theo những gì Ta được mặc khả thôi.Hãy bảo chúng tiếp: Giữa người mù và người sáng mắt có ngang như nhau không, thế tạo sao các người không suy nghĩ ?” Al-An-a'm: 50 (chương 6), ở chương khác:



﴿قُل لَّآ أَمۡلِكُ لِنَفۡسِي نَفۡعٗا وَلَا ضَرًّا إِلَّا مَا شَآءَ ٱللَّهُۚ وَلَوۡ كُنتُ أَعۡلَمُ ٱلۡغَيۡبَ لَٱسۡتَكۡثَرۡتُ مِنَ ٱلۡخَيۡرِ وَمَا مَسَّنِيَ ٱلسُّوٓءُۚ إِنۡ أَنَا۠ إِلَّا نَذِيرٞ وَبَشِيرٞ لِّقَوۡمٖ يُؤۡمِنُونَ ١٨٨ ﴾ الأعراف: ١٨٨

Hãy bảo họ (Muhammad): Ta không có quyền quyết định điều lợi hoặc hại cho chính bản thân của Ta trừ phi điều nào Allah muốn. Và nếu Ta biết điều vô hình thì chắc chắn Ta sẽ tom góp nhiều điều tốt cho Ta và Ta sẽ không gặp một điều bất hạnh nào. Chẳng qua Ta chỉ là một người khuyến cáo (hành phạt hỏa ngục) và thông báo tin mừng (thiên đàng) đến với nhóm người có lòng tin nơi (Allah). Al-A'raaf: 188 (chương 7). Thấy đó, vị Rasul Muhammad thân tín, Người tốt nhất trong giới Nabi mà vẫn không biết được tí huyền cơ nào thì ngoài Người ai lại biết được ?

Là Muslim ai dám tự nhận hoặc tin rằng trong thiên hạ có người biết được thiên cơ huyền bí là y đã rơi vào lầm lạc khôn lường, đã tự xóa đức tin vào Allah và trở thành người Kafir phản đạo, Allah phán:

﴿إِنَّ ٱللَّهَ عِندَهُۥ عِلۡمُ ٱلسَّاعَةِ وَيُنَزِّلُ ٱلۡغَيۡثَ وَيَعۡلَمُ مَا فِي ٱلۡأَرۡحَامِۖ وَمَا تَدۡرِي نَفۡسٞ مَّاذَا تَكۡسِبُ غَدٗاۖ وَمَا تَدۡرِي نَفۡسُۢ بِأَيِّ أَرۡضٖ تَمُوتُۚ إِنَّ ٱللَّهَ عَلِيمٌ خَبِيرُۢ ٣٤﴾ (سورة لقمان: 34)

{Quả thật chỉ riêng một mình Allah mới biết rõ giờ khắc phục sinh sẽ xảy đến khi nào, và Ngài là Đấng ban mưa xuống và biết những gì nằm trong các dạ con. Và không một linh hồn nào biết rõ vật gì y sẽ kiếm được vào ngày mai; và không linh hồn nào biết được đâu là mảnh đất mà y sẽ chết. Quả thật, Allah là Đấng Hiểu biết và Am tường.} Luqmaan: 34 (chương 31). Với câu Kinh này ông Ibnu Mas-u’d nói: “Nabi được ban cho tất cả ngoại trừ năm điều được nhắc trong câu Kinh.

Ông Ibnu A’bbaas  nói: “Đây là năm điều mà không một ai biết được chúng kể cả Thiên Thần hay Nabi Rasul. Ai dám tự xưng tinh thông về những điều này là y đã phủ nhận Qur’an và bát bỏ lời phán của Allah. Chẳng qua giới Rasul thấu hiểu được chuyện huyền bí là do Allah truyền tin cho họ.

Niềm tin vào việc huyền bí làm một trong các nền tản căn bản của niềm tin Islam và là đức tín của người Muslim chân chính. Ngược lại tự nhận tinh thông huyền có diệu đoán là bản tính của thầy bói, nhà chiêm tinh, người đi lệch chính đạo của Allah, và những người lầm lạc trong cộng đồng Muslim, bởi Allah đã khẳng định:



﴿۞وَعِندَهُۥ مَفَاتِحُ ٱلۡغَيۡبِ لَا يَعۡلَمُهَآ إِلَّا هُوَۚ﴾ الأنعام: ٥٩

Mọi chìa khóa (hay kho tàn) của cõi vô hình huyền bí đều nằm nơi Ngài (Allah), chỉ riêng Ngài mới biết rõ chúng. Al-An-a'm: 59 (chương 6). Và có Hadith, Rasul  nói:

((مَفَاتِحُ الْغَيْبِ خَمْسٌ:))

Việc vô hình huyền bí gồm năm loại:(73) rồi Người đọc câu Kinh:



﴿إِنَّ ٱللَّهَ عِندَهُۥ عِلۡمُ ٱلسَّاعَةِ وَيُنَزِّلُ ٱلۡغَيۡثَ . . .(سورة لقمان: 34)

{Quả thật chỉ riêng một mình Allah mới biết rõ giờ khắc phục sinh sẽ xảy đến khi nào . . .} Luqmaan: 34 (chương 31).

Đến đây nhiệm vụ của giới thông thạo giáo lý Islam phải khuyến cáo tín đồ về mối thảm họa khôn lường này, bởi họ sẽ chịu trách nhiệm trước Allah trong ngày phán xử vĩ đại, Ngài phán:

﴿لَوۡلَا يَنۡهَىٰهُمُ ٱلرَّبَّٰنِيُّونَ وَٱلۡأَحۡبَارُ عَن قَوۡلِهِمُ ٱلۡإِثۡمَ وَأَكۡلِهِمُ ٱلسُّحۡتَۚ لَبِئۡسَ مَا كَانُواْ يَصۡنَعُونَ ٦٣﴾ المائدة: 63

Tại sao những kẻ am hiểu giáo lý trong số lãnh đạo và giới học thức lại không cấm cản giáo dân nói điều tội lỗi và ăn những điều bị cấm ? Quả là xấu xa làm sao cho việc chúng làm. Al-Maa-idah: 63 (chương 5).

Tương tự, ai cho rằng dòng tộc Haashim được tha bổng về mọi tội lỗi dù có làm tội gì, thế nào, đây là một niềm tin sai lệch. Quả thật, Allah không hề suy xét về góc độ thân tộc, tài sản hay địa vị, Ngài chỉ chú trọng đến hành động tay chân và suy nghĩ của con tim mà thôi. Đối với ai luôn ngoan đạo mực mực tuân thủ sắc lệnh của Allah và tránh xa mọi điều giáo luật cấm và hết lòng kính sợ Allah thì y là người được Allah quan tâm đoái hoài không phân biệt là người Ả-rập hay không, thuộc dòng tộc Haashim hay không, bởi tất cả tài sản, thân tộc và địa vị vốn chẳng là gì đối với Allah như được phán trong Qur’an:

﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنَّا خَلَقۡنَٰكُم مِّن ذَكَرٖ وَأُنثَىٰ وَجَعَلۡنَٰكُمۡ شُعُوبٗا وَقَبَآئِلَ لِتَعَارَفُوٓاْۚ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚ﴾ الحجرات: ١٣

Hỡi nhân loại! Quả thật, TA (Allah) đã tạo hóa ra các người từ một cá thể nam và một cá thể nữ và từ đó tạo cho các người thành quốc gia và bộ lạc để các người nhận biết nhau (như anh em). Quả thật, dưới cái nhìn của Allah, người vinh dự nhất là người ngay chính và sợ Allah nhất trong các người. Al-Hujuraat: 13 (chương 49).

Rasul  đã từng nói:

((إِنَّ اللهَ لاَ يَنْظُرُ إِلَى صُوَرِكُمْ وَأَمْوَالِكُمْ وَلَكِنْ يَنْظُرُ إِلَى قُلُوبِكُمْ وَأَعْمَالِكُمْ))

Quả thật, Allah chẳng quan tâm đến diện mạo cũng như tài sản của các ngươi, Ngài chỉ chú tâm đến (suy nghĩ của) con tim và hành động của các ngươi mà thôi.(74) Ở Hadith khác Người nói:

((أَلَا وَإِنَّ فِي الْجَسَدِ مُضْغَةً إِذَا صَلَحَتْ صَلَحَ الْجَسَدُ كُلُّهُ وَإِذَا فَسَدَتْ فَسَدَ الْجَسَدُ كُلُّهُ أَلَا وَهِيَ الْقَلْبُ))

Chẳng phải trong mỗi người có một cục máu nếu nó tốt lành thì cả cơ thể sẽ tốt lành còn nếu nó hư đốn thì cả cơ thể sẽ hư đốn theo, chẳng phải đó là con tim hay sao ?(75)

Tuy Abu Taalib là bác ruột của Rasul Muhammad  nhưng tình thân tộc đó hoàn toàn không hề giúp ích gì được cho ông bởi ông đã lìa đời trên thuyết tôn thờ của ông bà tổ tiên. Trước khi ông trút hơi thờ cuối cùng Rasul  đã cố công nài nĩ bác Mình nói đi câu La i la ha il lol loh để Rasul làm cơ sở mà biện hộ trước Allah như vô ích. Sau khi ông qua đời vì thương bác ruột nên Rasul  đã khẩn cầu Allah tha thứ cho bác nhưng bị Allah cấm:

﴿مَا كَانَ لِلنَّبِيِّ وَٱلَّذِينَ ءَامَنُوٓاْ أَن يَسۡتَغۡفِرُواْ لِلۡمُشۡرِكِينَ وَلَوۡ كَانُوٓاْ أُوْلِي قُرۡبَىٰ مِنۢ بَعۡدِ مَا تَبَيَّنَ لَهُمۡ أَنَّهُمۡ أَصۡحَٰبُ ٱلۡجَحِيمِ ١١٣﴾ التوبة: 113

Đối với Nabi và những người có đức tin không được phép cầu xin tha thứ cho những người Đa Thần giáo dù đó là bà con ruột thịt, kể từ khi đã phân biệt rõ ràng rằng họ là những người bạn của hỏa ngục. Al-Tawbah: 113 (chương 9), chưa hết Allah còn tuyệt đối khẳng định rằng chính Rasul Muhammad  không có tí thẩm quyền hướng bất cứ ai đến được chính đạo Islam cho dù rất muốn:



﴿إِنَّكَ لَا تَهۡدِي مَنۡ أَحۡبَبۡتَ وَلَٰكِنَّ ٱللَّهَ يَهۡدِي مَن يَشَآءُۚ﴾ القصص: ٥٦

Chắc chắn rằng Ngươi (Muhammad) không thể hướng dẫn được ai mà Ngươi thương theo đúng Chính Ðạo nhưng Allah lại muốn dẫn dắt bất cứ ai (theo chính đạo) tùy ý Ngài. Al-Qasas: 56 (Chương 28).

Tương tự, Abu Labh cũng là bác ruột của Rasul , ông đã chết là người Kafir phủ nhận đức tin Allah, trong lúc ông hãy còn sống Allah đã khẳng định rằng ông là người của hỏa ngục bởi bao tội lỗi gây ra chống đối Nabi  và chương Kinh đó được bảo tồn, được xướng đọc cho đến ngày tận thế được thiết lập, đó là chương Kinh:

﴿تَبَّتۡ يَدَآ أَبِي لَهَبٖ وَتَبَّ ١ مَآ أَغۡنَىٰ عَنۡهُ مَالُهُۥ وَمَا كَسَبَ ٢ سَيَصۡلَىٰ نَارٗا ذَاتَ لَهَبٖ ٣ وَٱمۡرَأَتُهُۥ حَمَّالَةَ ٱلۡحَطَبِ ٤ فِي جِيدِهَا حَبۡلٞ مِّن مَّسَدِۢ ٥﴾ المسد: ١ - ٥

Đôi tay của Abu Lahb bị hủy diệt và y cũng bị hủy diệt * Của cải và tất cả những gì mà y gom góp được sẽ chẳng giúp ích gì được cho y * Y sẽ bị đốt trong lửa ngùn ngụt cháy * Và vợ của y, người đã từng vác gai (gieo trên đường đi của Nabi cũng bị cùng số mạng) * Cổ của bà ta sẽ bị thắt bởi một sợi dây thừng. Al-Masad: 1 – 5 (chương 111). Giá trị thật sự đối với Allah là niềm tin vào Ngài và noi theo tấm gương của Nabi  bằng niềm tin, lời nói và hành động, ngoài ra không có thứ gì đáng quí cả, bởi Rasul  đã nói:

((مَنْ بَطَّأَ بِهِ عَمَلُهُ لَمْ يُسْرِعْ بِهِ نَسَبُهُ))

Ai trì hoãn việc hành đạo thì dòng dõi sẽ chẳng nhanh hơn.(76) Và Người từng khuyến cáo thân tộc Người rằng:

((يَا مَعْشَرَ قُرَيْشٍ اشْتَرُوا أَنْفُسَكُمْ، لاَ أُغْنِى عَنْكُمْ مِنَ اللهِ شَيْئاً))

Này dòng tộc Quraish, các người hãy bán thân mình cho Allah, chắc chắn rằng Ta chẳng giúp ích gì được cho các người đâu.(77) Tương tự thế Người đã nói với người bác ruột khác là ông A’bbaas, người cô ruột là bà Safiyah và con gái ruột là bà Fatimah, nếu dòng tộc giúp ích được gì là đã giúp ích được cho những người này rồi.



Tin Rằng Ngoài Allah Có Người Trợ Giúp, Gây Hại & Ban Lành Bệnh

Trong những điều cần được khuyến cáo đó là trong cộng đồng Muslim còn có người tin tưởng sai lệch trầm trọng rằng có một số thầy lang và ông thầy nào đó có khả năng chữa lành bệnh, giúp giải nạn và ban cho may mắn. Khẩn cầu Allah che trở tránh khỏi mù quáng và lầm lạc này.

Niềm tin này đã xóa đi lòng tin vào Allah, trong khi chính Ngài mới thật sự là Đấng trợ giúp và gây hại, Đấng ban phát, Đấng ban cho sống chết, Đấng quản lý và thống trị, Allah tối cao biết bao so với những điều con người gán ghép, Ngài phán:

﴿وَإِن يَمۡسَسۡكَ ٱللَّهُ بِضُرّٖ فَلَا كَاشِفَ لَهُۥٓ إِلَّا هُوَۖ وَإِن يُرِدۡكَ بِخَيۡرٖ فَلَا رَآدَّ لِفَضۡلِهِۦۚ يُصِيبُ بِهِۦ مَن يَشَآءُ مِنۡ عِبَادِهِۦۚ﴾ (سورة يونس: 107)

{Và nếu như Allah muốn gây hại Ngươi (Muhammad) thì chẳng có ai có năng lực bảo vệ Ngươi, còn nếu Ngài muốn ban tốt lành cho Ngươi thì cũng chẳng có ai có thẩm quyền mà cản nó. Ngài sử dùng quyền lực đó đối với bất cứ ai trong đám bầy tôi của Ngài.} Yunus: 107 (Chương 10). Người Muslim nào dám tin trong thiên hạ có người có khả năng gây hại hoặc trợ giúp và ban cho hết bệnh ngoài Allah là y đã phủ nhận Allah, phủ nhận Qur’an, phủ nhận giới Thiên Thần và giới Rasul của Allah. Trong Qur’an Allah đã phán bảo với vị Rasul  thân tín nhất của Người:



﴿قُلۡ إِنِّي لَآ أَمۡلِكُ لَكُمۡ ضَرّٗا وَلَا رَشَدٗا ٢١ قُلۡ إِنِّي لَن يُجِيرَنِي مِنَ ٱللَّهِ أَحَدٞ وَلَنۡ أَجِدَ مِن دُونِهِۦ مُلۡتَحَدًا ٢٢ إِلَّا بَلَٰغٗا مِّنَ ٱللَّهِ وَرِسَٰلَٰتِهِۦۚ﴾ الجن: 21 - 23

Hãy bảo họ (Muhammad): Ta không hề nắm trong tay quyền ám hại hoặc hướng dẫn một ai đó.” * Hãy bảo chúng tiếp: Chắc chắn rằng sẽ không một ai có thể cứu Ta thoát khỏi hành phạt của Allah (nếu Ta bất tuân Ngài) và ngoài Ngài ra Ta cũng sẽ không tìm được đâu chổ nương tựa an toàn.” * Ngoại trừ những ai nhận được những lời thông điệp từ Allah. Al-Jin: 21 - 23(chương 72), và Rasul  đã di huấn:

((إِذَا سَأَلْتَ فَاسْأَلِ اللهِ وَإِذَا اسْتَعَنْتَ فَاسْتَعِنْ بِاللهِ))

Một khi anh muốn khẩn cầu và cầu cứu thì hãy khẩn cầu và cầu cứu Allah.(78)

Vì vậy, tín đồ nào khuyếch đại bất cứ Nabi hay người ngoan đạo hoặc Waly và xem họ như thần thánh điển hình như cầu: này ông hãy ban cho tôi lành bệnh hoặc trợ giúp tôi hoặc ban tôi bổng lộc hoặc ban biến tôi giàu có . . . đều vị phạm đại tội Shirk và lầm lạc khôn lường, yêu cầu phải sám hối nếu không là người Kafir từ đó.

Tương tự, ai tạo trung gian giữa y và Allah để cầu xin, nhờ cậy, phó thác là trở thành người Kafir dưới sự thống nhất của toàn thể U’lama, dù người trung gian là Nabi, là ma, là Thiên Thần... đều đồng tội như nhau. Ngoại trừ việc nhờ cậy người còn sống đang có mặt nghe hiểu được lời nói là được phép, đây không phải là thể loại Shirk được tất cả cộng đồng ưng thuận, bởi Allah đã kể về câu chuyện giữa Nabi Musa :



﴿فَٱسۡتَغَٰثَهُ ٱلَّذِي مِن شِيعَتِهِۦ عَلَى ٱلَّذِي مِنۡ عَدُوِّهِۦ﴾ سورة القصص: 15

{Và người thuộc phe của Y gọi Y tiếp tay để đánh lại kẻ địch.} Al-Qasas: 15 (chương 28). Trong Sunnah cũng có bằng chứng mang ý nghĩa này. Cầu xin Allah ban thành công cho tất cả.


Chọn Môn Đăng Hộ Đối Để Cưới Gả

Trong những điều đáng khuyến cáo là có số người tự cho rằng mình hoặc gia đình hoặc dòng tộc là người danh giá nên cưới gả phải lựa người danh giá tương tự để kết hôn. Đây là một việc làm sai trái đáng bị lên án, tạo bất công với phụ nữ, tự tạo ra một luật vốn không có trong giáo lý Islam, Allah phán:



﴿يَٰٓأَيُّهَا ٱلنَّاسُ إِنَّا خَلَقۡنَٰكُم مِّن ذَكَرٖ وَأُنثَىٰ وَجَعَلۡنَٰكُمۡ شُعُوبٗا وَقَبَآئِلَ لِتَعَارَفُوٓاْۚ إِنَّ أَكۡرَمَكُمۡ عِندَ ٱللَّهِ أَتۡقَىٰكُمۡۚ﴾ الحجرات: ١٣

Hỡi nhân loại! Quả thật, TA (Allah) đã tạo hóa ra các người từ một cá thể nam và một cá thể nữ và từ đó tạo cho các người thành quốc gia và bộ lạc để các người nhận biết nhau (như anh em). Quả thật, dưới cái nhìn của Allah, người vinh dự nhất là người ngay chính và sợ Allah nhất trong các người. Al-Hujuraat: 13 (chương 49), ở câu khác:



﴿إِنَّمَا ٱلۡمُؤۡمِنُونَ إِخۡوَةٞ﴾ الحجرات: ١٠

Chỉ có những người có đức tin mới là anh em của nhau. Al-Hujuraat: 10 (chương 49), ở chương khác:



﴿ وَٱلۡمُؤۡمِنُونَ وَٱلۡمُؤۡمِنَٰتُ بَعۡضُهُمۡ أَوۡلِيَآءُ بَعۡضٖۚ﴾ التوبة: ٧١

Những người có đức tin nam và nữ họ là những người bảo h lẫn nhau. Al-Tawbah: 71 (chương 9), ở chương khác:



﴿فَٱسۡتَجَابَ لَهُمۡ رَبُّهُمۡ أَنِّي لَآ أُضِيعُ عَمَلَ عَٰمِلٖ مِّنكُم مِّن ذَكَرٍ أَوۡ أُنثَىٰۖ بَعۡضُكُم مِّنۢ بَعۡضٖۖ﴾ آل عمران: ١٩٥

Do đó, Thượng Đế của họ đáp lại lời cầu nguyện của họ, Ngài phán bảo: quả thật TA sẽ không làm mất đi công lao của bất cứ ai làm việc gì trong các ngươi cho dù nam hay nữ tất cả đều được thưởng bằng nhau. Ali I’mraan: 195 (chương 3).

Rasul  nói:

((لاَ فَضْلَ لِعَرَبِىٍّ عَلَى أَعْجَمِىٍّ وَلاَ لِعَجَمِىٍّ عَلَى عَرَبِىٍّ وَلاَ لِأَبْيَضَ عَلَى أَسْوَدَ وَلاَ أَسْوَدَ عَلَى أَبْيَضَ إِلاَّ بِالتَّقْوَى، النَّاسُ مِنْ آدَمٍ وَآدَمٌ مِنْ تُرَابٍ))

Không phải người Ả-rập tốt hơn người khác hay người nào đó tốt hơn người Ả-rập, cũng không phải người da trắng tốt hơn người da màu hay người da màu tốt hơn người da trắng. Chỉ người có lòng kính sợ Allah mới là người tốt nhất, loài người là con cháu của thủy tổ Adam và Adam được tạo ra từ đất.(79) Rasul  nói ở Hadith khác:

((إِنَّ آلَ بَنِيِّ فُلاَنٍ لَيْسُوا لِى بِأَوْلِيَاءَ إِنَّمَا وَلِيِّىَ اللهِ وَصَالِحُ الْمُؤْمِنِينَ))

Quả thật dòng dõi nào đó là Waly (người bảo hộ) của Ta mà Waly của Ta chính là Allah và người sùng đạo trong số người có đức tin.(80)

((إِذَا خَطَبَ إِلَيْكَ مَنْ تَرْضَوْنَ دِينَهُ وَخُلُقَهُ فَأَنْكِحُوهُ إِلاَّ تَفْعَلُوهُ تَكُنْ فِتْنَةٌ فِى الأَرْضِ وَفَسَادٌ عَرِيضٌ))

Một khi ai đến dạm hỏi con gái các người và các người hài lòng về việc hành đạo và nhân cách của y thì hãy gả con gái cho y, bằng ngược lại các người ngăn cản sẽ gặp phải tai ương và biết bao xấu hổ khác trên đời.(81)

Rasul  đã cưới bà Zaynab con gái ông Jahsh Al-Asadiyah từ Zaid bin Haarithah và cưới bà Faatimah con gái ông Qais Al-Qurashiyah từ Usaamah bin Zaid trong khi cả hai cha con đều là nô lệ.

Ông Bilaal bin Rabaah Al-Habashi người châu phi đã cưới chị (em) gái của ông Abdur Rahmaan bin A’wf Al-Zuhriyah người Ả-rập Quraish.

Còn ông Abu Huzaifah bin U’tbah bin Rabi-a’h người Ả-rập Quraish gả cháu gái con ông Al-Waleed cho Saalim một nô lệ nam của một phụ nữ người bản xứ Al-Ansaar.

Allah đã phán:

﴿وَٱلطَّيِّبَٰتُ لِلطَّيِّبِينَ وَٱلطَّيِّبُونَ لِلطَّيِّبَٰتِۚ﴾ (سورة النور : 26)

{Phụ nữ đoan chính chỉ xứng đôi với đàn ông đường đường chính chính và đàn đứng đắn chỉ xứng với phụ nữ tiết hạnh.} Al-Noor: 26 (Chương 24). Qua đây muốn khẳng định rằng trong hôn nhân Islam không qui định phải cưới người danh giá, giàu có gì cả mà chỉ yêu cầu đó là người tốt về mặt đạo là tiêu chuẩn đầu tiên và then chốt bởi Allah phán:



﴿وَأَنكِحُواْ ٱلۡأَيَٰمَىٰ مِنكُمۡ وَٱلصَّٰلِحِينَ مِنۡ عِبَادِكُمۡ وَإِمَآئِكُمۡۚ إِن يَكُونُواْ فُقَرَآءَ يُغۡنِهِمُ ٱللَّهُ مِن فَضۡلِهِۦۗ وَٱللَّهُ وَٰسِعٌ عَلِيمٞ ٣٢﴾ (سورة النور: 32)

{Các ngươi hãy cưới các cô phụ nữ độc thân làm vợ hoặc lựa chọn số người ngoan đạo trong số nam và nữ nô lệ mà cưới gã. Nếu họ nghèo khó (thì sau hôn nhân) Allah sẽ ban cho họ giàu có bằng ân sủng của Ngài, Allah rất rộng lượng am tường thấu đáo.} Al-Noor: 32 (chương 24). Trong câu Kinh Allah hạ lệnh cưới phụ nữ độc thân không phân biệt giàu hay nghèo, quí tộc hay thường dân miễn họ là người Muslim là được.

Ngoài ra giáo lý Islam còn chú trọng đến hôn nhân gia đình nên đã hạ lệnh cho những ai có khả năng tiền tài hay thể lực thì lập gia đình như Rasul nói:

((يَا مَعْشَرَ الشَّبَابِ مَنِ اسْتَطَاعَ مِنْكُمُ الْبَاءَةَ فَلْيَتَزَوَّجْ، فَإِنَّهُ أَغَضُّ لِلْبَصَرِ، وَأَحْصَنُ لِلْفَرْجِ وَمَنْ لَمْ يَسْتَطِعْ فَعَلَيْهِ بِالصَّوْمِ فَإِنَّهُ لَهُ وِجَاءٌ))

Này các thanh niên, ai có khả năng cưới vợ thì hãy cưới vợ đi, đó là điều bảo vệ mắt không nhìn bậy và không quan hệ bừa bãi. Bằng không có khả năng thì các ngươi hãy nhịn chay đi, bởi nhịn chay là vật chắn bảo vệ y.(82)

Đối với người bảo hộ có quyền cưới gả con, em, chị gái thì hãy cẩn trọng và hết lòng kính sợ Allah mà cưới gả đàng hoàng bởi họ phải chịu trách nhiệm trước Allah nếu có dùng quyền mà lấn áp phụ nữ, che khen giàu nghèo hoặc khinh khi ai đó. Mỗi người sẽ phải gánh tội nếu ai dám cấm cản hoặc cố tình trì hoãn hôn nhân của con, em, chị gái mình như Allah phán:



﴿فَوَرَبِّكَ لَنَسۡ‍َٔلَنَّهُمۡ أَجۡمَعِينَ ٩٢ عَمَّا كَانُواْ يَعۡمَلُونَ ٩٣﴾ الحجر: ٩٢ - ٩٣

TA (Allah) thề bởi Thượng Đế Ngươi (Muhammad) chắc chắn TA sẽ điều tra tất cả mọi người * Về tất cả mọi điều mà họ đã làm (ở trần gian). Al-Hijr: 92 – 93 (chương 15), ở chương khác:



﴿وَلِلَّهِ مَا فِي ٱلسَّمَٰوَٰتِ وَمَا فِي ٱلۡأَرۡضِ لِيَجۡزِيَ ٱلَّذِينَ أَسَٰٓـُٔواْ بِمَا عَمِلُواْ وَيَجۡزِيَ ٱلَّذِينَ أَحۡسَنُواْ بِٱلۡحُسۡنَى ٣١﴾ النجم: ٣١

Và mọi vật trong các tầng trời và mọi vật trong trái đất là của Allah, nhằm trừng trị những ai đã phạm tội về những điều họ đã phạm và để thưởng cho những ai làm tốt nhất với (phần thưởng) tốt nhất (đó là thiên đàng). Al-Najm: 31 (chương 53).

Cầu xin Allah ban kiến thức cho toàn thể cộng đồng Muslim tránh xa mọi điều xấu từ dục vọng và cám dỗ của Shaytaan. Khẩn cầu Ngài che chở họ thoát khỏi mọi nguy hiểm đang rình rập người nhẹ lòng. Đồng thời khẩn cầu Ngài chấn chỉnh đội ngũ lãnh đạo Muslim luôn làm theo Qur’an và Sunnah. Quả thật Allah luôn có khả năng trên tất cả mọi việc. cầu xin bình an và phúc lành cho Người, cho gia quyến cùng tất cả bằng hữu của Người.

Mục Lục

Chủ đề Trang


  • Sai Sót Trong Niềm Tin 3

  • Bác bỏ sự ngự trị cả Allah đến ngai vương 3

  • Chọn mồ mã xây Masjid, hành lễ Salah và xây nấm mồ 5

  • Thề thốt ngoài Allah 10

  • Đeo thần chú, bùa hộ mệnh 12

  • Tổ chức sinh nhật 13




  • Các Qui Tắc Tạo Niềm Tin Vững Chãi 17

  • Định nghĩa niềm tin Islam 24

  • Sai sót được chia làm hai phần 27

    • Loại sai sót xóa đi hoàn toàn đức tin

      • Xóa đức tin bằng lời nói 27

      • Xóa đức tin bằng hành động 28

      • Xóa đức tin bằng niềm tin 30

      • Xóa đức tin bằng tính nghi ngờ 35

    • Loại sai sót làm cho đức tin bị yếu đi 36




  • Những Bài Học Quí Giá Liên Quan Đến Đức Tin Imam 48

  • Bài học đầu tiên: Niềm tin vào các vì sao, cái tinh tú trên trời và những vật thể khác 48

  • Bài học thứ hai: Lầm lạc cho những ai tin tường vào chòm sao và ngủ hành 53

  • Bài học thứ ba: Liên quan đến luân chuyển không gây ảnh hưởng 54

  • Bài học thứ tư: Về người sử dụng bùa ngải và thầy bùa 57

  • Bài học thứ năm: Nhiệm vụ phải làm theo Sunnah và tầm quan trọng của Sunnah trong Islam 68




  • Giáo Lý Cầu Xin & Khấn Vái Các Thủ Lãnh Đã Khuất 91

  • Lời Khuyên Chung Xoay Quanh Vài Tội Lỗi Thực Tại 118

  • Kêu Gọi Mọi Người Tôn Thờ Mình 118

  • Tin Rằng Ngoài Allah Có Người Trợ Giúp, Gây Hại & Ban Lành Bệnh 137

  • Chọn Môn Đăng Hộ Đối Để Cưới Gả 139




  • Mục lục 146

dkf




1() Trích từ Majmu’ Fataawa wa Maqalat Mutanawwi-a’h (8/28 – 33).

2() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Al-Janaa-iz, chương cấm chọn lấy mồ mã làm Masjid, số (1330); và Muslim ghi ở phần Masjid và các địa điểm Salah, chương cấm xây dựng Masjid trên mồ mã, số (529).

3() Hadith do Muslim ghi ở phần Masjid và các địa điểm Salah, chương cấm xây dựng Masjid trên mồ mã, số (532).

4() Hadith do Muslim ghi ở phần mai táng, chương cấm viết và cấm xây mộ, số (970).

5() Hadith do Ahmad ghi (6036), Abu Dawood ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt bằng danh nghĩa ông bà, số (3251) và Al-Tirmizhi ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt ngoài Allah, số (1535).

6() Hadith do Ahmad ghi (22471), Abu Dawood ghi ở phần thề thốt và nguyện cầu, chương cấm thề thốt bằng uy tín, số (3253).

7() Hadith do Ahmad ghi (224736), Abu Dawood ghi ở phần văn hóa, chương bản thân tôi dơ bẩn, số (4980).

8() Hadith do Ahmad ghi (16951).

9() Hadith do Ahmad ghi (16969).

10() Hadith do Ahmad ghi (3604), Abu Dawood ghi ở phần y tế, chương đeo thần chú, số (3530).

11() Hadith do Abu Dawood ghi ở phần y học, chương liên quan đến thần chú, số (3886).

12() Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4607) và Ibnu Maajah ghi ở lời mở đầu, chương tránh xa điều Bid-a’ah và kháng cự Sunnah, số (46).

13() Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.

14() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân xử, chương xóa bỏ các giáo lý bại hoại, số (1718).

15() Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).

16() Majmu’ Al-Fatawa wa Maqalat Mutanawwi-a’h (8/8 – 27)

17() Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục kể về các vị Nabi, chương câu Kinh: Hãy nhớ về câu chuyện của Mar-yam… số (3443).

18() Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục kể về các vị Nabi, chương câu Kinh: Hãy nhớ về câu chuyện của Mar-yam… số (3442).

19() Hadith do Ahmad ghi (2188).

20() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tayammum, chương về câu Kinh: Một khi các ngươi không tìm được nước thì hãy Tayammum. số (335).

21() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần bám chặt lấy Qur’an và Sunnah, chương bắt chước theo Sunnah của Rasul , số (7180).

22() Hadith do Ahmad ghi (22428); Al-Tirmizhi ghi ở phần Imam, chương việc bỏ hành lễ Salah, số (1621); Al-Nasaa-y ghi ở phần Salah, chương giáo lý bỏ hành lễ Salah, số (463); và Ibnu Maajah ghi ở phần hành lễ Salah và Sunnah liên quan, chương việc bỏ lễ Salah, số (1079).

23() Hadith do Muslim ghi ở phần Imam, chương ai bỏ lễ Salah bị gọi là Kafir, số (82).

24() Hadith do Al-Tirmizhi ghi ở phần Imam, chương việc bỏ bê Salah, số (2622).

25() Hadith do Al-Bukhary ghi lại.

26() Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).

27() Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.

28() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân xử, chương xóa bỏ các giáo lý bại hoại, số (1718).

29() Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4607) và Ibnu Maajah ghi ở lời mở đầu, chương tránh xa điều Bid-a’ah và kháng cự Sunnah, số (46).

30() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương lời nói may rủi, số (5757); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2220).

31() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (5717); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2222).

32() Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2220).

33() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần y học, chương không có lời nói may rủi, số (5771); và Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương không có bệnh tự lây lan, không đoán may rủi lúc chim bay và không có lời nói may rủi, số (2221).

34() Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần hòa giải, chương khi hòa giải bằng sự bất công thì sự hòa giải đó không được chấp nhận, Hadith số 2697 và Muslim ghi lại ở phần phân xử, chương hủy bỏ những giáo lý vô hiệu và đối lại những ai tạo ra cái tân, Hadith số 17 và 1718.

35() Hadith do Muslim ghi ở phần thứ sáu, chương giảm nhẹ Salah và thuyết giảng, số (867).

36() Hadith do Ahmad ghi (16694), Abu Dawud ghi lại ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, Hadith số 4607, Al-Darimy ghi lại ở phần lời mở đầu, chương noi theo Sunnah, Hadith số 96 và Al-Tirmizy ghi lại ở phần kiến thức, chương làm theo Sunnah và tránh xa cái tân, Hadith số 2676.

37() Trích từ Majmu’ Fataawa và Maqalat Mutanawwi-a’h (8/120 – 143)

38() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Azaan, chương Imam xoay mặt về mọi người sau chào Salam, số (846); và Muslim ghi ở phần đức tin Imam, chương giải thích việc phủ nhận đức tin Imam đối với ai nói: trời ban mưa là do tinh tú, số (71).

39() Hadith do Ahmad ghi (23250); Muslim ghi ở phần Al-Sahu, chương nói trong Salah, số (1218).

40() Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương cấm bói toán và tìm đến thầy bói, số (2230).

41() Hadith do Ahmad ghi (9035); Al-Tirmizhi ghi ở phần sạch sẽ, chương không nên gần gủi vợ lúc kinh kỳ, số (135); và Ibnu Maajah ghi ở phần sạch sẽ và Sunnah về sạch sẽ, chương cấm gần gủi vợ lúc chu kỳ, số (639).

42() Hadith do Ahmad ghi (3679); Abu Dawood ghi ở phần y học, chương đón may rủi, số (3910) và Ibnu Maajah ghi ở phần y học, chương người chỉ thích điềm tốt, số (3538).

43() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương về câu Kinh: Nếu có tên nào lén nghe trộm thì sẽ bị một chùm lửa ngọn đỏ rực đánh đuổi. Al- Nahl: 16 (chương 16).

44() Hadith do Muslim ghi lại phần Iman, chương Iman, Islam, Ehsaan và bắt buột tin tưởng vào định mệnh là do Allah Đấng Vinh Quang và Tối Cao quyết định, Hadith số 1 và 8.

45() Trích từ Musnad Al-Bazzaar (9/52).

46() Ý nghĩa: “Lạy Thượng Đế, không ai mang đến điều tốt lành ngoại trừ Ngài; không ai cứu khỏi nạn kiếp ngoài Ngài và không có sự chuyển động hay quyền lực nào phát huy ngoài lệnh Ngài.” Hadith do Abu Dawood ghi ở phần y học, chương về may rủi, số (3919).

47() Ý nghĩa: “Lạy Thượng Đế, không có tốt đẹp ngoại trừ Ngài cho tốt đẹp, không có may rủi trừ phi Ngài cho may rủi và không có Thượng Đế nào xứng đáng thờ phượng ngoài Ngài.” Hadith do Ahmad ghi (7005).

48() Hadith do Muslim ghi ở phần định mệnh, chương cố gắng tạo lý do không bi quan, số (2664).

49() Ý nghĩa: “Tất cả chúng ta có được là do Allah ban cho, nay đã trở về với Ngài. Những gì Allah đã ấn định nay đã thành.

50() Hadith do Al-Bukhary ghi ở mục thánh chiến, chương chiến tranh dưới chỉ huy của lãnh đạo, số (2957); và Muslim ghi ở phần quản lý, chương bắt buộc tuân lệnh lãnh đạo theo khuôn khổ Islam, số (1835).

51() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần bám chặt lấy Qur’an và Sunnah, chương bắt chước theo Sunnah của Rasul , số (7180).

52() Hadith do Ahmad ghi (16722), Abu Dawood ghi ở phần Sunnah, chương bám lấy Sunnah, số (4604).

53() Hadith do Al-Bukhary ghi lại ở phần Iman, chương nếu họ đã sám hối và dâng lễ Salah, Hadith số 25 và Muslim ghi lại ở phần Iman, chương lệnh đấu tranh với mọi người đến khi nói câu La il la ha il lol loh và Muhammad là Rasul của Allah và dâng lễ Salah, Hadith số 22 và 36.

54() Hadith do Ahmad ghi (17517).

55() Hadith do Ahmad ghi (26547).

56() Hadith do Ahmad ghi (3111).

57() Hadith do Muslim ghi ở phần Salah, chương việc phụ nữ rời khỏi nhà đến các Masjid, số (442).

58() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần giết và săn thú, chương ném sỏi, số (5479); Muslim ghi ở phần giết và săn thú, chương những điều được phép sử dụng lúc săn, số (1954).

59() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần thánh chiến, chương danh từ ngựa và lừa, số (2856); Muslim ghi ở phần đức tin, chương bằng chứng ai chết trên thuyết Tawhid (độc tôn) sẽ được vào thiên đàng, số (30).

60() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần phân tích Qur’an, chương câu Kinh: {Và trong nhân loại, có những kẻ đã dựng lên những thần linh ngang hàng cùng với Allah.}, số (4497).

61() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần xuất Zakat, chương lấy tiền bố thí của người giàu phát lại cho người nghèo, số (1458); Muslim ghi ở phần đức tin, chương mời gọi đến với lời tuyên thệ và biểu hiệu Islam, số (19).

62() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần xuất Zakat, chương lấy tiền bố thí của người giàu phát lại cho người nghèo, số (1458); Muslim ghi ở phần đức tin, chương mời gọi đến với lời tuyên thệ và biểu hiệu Islam, số (19).

63() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tawhid, chương nói về lời cầu xin của Nabi , số (7372).

64() Hadith do Muslim ghi ở phần đức tin, chương lệnh được phép chiến đấu với thiên hạ đến khi họ chấp nhận chứng nhận La i la ha il lol loh, số (23).

65() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần kiến thức, chương cố trao dồi Hadith, số (99).

66() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần cầu xin, chương tất cả Nabi lời cầu xin đều được chấp nhận, số (6304); và Muslim ghi ở phần Imam, chương Nabi  để dành lời cầu xin, số (199).

67() Hadith do Muslim ghi ở phần kiến thức, chương diệt vong rồi những kẻ khuếch đại, số (2670).

68() Ý nghĩa: “Lạy Allah! xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad và dòng tộc của Người giống như Ngài đã ban bình an và phúc lành cho Nabi Ibrahim và dòng tộc của Người. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương {Quả thật, Allah và Thiên Thần của Ngài cầu xin bình an và phúc lành cho Nabi.}, số (4797); và Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi , số (406).

69() Ý nghĩa: “Thưa Allah! Cầu xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad, cho các phu nhân của Người và cho con cháu của Người giống như Ngài đã ban cho dòng tộc của Nabi Ibrahim. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần các Hadith nói về Nabi, chương câu Kinh: Và Allah đã chọn Ibrahim làm thân tín., số (3369); và Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi , số (407).

70() Ý nghĩa: “Thưa Allah! Cầu xin hãy ban sự bình an và phúc lành cho Nabi Muhammad và dòng tộc của Người giống như Ngài đã ban cho Ibrahim. Quả thực, Ngài là Đấng đáng được ca tụng, Đấng Huy Hoàng.” Hadith do Muslim ghi ở phần Salah, chương Salah cho Nabi , số (405).

71() Hadith do Muslim ghi ở phần Al-Salam, chương cấm bói toán và tìm đến thầy bói, số (2230).

72() Hadith do Ahmad ghi (9035); Al-Tirmizhi ghi ở phần sạch sẽ, chương không nên gần gủi vợ lúc kinh kỳ, số (135); và Ibnu Maajah ghi ở phần sạch sẽ và Sunnah về sạch sẽ, chương cấm gần gủi vợ lúc chu kỳ, số (639).

73() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Tafseer Qur’an, chương Mọi chìa khóa (hay kho tàn) của cõi vô hình huyền bí đều nằm nơi Ngài (Allah), chỉ riêng Ngài mới biết rõ chúng. số (4627) và Muslim ghi ở phần Imam, chương giải thích Imam, Islam và Ehsaan, số (10).

74() Hadith do Muslim ghi ở phần hiếu thảo và kết nối thân tộc, chương cấm bất công và khinh thường người Muslim, số (2564).

75() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần Imam, chương ân phước của người cẩn trọng về hành đạo, số (52) và Muslim ghi ở phần hợp tác, chương lấy điều Halal và từ bỏ điều nghi kỵ, số (1599).

76() Hadith do Muslim ghi ở phần tụng niệm và cầu xin, chương ân phước cùng xướng đọc Qur’an, số (2699).

77() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần di chúc, chương phụ nữ và con có được xem là người thân không, số (2753) và Muslim ghi ở phần Imam, chương Và (hỡi Muhammad) hãy khuyến cáo thân tộc gần gủi của Ngươi., số (206).

78() Hadith do Ahmad ghi (2664) và Al-Tirmizhi ghi ở phần miêu tả về ngày tận thế và nô lệ, chương trong đó, số (2516).

79() Hadith do Ahmad ghi (22978).

80() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần văn hóa, số (5990) và Muslim ghi ở phần Imam, chương quan hệ với người có đức tin và đoạn tuyệt với người khác họ, số 215).

81() Hadith do Al-Tỉrmizhi ghi ở phần hôn nhân, chương liên quan đến người dạm hỏi hài lòng về mặt đạo, số (1084) và Ibnu Maajah ghi ở phần hôn nhân, chương cân xứng, số (1967).

82() Hadith do Al-Bukhary ghi ở phần nhịn chay, chương nhịn chay dành cho ai sợ bản thân phạm Zina, số (1905) và Muslim ghi ở phần hôn nhân, chương khuyến khích kết hôn đối với ai có khả năng, số (1400).


Каталог: uploads -> books
books -> Tầm Quan Trọng Của Tâuhid & Sự Nguy Hiểm Của Bùa Ngải ] Tiếng Việt Vietnamese فيتنامي [
books -> Imam Muhammad Bin Abdul-Wahab
books -> Chữa Bệnh Bằng Những Lời Niệm Chú Từ Qur’an Và Sunnah
books -> حصن المسلم Husnun Al- muslim
books -> Bạn Biết Gì Về Shi’ah (Shiite – Si-ai)?
books -> Riyadh Saaliheen (Những Ngôi Vườn Của Những Người Ngoan Đạo) Chương Sabr (Kiên Nhẫn)
books -> Ương Haj Các Sai Sót Khi Hành Hương Haj
books -> Dịch Thuật: Abu Hisaan Ibnu Ysa
books -> Kế Hoạch Cho Gia Đình 30 dự án hữu ích cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong tháng Ramadan
books -> Imam Muhammad Bin Abdul-Wahab Tiểu sử và sự tuyên truyền của ông

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương