M· sè: 60. 22. 80 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: pgs. Ts nguyễn Quang Hưng



tải về 0.89 Mb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu01.11.2017
Kích0.89 Mb.
#34009
1   2

Quyển I: gồm 13 chương mang tên “Lý thuyết về gia đình”, trong đó Arixtot nêu lên những vấn đề bản chất, sự xuất hiện – nguồn gốc của nhà nước trong 3 chương đầu của quyển. Các chương còn lại, Arixtot phân tích vấn đề thành phần cấu tạo nên nhà nước – là các gia đình. Cho nên ông tập trung nghiên cứu và phân tích thành phần, các mối quan hệ cấu tạo nên gia đình và nghệ thuật tích lũy tài sản trong gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Arixtot phân tích những đặc điểm của gia đình, bởi vì chính ông đưa ra một quy luật tự nhiên dẫn đến sự xuất hiện nhà nước, theo quy luật này thì nhà nước xuất hiện theo quy luật tự nhiên từ gia đình mà nên, vì vậy, muốn hiểu các bộ phận cấu thành nên nhà nước cũng giống như các mối quan hệ trong nhà nước đó cùng các biện pháp xây dựng đời sống vật chất của nhà nước thì việc đầu tiên là phải phân tích, truy nguyên cho được những yếu tố đó từ gia đình. Toàn bộ Quyển I sẽ giúp ta nắm được sự hình thành của Nhà nước.

Quyển II: gồm 12 chương, trong đó ông đánh giá các mô hình chính trị trên lý thuyết thông qua việc phân tích, đánh giá những luận điểm của Platon qua hai tác phẩm “Nền cộng hòa” và “Luật pháp”, và những quan điểm của một số nhà lập pháp khác. Nội dung này được Arixtot trình bày rõ trong các chương từ chương 1 đến chương 6 của Quyển. Các chương còn lại, Arixtot dành thời lượng để phân tích các mô hình thực tiễn đã xuất hiện, như chế độ quân phiệt của Spac, Crete và Carthega.

Quyển III: gồm 18 chương và chủ đề của quyển là khảo sát các vấn đề liên quan đến công dân và các mô hình hiến pháp. Đây là trung tâm của “Chính trị luận”. Từ chương 1 đến chương 5, Arixtot giải quyết câu hỏi “ai là công dân?”. Trong đó, ông xác định những ai là thành phần công dân, và công dân có thay đổi hay không khi mà chính quyền, hiến pháp của quốc gia thay đổi, từ đó ông xác định đâu là hành vi của công dân trong một nhà nước và đặc biệt ông xác định những đức tính cần có của công dân. Từ chương 6 đến chương 8, ông xác định có những hình thức chính trị nào?. Từ mục đích của các chính quyền, ông đã phân loại thành các hình thức chính trị đúng đắn và hình thức chính trị sai, bại hoại (chương 6). Đến chương 7, ông phân tích các hình thức chính trị đúng đắn bao gồm: quân chủ, quý tộc và chế độ cộng hòa – chế độ đa số, đối lập với các hình thức chính trị đúng đó là các hình thức chính trị bại hoại như: bạo chúa (thay cho chế độ quân chủ); quả đầu – chế độ chỉ lo cho thiểu số dân giàu (thay cho chế độ quý tộc) và dân chủ (thay cho chế độ cộng hòa đa số), (nhưng Arixtot và người Hy Lạp thời kỳ đó xác định dân chủ là chế độ chỉ đại diện cho người nghèo đa số). Cho nên, trong chương 8 Arixtot phân tích bản chất của các chế độ như bạo chúa, quả đầu, dân chủ và so sánh sự khác nhau giữa hai chế độ quả đầu – và chế độ dân chủ. Chương 9, được Arixtot phân tích về nguyên tắc của chế độ Quả đầu và Dân chủ.

Đến chương 10, ông bàn đến vấn đề ai sẽ là người lãnh đạo? với các thành phần xã hội khác nhau thì lựa chọn ai nên làm người cai trị. Ông đưa ra kết luận rằng, “pháp trị” tức là để luật pháp, chứ không phải là con người có quyền tối thượng, vì con người luôn luôn để tư lợi và tình cảm xen vào.

Trong các chương còn lại của Quyển III, tức là từ chương 11 đến chương 18, Arixtot phân tích sự lợi hại của “Nhân trị” và “Pháp trị”. Theo Arixtot, nếu có một hoặc một nhóm người siêu tuyệt hơn mọi người, chỉ một mực chăm lo cho cái tốt chung của quốc gia, thì thuận theo tự nhiên những người này cai trị là thuận lý.

Quyển IV gồm 16 chương. Nội dung chính của Quyển này là việc xác định đâu là mô hình chính trị tốt nhất. Để chứng minh điều này, Arixtot phải trình bày những lý do cần tìm hiểu mô hình chính trị tốt nhất (chương 1). Từ đó, ông nghiên cứu các mô hình (dân chủ, quả đầu, chế độ bạo chúa) trong các chương trong các chương từ chương 2 đến chương 10, chỉ ra tỉ mỉ những ưu điểm cũng như nhược điểm của các chế độ này.

Từ chương 11 đến chương 16, Arixtot phân tích xem đâu là những mô hình chính trị khả thi nhất cho các quốc gia. Ông đưa ra khái niệm mô hình chế độ hỗn hợp giữa quả đầu và dân chủ, mà ông gọi là chế độ “polity” – đó là chế độ “trung dung”, chế độ tốt nhất phải là chế độ được tạo nên bởi giai cấp trung lưu đủ lớn mạnh hơn hai giai cấp kia (quá giầu hoặc quá nghèo). Ông gọi chế độ “trung dung” là chế độ hiến định. Tiếp theo đó, ông chú trọng phân tích những cách thức thực hành chế độ này, cũng như nghiên cứu cơ cấu chính trị, bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính và tư pháp của nhà nước đó.

Quyển V: gồm 12 chương, nội dung chủ yếu của quyển này Arixtot muốn nói đến vấn đề nguồn gốc dẫn đến cách mạng làm thay đổi các chế độ chính trị. Ông nói đến nguyên nhân cách mạng trong các chế độ như dân chủ - quả đầu – quý tộc – quân chủ độc tài cũng như các biện pháp để bảo vệ chế độ nhà nước.

Quyển VI: gồm 8 chương bàn về phương thức thiết lập chế độ Dân chủ và quả đầu, liên quan đến 3 ngành của chính quyền: hành pháp, tư pháp và lập pháp.

Đối với chế độ dân chủ: ông liệt kê thành 4 loại hình dân chủ theo các thành phần dân chúng (nông dân, chăn nuôi, thương nhân và công nhân). Chế độ quả đầu được hình thành từ 2 loại: quả đầu thuần túy (giàu có) và chế độ quả đầu polity (được kết hợp từ thuần túy và dân chủ).

Trong chương 8, Arixtot luận về các cơ quan chính quyền cần thiết cho một quốc gia như: kiểm soát thị trường, kiểm soát các bất động sản, kiểm lâm, ngân khố, văn thư, cơ quan thực thi các bản án, ngoài ra cần có cơ quan quốc phòng, thanh tra tài chính các cơ quan chính quyền.

Quyển VII gồm 17 chương, được chia làm 3 phần. Phần thứ nhất luận bàn về lý tưởng chính trị bản chất của đời sống hạnh phúc nhất và tốt nhất. Phần thứ hai luận bàn về các điều kiện để xây dựng một quốc gia lý tưởng. Phần thứ ba, Arixtot bàn về nguyên tắc tổng quát của giáo dục.

Quyển VIII¸ gồm 7 chương, nghiên cứu về giáo dục và đề nghị đưa một số môn vào trong chương trình giáo dục, nhằm mục đích xây dựng những công dân đạo đức, và khi mỗi công dân có đạo đức thì đất nước đó phải trở nên tốt đẹp hơn. Đó cũng là kết luận tự nhiên khi Arixtot kết thúc “Chính trị luận” bằng chương bàn về giáo dục.

1.2.3 Vấn đề nhà nước trong tác phẩm và phương hướng tiếp cận vấn đề



Tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtot là một tác phẩm đồ sộ, đề cập đến khá nhiều khía cạnh của một quốc gia, người đọc có thể tìm thấy các vấn đề liên quan đến đời sống hàng ngày của mỗi một con người như các vấn đề gia đình, mối quan hệ trong gia đình và phương pháp tích lũy tài sản trong gia đình, đến những vấn đề lớn hơn trong xã hội như chế độ chính trị nhà nước, thuật cai trị, nhà lãnh đạo, cơ cấu bộ máy nhà nước, các vấn đề dân số, quân sự quốc phòng, giáo dục, đạo đức văn hóa… có thể nói đây là một tác phẩm toàn diện liên quan mọi mặt của đời sống xã hội. Và ngày nay, người ta có thể nghiên cứu tác phẩm dưới nhiều góc độ, tuy nhiên vấn đề trọng tâm nhất trong tác phẩm cũng là phạm vi nghiên cứu của đề tài, chính là vấn đề nhà nước.

Nhà nước – một phạm trù trung tâm được bàn đến xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, tuy nhiên cách thể hiện của Arixtot cũng không hẳn dễ hiểu, dễ nắm bắt ý đồ của tác gia. Chính vì vậy, để làm sáng tỏ hơn vấn đề nhà nước trong tác phẩm, đề tài sẽ trình bày theo hướng tiếp cận sau đây: những quan niệm chung về nhà nước – các hình thức chính quyền nhà nước- mô hình nhà nước lý tưởng nhất và cách thiết lập cũng như đặc điểm của nhà nước lý tưởng đó – sự thay đổi và các biện pháp bảo vệ nhà nước, để từ đó đưa ra những nhận xét, khẳng định những nguyên lý đúng đắn và hạn chế của Arixtot, những điều còn dùng được trong xã hội hiện nay, và đặc biệt đề tài sẽ chỉ rõ sự ảnh hưởng của tác phẩm đến lịch sử triết học chính trị sau này của phương Tây và trên thế giới.


Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC
2.1 Những quan niệm chung về nhà nước

Ngay từ đầu tác phẩm, Arixtot đã nêu lên một lập luận quan trọng, nền tảng về mục đích của nhà nước. Ông nói: “Mỗi một nhà nước là một hình thức quần tụ nào đó của con người – một cộng đồng, và mỗi một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó, vì hoạt động của con người luôn luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng, nếu tất cả các cộng đồng đều nhằm đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị - cộng đồng cao nhất và bao trùm nhất tất cả các cộng đồng – phải nhắm tới cái tối cao cả hơn mọi cái khác, và phải là một cái tốt ở mức độ cao nhất” [1,42]. Một đoạn văn ngắn, nhưng đã chứa đựng hết những ý đồ của tác giả khi ông muốn nói về con người, về cộng đồng người và trên hết là của nhà nước.

Con người – “một động vật chính trị” [1,47] như ông nghĩ, thì sự nhu cầu quần tụ gắn bó với nhau nhằm hướng đến những cái tốt là điều hết sức tất yếu, sinh ra và lớn lên ai cũng có nhu cầu hiểu và được hiểu người khác, được giao tiếp với người khác. Con người, theo Arixtot khác động vật ở chỗ, động vật chỉ có thể thông qua những biểu hiện của cơ thể để thể hiện cảm xúc, còn con người có ngôn ngữ, có giao tiếp và có nhu cầu muốn gắn bó, đoàn kết với nhau. Đó là nhu cầu hết sức tự nhiên và chính đáng, nó cũng thể hiện một quy luật rất tự nhiên từ khi con người sinh ra trên trái đất. Quy luật đó là con người sinh ra tất yếu phải tụ họp nhau lại. Kết quả của quy luật này chính là việc con người xây dựng nên cho mình những cộng đồng chung. Những hình thức cộng đồng ban sơ rồi đến cao hơn, hoàn thiện hơn đó chính là Nhà nước. Mỗi một cộng đồng người xuất hiện nhằm thể hiện ước vọng bảo vệ và xây dựng thân tình đặc biệt giữa con người với con người, mục đích của nó là hướng con người đến cái Thiện, cái Tốt. Và nếu như vậy, cái cộng đồng cao nhất – chính là nhà nước, cũng sẽ phải thực hiện cái thiên mệnh tối cao đó. Nó sẽ phải phục vụ cho nhu cầu hướng đến cái tốt đẹp nhất của đời sống con người. Nó chỉ ra và thực hiện cho con người thấy những nhu cầu mà các cộng đồng nhỏ bé không thực hiện được, bất lực thì đến Nhà nước, sẽ thực hiện được, nó giúp cho những niềm ao ước, khát vọng hướng đến cái Chân – Thiện – Mỹ của con người đạt đến lý tưởng. Đó chỉ có thể là mục đích nhà nước.

Như vậy, chỉ thông qua một đoạn văn rất ngắn, ta đã hiểu Nhà nước – một thuật ngữ mà Arixtot cho rằng, “phải là một cộng đồng rộng lớn nó thực hiện nhiệm vụ hướng con người đến cái tốt đẹp nhất, bao trùm lên tất cả các cộng đồng, và phải ở mức độ tốt đẹp nhất”. Bản chất đó rất tự nhiên mà bất kỳ ai cũng hiểu, và đó cũng là cách hiểu của Arixtot về mục đích nhà nước. Cũng từ đoạn văn đó, đã hé mở cho chúng ta quan niệm của ông về sự xuất hiện của nhà nước.

Quy luật tự nhiên được ông nói trên đã được ông áp dụng khá linh hoạt và rõ ràng khi ông giải thích sự xuất hiện của nhà nước. Không phải những cuộc đấu tranh quân sự, cũng không phải từ những sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, càng không phải do nhu cầu phát triển những yếu tố lực lượng sản xuất như chúng ta thường thấy, mà nhà nước xuất hiện theo Arixtot, rất tự nhiên.

Tính tự nhiên của sự ra đời nhà nước không phải ở chỗ vô tình hay hữu ý của con người làm cho nhà nước ra đời, mà tính tự nhiên ở đây – chính là ở chỗ, “thoạt kỳ thủ phải có một sự kết hợp nào đó giữa những sự vật mà không thể hiện hữu được nếu thiếu nhau” [1,43], cũng giống như giống đực phải kết hợp với giống cái để lưu truyền dòng giống có cùng bản tính như nhau. Đối với con người, dĩ nhiên cũng phải kết hợp giữa những người nam với những người nữ, nhằm để duy trì dòng giống loài người. Và thứ đến, phải có sự kết hợp giữa phần tử cai trị và phần tử bị trị một cách tự nhiên. Những phần tử nào nhờ sự khôn ngoan biết tính toán, lo xa dĩ nhiên sẽ trở thành phần tử cai trị, còn những phần tử chỉ biết sức mạnh của thể chất để làm những gì mà phần tử kia hoạch định, dĩ nhiên là phần tử bị trị. Và tất nhiên, sự kết hợp giữa chủ nhân và nô lệ được hình thành, vì cả hai cần có nhau.

Từ quan hệ nam – nữ, chủ - nô đó, “gia đình là kết quả đầu tiên, và thi sĩ Hesiod đã nói: có nhà – có vợ - có trâu đi cày” [1,45]. Gia đình phương Tây có vẻ từ xa xưa cũng đã giống với những quan niệm của phương Đông, khi cho rằng một gia đình phải có vợ chồng, phải có nhà cửa, và phải có phương tiện sinh sống để lao động tạo ra của cải. Có khác chăng, gia đình theo quan niệm của thi sĩ Hesiod nói đến mà được Arixtot trích dẫn, đó là việc thay bằng “con trâu” là hình ảnh của người nô lệ. Đằng sau câu nói này, người ta thấy bóng dáng của người đàn ông chi phối toàn bộ gia đình. Một người đàn ông dĩ nhiên phải có nhà – tức là phải có của cải vật chất, người đàn ông mới có vợ - tức là đã xuất hiện mối quan hệ vợ - chồng, trong đó chồng là người trụ cột, có quyền sở hữu vợ, và người đàn ông phải có “trâu đi cày” – tức là có phương tiện, có nô lệ, và ở đó thấp thoáng là bóng dáng của mối quan hệ chủ - nô. Rõ ràng ta thấy, quan niệm này về gia đình của người phương Tây và phương Đông thời cổ đại vẫn có những điểm giống nhau, nó gần giống với quan niệm “tam cương, ngũ thường” trong quan niệm của Nho giáo ở Phương Đông. Tuy nhiên, trở lại vấn đề thấy rõ ràng theo quy luật Arixtot nói, gia đình là kết quả đầu tiên cho quá trình phát triển tự nhiên đó.

Sự phát triển không bao giờ dừng lại điểm mà tại điểm đó nó vẫn có thể phát triển. Cái quy luật tự nhiên hay ở chỗ, nó sẽ dẫn đối tượng phát triển đến cực thịnh, tạo mọi điều kiện để phát triển hết khả năng của sự vật. Quy luật phát triển tự nhiên này cũng vậy, từ cá thể dẫn đến xuất hiện nhà nước, nó cung ứng cho con người những nhu cầu thường ngày. “Nhưng khi nhiều gia đình tụ họp lại, và sự quần tụ này nhằm đến mục tiêu cao hơn là cung cấp cho những nhu cầu hàng ngày, thì xã hội đầu tiên – làng mạc được thành lập” [1,45]. Làng mạc, dĩ nhiên sẽ có những điểm giống với gia đình, và dĩ nhiên cũng có những bước phát triển cao hơn gia đình. Sự giống nhau giữa gia đình và làng mạc ở chỗ, mỗi một cộng đồng này đều có người đứng lên làm chủ. Trong gia đình, người đàn ông làm chủ, giống như Home đã nói “Mỗi một người đàn ông đều là người cai trị của vợ và con” [1,46] Còn đối với làng mạc do nhiều gia đình tạo nên, nên cũng được cai trị bởi người lớn tuổi trong gia đình. Do đó, cả hai cộng đồng này, theo Arixtot, “đều có đặc tính quân chủ” vì mọi sự đều do người chủ gia đình và tộc trưởng quyết định. Tuy nhiên, nét khác biệt ở đây đã quá rõ ràng, số lượng người và tính chất cộng đồng đã khác biệt.

Trong quá trình phát triển tự nhiên, làng mạc sẽ gặp nhiều vấn đề mà mỗi một gia đình, hay một làng mạc đã không thể tự mình thực hiện được, cần phải có sự hợp tác của nhiều gia đình, nhiều làng mạc, dẫn đến nhu cầu liên kết giữa các làng mạc, để đáp ứng mọi nhu cầu của con người có thể tự túc được, lúc đó “polis” – hay nhà nước đã xuất hiện.

Như vậy, “nhà nước được khai sinh từ những nhu cầu cơ bản của đời sống và tiếp tục tồn tại cho một đời sống tốt đẹp. Và như thế nếu các hình thức ban đầu của xã hội là tự nhiên, thì nhà nước cũng vậy, vì nhà nước là kết quả cuối cùng của mọi xã hội, và tính tự nhiên của sự vật chính là chung cục của nó” [1,46]

Sự xuất hiện của nhà nước ở Hy Lạp qua giải thích của Arixtot, ta thấy có những điểm giống với sự xuất hiện nhà nước ở phương Đông. Khi mà các gia đình tụ họp thành các làng mạc, và từ làng mạc con người có nhu cầu kết hợp thành cộng đồng nhà nước, ở phương Đông cũng có quá trình như vậy. Và sự giải thích này của Arixtot cũng có thể vận dụng được vào sự xuất hiện nhà nước ở các nước đặc thù phương Đông. Một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, sự xuất hiện nhà nước cũng có nhiều nét tương đồng, do nhu cầu trị thủy, công tác thủy lợi và công cuộc chống giặc ngoại xâm, đã thúc đẩy các làng mạc liên kết với nhau hình thành nhà nước. Ở điểm này, ta thấy đây cũng là cách giải thích hợp lý của Arixtot.

Tuy nhiên, cách giải thích này rõ ràng là thiếu những tiền đề kinh tế - xã hội cần thiết cho sự ra đời của nhà nước. Nếu đứng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, thì ta thấy quan điểm này còn nhiều hạn chế. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, sự ra đời của nhà nước gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Con người từ khi mới sinh ra, con người cần phải ăn, ở, mặc... và muốn có những điều đó, con người cần lao động. Mác đã khẳng định “Cái sự thật hiển nhiên mà cho mãi đến lúc đó người ta vẫn bỏ quên mất, là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động” [9,166]. Đó là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, biến những sản vật tự nhiên thành những sản phẩm vật chất nuôi sống con người và xã hội. Trong quá trình lao động, bản thân con người sáng tạo ra các công cụ sản xuất, tạo ra thu nhập ngày càng cao. Ban đầu con người chỉ đủ ăn nhưng sau đó họ không chỉ tạo ra đủ số lượng cho mọi người mà còn tạo ra một số lượng sản phẩm dư thừa. Chính những sản phẩm dư thừa này rơi vào tay những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc. Từ đó, xuất hiện chế độ tư hữu, và phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, đó là những người bị trị và thống trị, mâu thuẫn giai cấp cũng xuất hiện. Những mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt dẫn đến xuất hiện những cuộc đấu tranh giai cấp, và đỉnh cao của những cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là cách mạng xã hội. Khi cách mạng xã hội xuất hiện và thành công, nhà nước được ra đời. Do đó, nhà nước ra đời là kết quả của đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được, đúng như Lenin có nói “nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện” [18,9] và sâu xa hơn, sự xuất hiện nhà nước là bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ tư hữu.

Rõ ràng, quan niệm của Arixtot và của chủ nghĩa Mác hoàn toàn không giống nhau, thậm chí, quan niệm của Arixtot lại có xu hướng gần với quan niệm về sự ra đời của nhà nước Việt Nam ta hơn. Ở đây, chúng ta phải nhận thấy rằng, quan niệm nào cũng có tính hợp lý của nó, có khác ở phương pháp tiếp cận và tính lịch sử quy định. Vì vậy, chúng ta sẽ giữ những quan điểm đó tại thời điểm mà Arixtot sinh sống, đó cũng là một phát hiện hết sức quan trọng và có ý nghĩa. Bởi vì, chính quan niệm về tính tự nhiên của ông, đã mở ra cho hàng loạt các nhà triết học khai sáng và cận đại như Mongtexkio, hay Russo... cùng nhiều nhà triết học sau này nối tiếp quan niệm bản tính tự nhiên trong sự giải thích về bản chất con người cũng như là sự xuất hiện của nhà nước. Do đó, ta sẽ công nhận giá trị to lớn này cho Arixtot. Và ở đây, chứng tỏ rằng, lý luận nào cũng có tính hợp lý của mình, quan trọng người nghiên cứu có thái độ như thế nào đối với những lý luận đó. Chỗ này, chủ nghĩa Mác đã hợp lý khi đưa ra nguyên tắc tính khách quan – lịch sử trong quá trình nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Nguyên tắc này đòi hỏi phải tôn trọng lịch sử khách quan của tư tưởng và đánh giá đúng ý nghĩa lịch sử của chúng. Ở đây, chúng ta sẽ sử dụng nguyên tắc này đối với quan điểm về nguồn gốc của nhà nước mà Arixtot nêu ra trong tác phẩm.

Quay trở lại vấn đề sự xuất hiện nhà nước, còn một vấn đề cũng được Arixtot nêu ra. Đó là việc xác định xem giữa cá nhân và nhà nước thì đâu là cái xuất hiện trước? Nhà nước hay các cá nhân? Nếu đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mac, ta thấy rõ ràng cá nhân xuất hiện mới đến nhà nước, con người là động vật bậc cao có tư duy và biết lao động, chính từ đó mới hình thành nên nhà nước. Nhưng ở đây, Arixtot cho rằng “mặc dù cá nhân và gia đình hiện hữu trước theo thứ tự thời gian, nhà nước lại hiện hữu trước hơn cả cá nhân và gia đình theo thứ tự tự nhiên. Lý do của điều này như sau: cái tổng thể luôn nhất thiết phải hiện hữu trước cái cá thể theo tự nhiên” [1,48]. Hơn nữa, con người sẽ không thể tự túc được nếu không có tập thể, con người sẽ không có đức hạnh nếu không có mối quan hệ với người khác. Và khi không có đức hạnh “thì hắn ta sẽ trở thành kẻ dã man nhất, đê tiện nhất, chỉ biết chiều theo những nhục dục” [1,49]. Chỉ có nhà nước mới có thể đem lại sự công chính, vì đó là yếu tố giảng giải cho con người đâu là điều hay, lẽ phải. Và dĩ nhiên, “công chính – là trật tự của một xã hội chính trị” [1,49]

Có lẽ cách giải thích của Arixtot hơi trái chiều, nhưng dĩ nhiên ta thấy rõ tính hợp lý của nó. Công chính – là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt con người trong một xã hội chính trị với động vật. Có công chính con người mới thực sự là con người đúng nghĩa, mà công chính chỉ có thể có được là nhờ nhà nước. Và do đó, Arixtot kết luận rằng, nhà nước là yếu tố toàn bộ và phải xuất hiện trước cá nhân.

Tuy nhiên, ở đây Arixtot còn gặp một khó khăn khác, con người trong hoạt động thực tiễn của mình đặt ra nhu cầu về các quy định giao tiếp, ứng xử với nhau, hình thành nên các phong tục tập quán, lễ nghi từ đó khi hình thành nhà nước những yếu tố mới được đưa lên thành luật lệ chung, dĩ nhiên luật pháp còn xuất hiện từ nhiều cách thức khác chứ không chỉ là từ luật lệ. Thế nhưng, chính vai trò của luật pháp, luật lệ, phong tục tập quán đó mới hình thành nên điều mà Arixtot gọi là “công chính”. Điều này có nghĩa, các cá nhân phải có trước mới dẫn đến sự xuất hiện nhà nước. Nói theo cách của chủ nghĩa Mác, như vậy có nghĩa là phải có tồn tại xã hội mới xuất hiện ý thức xã hội, phải có đời sống cá nhân con người mới xuất hiện công chính, nhà nước, hay nói cách khác, phải có quan hệ sản xuất mới hình thành nhà nước, với tư cách là một kiến trúc thượng tầng được xây dựng từ quan hệ sản xuất đó.



Vấn đề công dân của nhà nước cũng được Arixtot phân tích một cách khá đầy đủ và chi tiết trong Quyển III của tác phẩm. Trong đó Arixtot có nêu lên định nghĩa rõ ràng để xác định ai là công dân trong một nhà nước. Việc định nghĩa công dân đòi hỏi “phải theo nghĩa chính xác, tuyệt đối nhất” [1,147]. Chính vì vậy, ông đã đưa ra các khả năng liên quan đến công dân và kết luận “Ta có thể nói như sau: những ai có quyền tham dự vào các cuộc nghị luận việc công hay về tư pháp {bất kể có nhiệm kỳ hay không} của bất kỳ nước nào, thì phải được coi là công dân của nước đó. Nói một cách tổng quát, một nhà nước là một cơ cấu gồm tất cả những công dân hợp lại nhằm đạt tới mục đích của đời sống” [1,149].

Quan niệm này của Arixtot đã xác định rõ những ai mà được tham gia vào việc công hay tư pháp thì đều được coi là công dân, mỗi công dân đều thuộc về một nhà nước, được tự do tham gia hoạt động chính trị. Những người đó được xem là công dân. Ngoài ra, tất cả những ai không được tham gia vào hoạt động chính trị thì không được xem là công dân. Ở dưới thời của Arixtot, đó là quan niệm chính xác và rộng lớn, nó không xét đến hoàn cảnh, xuất thân của con người, mà chỉ xác định trên cơ sở hành động của người đó tham gia vào hoạt động chính trị của quốc gia. Nó loại được những trường hợp khó xác định công dân trong một nhà nước. Chính vì vậy, sau này chủ nghĩa Mác cũng đã kết luận “Vì vậy, hiển nhiên khi những cá nhân là những người mang những chức năng và quyền lực nhà nước thì những cá nhân đó phải được xem xét căn cứ theo phẩm chất xã hội của họ, chứ không căn cứ theo phẩm chất tư nhân của họ” [4,337]. Điều này có nghĩa rằng, cá nhân với tư cách là công dân của nhà nước thì mang những chức năng xã hội, những phẩm chất xã hội cứ không căn cứ theo những phẩm chất tư nhân của họ. Quan niệm này giữa Mác và Arixtot cũng có điểm tương đồng khi xác định công dân phải có những phẩm chất thuộc về xã hội chứ không phải những phẩm chất tư nhân riêng biệt của họ.

Ngoài ra, Arixtot cũng nêu lên những đặc tính của một công dân của nhà nước, hay hành vi được coi là hành vi của con người trong nhà nước. Trong đó, đức tính của mọi công dân theo Arixtot, đó là tất cả mọi công dân đều có “mục đích chung là sự an toàn của cộng đồng” [1,155]. Cộng đồng ở đây được hiểu là cơ cấu chính trị mà họ tham gia. Tất cả mọi thành viên, mọi công dân của nhà nước nếu “thực hiện thật tốt nhiệm vụ của mình được giao phó, thì đó là một nhà nước tốt”. Đây là một quan niệm đúng đắn, dù trong xã hội cổ đại hay xã hội hiện đại, vấn đề công dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình cũng đáng được quan tâm. Dĩ nhiên, trong một quốc gia, mỗi công dân đều hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ công dân của mình, thì đất nước đó được xem là một đất nước lớn mạnh và ổn định.

Đức tính thứ hai, cũng quan trọng không kém, Arixtot đã sử dụng tục ngữ, có câu: “Kẻ nào chưa từng học vâng lời, không thể trở thành một người chỉ huy giỏi”. Trong câu tục ngữ này, Arixtot có nói tới hai đặc điểm: biết cách vâng lời và biết cách chỉ huy, lãnh đạo. Đó là hai đức tính mà Arixtot cho rằng cần phải có ở công dân. Một người công dân tốt phải là người biết vâng lời, và cũng là người tham gia lãnh đạo, tham gia hoạt động chỉ huy trong cộng đồng chính trị.

Ngoài ra, theo Arixtot, công dân còn cần nhiều loại đặc tính khác nhau và cần phải nghiên cứu cụ thể hơn trong từng hình thức nhà nước.

Như vậy, công dân cũng có nhiều loại, nhiều đặc tính, nhưng nguyên nhân của sự phân biệt nhiều đặc tính như vậy lại xuất phát từ chính các hình thức nhà nước. Mỗi một hình thức nhà nước đòi hỏi công dân của họ phải có những đặc tính khác nhau. Công dân trong xã hội dân chủ phải khác công dân trong xã hội quý tộc hay quân chủ. Do đó, việc xác định công dân và những đặc tính của công dân khiến ta phải đặt ra vấn đề xem xét các hình thức nhà nước khác nhau trong lịch sử. Từ đó, đưa ra mô hình nhà nước lý tưởng cùng với những đặc điểm của nhà nước đó. Việc xác định bản chất của các hình thức chính quyền được xem là vấn đề quan trọng hàng đầu khi Arixtot viết tác phẩm này.

2.2 Các hình thức nhà nước

Câu hỏi trọng tâm của người đọc khi đọc tác phẩm, đó phải là câu hỏi xem Arixtot chỉ ra bao nhiêu hình thức nhà nước và đâu là hình thức nhà nước tối ưu nhất. Đến đây, vấn đề quan trọng nhất đã được ông đặt ra và giải quyết một cách khoa học trong tác phẩm. Những quan niệm này của Arixtot có những điểm giống, cũng có nhiều điểm khác với bậc tiền bối của mình. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc và rõ ràng hơn về các hình thức Nhà nước được Arixtot nói đến trong tác phẩm.

2.2.1 Quan niệm của Arixtot về hình thức nhà nước

Trước hết, Arixtot đặt ra câu hỏi thế nào là hình thức nhà nước?

Câu hỏi này là cánh cửa để chúng ta bước vào quan niệm rất phức tạp của Arixtot trong tác phẩm. Chính vì vậy, hiểu được khái niệm nền tảng này sẽ giúp chúng ta tiếp cận một cách dễ dàng hơn với những quan niệm của ông về nhà nước.

Một hình thức chính quyền, hay Arixtot gọi là “hiến pháp”. Theo như ông viết trong tác phẩm, ông gọi thuật ngữ “hiến pháp” thực ra chính là “chính quyền” [1,165]. Cho nên nếu không hiểu cách ông viết, ta sẽ bị nhầm lẫn bởi hai thuật ngữ này. “Hiến pháp” nếu theo cách hiểu thông thường là văn bản nền tảng để xây dựng chế độ nhà nước, xây dựng pháp luật của nhà nước. Còn “chính quyền” được hiểu như là cơ quan nhà nước, bao gồm các bộ phận trong bộ máy nhà nước được xây dựng trên cơ sở của Hiến pháp. Tuy nhiên, ở đây Arixtot sử dụng thuật ngữ này không theo cách hiểu đó, mà ông đồng nhất các khái niệm: chính quyền và hiến pháp làm một. Do đó, ông gọi các loại hình chính quyền cũng là các loại hình hiến pháp, hai thuật ngữ này đồng nghĩa, vì vậy khi nghiên cứu về nhà nước trong tác phẩm chúng ta sẽ hiểu theo nghĩa mà Arixtot viết trong tác phẩm

Theo Arixtot, “chính quyền” hay “hiến pháp” là “sự sắp xếp cơ cấu quan chức trong một nhà nước, nhất là cơ cấu có quyền lực cao nhất. Chính quyền có uy quyền tối thượng trong cả nước, và hiến pháp thực ra chính là chính quyền” [1,164]

“Hai từ hiến pháp và chính quyền có cùng một nghĩa, và chính quyền tức là quyền uy tối thượng trong một nước, phải nằm trong tay của một người, hay của một vài người, hay thuộc về nhiều người”.

Như vậy, cách hiểu của Arixtot về chính quyền đơn giản là: thứ nhất, đồng nghĩa với hiến pháp như đã nói ở trên, và thứ hai bản chất của chính quyền, hiến pháp đó là việc xác định thành phần nào cai trị xã hội, tầng lớp nào là người cai trị đất nước chứ không đơn giản chỉ là cá nhân nào ở vị trí nào trong bộ máy nhà nước.

Tất nhiên, trong xã hội sẽ có nhiều giai cấp, và thậm chí mỗi một giai cấp sẽ có nhiều loại, do đó, trong lịch sử cũng sẽ có nhiều hình thức nhà nước, có bao nhiêu loại thành phần cai trị xã hội sẽ có bấy nhiêu các hình thức nhà nước. Và cái định nghĩa của Arixtot “một hiến pháp là sự sắp xếp cơ cấu quan chức trong một nước” phải được hiểu theo cách đó.

Mặc dù việc đánh đồng hai thuật ngữ hiến pháp và chính quyền của Arixtot còn hạn chế, song quan niệm của ông về hình thức chính quyền lại rất đúng đắn và dễ hiểu. Chính quan niệm này giúp ta hiểu được hình thức chính quyền là như thế nào, không cần phải phức tạp, Arixtot nói rất đơn giản, dễ hiểu: hiến pháp, hay các hình thức chính quyền là việc xác định tầng lớp nào lãnh đạo xã hội. Một quốc gia được cai trị bởi duy nhất một người, ta biết chắc chắn đó là hình thức chính quyền là quân chủ, trong chế độ dân chủ, người dân là tối thượng, các hình thức khác cũng tương tự [1,165]

2.2.2 Bản chất của các loại hình nhà nước

Câu hỏi thứ hai, liên quan đến hình thức nhà nước được Arixtot đặt ra, đó là việc: có bao nhiêu hình thức nhà nước, cơ sở nào để phân biệt các loại hình thức nhà nước và bản chất của chúng là gì?

Theo Arixtot, có 6 hình thức nhà nước, bao gồm: quân chủ, quý tộc, hình thức “chính quyền” (Arixtot gọi là Policy, hay chế độ hiến định, hay chế độ trung dung), bạo chúa, quả đầu và chế độ dân chủ. Cách hiểu các thuật ngữ này cũng cần được giải thích rõ ràng hơn.

Trong 6 hình thức này, được chia làm hai loại: các loại hình thức chính quyền đúng và các loại hình thức chính quyền sai. Các hình thức chính quyền đúng bao gồm: Quân chủ, quý tộc và policy (chế độ hiến định, chế độ trung dung, hay chế độ dân chủ ôn hòa). Đối lập với các hình thức đúng là các hình thức nhà nước sai, hủ bại: loại hủ bại của quân chủ là bạo chúa, loại hủ bại của quý tộc là quả đầu, và loại hủ bại của chế độ hiến định là dân chủ.

Cơ sở để Arixtot phân loại thành các hình thức đúng – sai, đó là việc Arixtot xác định dựa trên việc các hình thức chính quyền quan tâm đến phúc lợi của các giai cấp trong xã hội. Và “Những chính quyền nào mà quan tâm đến lợi ích chung của mọi người là chính quyền được thiết lập đúng theo công lý, hiểu theo nghĩa nghiêm ngặt nhất, và đó là những chính quyền đúng đắn; còn những loại chính quyền nào mà chỉ lo đến quyền lợi của kẻ cai trị là những loại chính quyền đầy rẫy khuyết điểm và bại hoại” [1,166] “Những dạng thức đúng đắn của chính quyền thuộc một trong ba loại kể trên, được tổ chức nhằm phục vụ cho lợi ích chung, còn những loại chính quyền được thiết lập nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng tư của một người, một nhóm người, hay của cả mọi người, đều là những hình thức chính quyền sai” [1,167]

Như vậy, chính việc xác định chính quyền phục vụ cho ai sẽ là cơ sở để đánh giá hình thức đó đúng hay là sai. Arixtot đã giải thích tại sao lại phân biệt như vậy:

“Chế độ quân chủ” được xem là hình thức đúng, là vì trong chế độ này, nhà vua quan tâm đến lợi ích của bản thân và của toàn thể mọi người, nếu nói theo cách nói của người Phương Đông, vua – là cha của toàn thể dân chúng và dân chúng đâu cũng là thần dân của vua, vua có quyền tối thượng cũng quan tâm đến mọi mặt của người dân. Ông vua nào xây dựng được quốc gia của mình bằng biện pháp chú ý đến lợi ích của mọi người dân, thì ông vua đó được xem là đã xây dựng hình thức nhà nước đúng, đó là chế độ quân chủ. Và dĩ nhiên, đối lập với hình thức nhà nước quân chủ - là hình thức hủ bại: chế độ bạo chúa. Bạo chúa hủ bại là vì, nhà vua chỉ quan tâm đến lợi ích của vương thất. Trong chế độ bạo chúa, quân vương áp dụng quyền lực của chủ nhân lên xã hội.

Chế độ quý tộc cũng được xem là một chế độ đúng. Bởi vì những người này “hoặc là vì những người cai trị thuộc thành phần ưu tú, hoặc họ chỉ chuyên tâm đến những quyền lợi tốt đẹp nhất của quốc gia và công dân” [1,167]. Và dĩ nhiên, đối lập với hình thức đó là hình thức quả đầu. Gọi là quả đầu là “chế độ chỉ lo cho kẻ giàu” [1,168] và chế độ này chỉ bao gồm “những người giàu có và quý tộc cai trị, thành phần này thông thường chỉ là một thiểu số” [1,216] dĩ nhiên quả đầu họ chỉ lo cho thiểu số - vì lẽ đó, chế độ này được xếp vào loại các hình thức hủ bại.

Đối lập với chế độ quả đầu, là chế độ dân chủ. Thuật ngữ “dân chủ” được Arixtot nói đến không giống mà ta quan niệm về dân chủ hiện nay. Nếu như hiện nay, ta hiểu khi nói đến dân chủ là nói đến chế độ lấy dân làm gốc, mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, một nhà nước trong đó mọi thứ đều thuộc về nhân dân, do dân và vì dân. Còn đối với Arixtot hiểu dân chủ là một hình thức nhà nước “do thành phần dân chúng tự do cai trị” [1,215] và “một chính quyền được xem là dân chủ khi những người tự do, vừa là đa số vừa là những người nghèo cai trị” [1,216]. Cho nên, tại sao chế độ dân chủ lại được coi là chế độ hủ bại đó là vì “chế độ dân chủ chỉ quan tâm đến quyền lợi của dân nghèo” [1,168]. Như vậy, thuật ngữ “dân chủ” mà Arixtot nói đến khác hẳn với “dân chủ” mà ngày nay chúng ta đề cập. Theo đó, chúng ta nói đến dân chủ là nói đến sự tự do – bình đẳng của mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sắc tộc, tôn giáo… tất cả đều được bình đẳng trước pháp luật. Lenin đã khẳng định “Chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác, bảo đảm cho một bộ phận của dân cư thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại bộ phận khác” [18,101]. Còn “dân chủ” được Arixtot hiểu theo nghĩa hạn chế hơn, đó là quyền lực thuộc về số đông nhưng là thành phần dân nghèo trong xã hội. Chế độ này đối lập hẳn với chế độ quả đầu được Arixtot nói đến. Chế độ quả đầu là khi giai cấp có tài sản nắm chính quyền trong tay, chiếm thiểu số cai trị, còn dân chủ là những người vừa đa số, vừa là những người nghèo cai trị.

Theo tác giả David Held trong cuốn “ Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại” đã đánh giá về thuật ngữ “dân chủ” mà Arixtot nói đến. Theo ông, “trong 100 năm đầu tiên của lịch sử phát triển các nước cộng hòa, những người ủng hộ chúng còn chưa biết đến thuật ngữ này, nó chỉ trở thành một phần của ngôn ngữ chính trị châu Âu sau khi tác phẩm “The Plolitics – Chính trị luận” của Arixtot xuất hiện. Sau đó, theo cách dùng của Arixtot, nó có ý nghĩa tiêu cực và thường được liên tưởng tới chính sách của lũ tiện dân; chính phủ hành động vì người nghèo chứ không phải vì quyền lợi công cộng; và hình thức chính quyền trong đó “người dân thường” có thể trở thành bạo chúa, đe dọa cào bằng tất cả khác biệt xã hội và đặc quyền đặc lợi đã giành được” [17,73]. Trong nhận xét này, David Held đã đưa ra thông tin khá quan trọng, chúng ta phải ghi nhận ở Arixtot, thuật ngữ “dân chủ” lần đầu tiên được xuất hiện trong tác phẩm này và nó đi vào đời sống chính trị Châu Âu như một thuật ngữ tiền đề, nền tảng cho chính trị phương Tây sau này. Tuy nhiên, nhận xét này cũng hợp lý ở chỗ, Arixtot chưa sử dụng đúng ý nghĩa dân chủ như hiện nay ta dùng, cách dùng thuật ngữ này của Arixtot lại có hạn chế, dân chủ theo nghĩa tiêu cực hơn là tích cực.

Cuối cùng, là chế độ “policy”, chế độ đúng đắn đối lập chế độ dân chủ, một hình thức hủ bại của chế độ “policy”. Tuy nhiên, đây cũng là một thuật ngữ có khả năng gây ra sự khó hiểu và nhận thức không chính xác về nó. Trong tác phẩm, có nhiều lần Arixtot nói đến chế độ này với nhiều tên gọi khác nhau dễ khiến cho người đọc nhầm lẫn. Có lúc Arixtot viết về chế độ này và gọi nó bằng một cái tên chung là “chính quyền” [1,167], cũng có lúc Arixtot gọi nó là “chế độ theo hiến pháp” [1,228], chế độ hiến định [1,229], cũng có lúc Arixtot lại gọi chế độ này là chế độ trung dung [1,242]. Với cách gọi như vậy khiến cho người đọc khó nắm bắt, khó theo dõi và hiểu biết về chế độ này. Chính vì vậy, để thống nhất trong nghiên cứu, ta sẽ gọi chế độ này bằng một tên thống nhất, đó là “chế độ trung dung”. Bản chất của thuật ngữ “trung dung” này cũng đủ làm ta hiểu về một chế độ Arixtot có đề cập đến.

Theo quan niệm của Arixtot, chế độ trung dung được ông hiểu đó là chế độ mà “đa số công dân tham gia chính sự và quan tâm đến lợi ích chung”. Ta có thể gọi chế độ này là chế độ trung dung cũng là vì “một người hay một số người có thể vượt trội hơn những người khác về tài đức, nhưng khi gom nhiều người lại, ta khó lòng phân biệt được ai là kẻ vượt trội về mọi mặt, ngoại trừ về phương diện quân sự” [1,168]. Nói một cách tổng quát đây là một chế độ “pha trộn, hỗn hợp giữa quả đầu và dân chủ” [1,229]. Đó là chế độ trong đó có sự kết hợp giữa những người giàu và những người nghèo, được coi là chế độ hiến định (hay là chế độ trung dung). Trung dung giữa người giàu và người nghèo.

Như vậy, mỗi một chế độ có một bản chất khác nhau. Một ông vua cai trị lo cho dân chúng – chế độ quân chủ, ngược lại ông vua đó chỉ lo cho vương thất – lại là chế độ bạo chúa. Một chế độ xây dựng trên việc sử dụng tài sản, đức hạnh và số đông , thì đó là chế độ quý tộc, đó là một chế độ được điều hành bởi những người có tài đức nhất, ngược lại nơi nào là số ít người giàu có cai trị chỉ lo cho bản thân họ - đó là chế quả đầu. Nơi nào mà chế độ được xây dựng trên nền tảng cai trị là người nghèo, đa số và tự do – đó là chế độ dân chủ, một chế độ hủ bại của chế độ trung dung. Chế độ trung dung là sự kết hợp giữa hai chế độ quả đầu và dân chủ. Trên đây là bản chất một cách ngắn gọn nhất của các chế độ được Arixtot đề cập nghiên cứu.

Ở điểm này, ta thấy ở Arixtot cũng có điểm giống và khác so với Platon khi nói đến các loại hình nhà nước. Chúng ta nhớ rằng hình thức đúng thứ ba ở Platon là chế độ dân chủ (thay cho politia ở Arixtot), còn cái mà Arixtot gọi là dân chủ thì ở Platon là chế độ mị dân. Thêm vào đó, khi coi chế độ dân chủ là hình thức Nhà nước sai, Arixtot thực chất thừa nhận rằng nó tất yếu trở thành chế độ mị dân, vì bình đẳng và tự do dưới chế độ dân chủ được thay thế bằng bình đẳng về mọi thứ. Đây cũng là sự khác biệt giữa Arixtot với người thầy của mình trong vấn đề này.

2.2.3 Các dạng khác nhau của các loại hình nhà nước

Sau khi đã tìm hiểu các loại nói chung và bản chất từng loại hình nhà nước nói riêng, chúng ta sẽ đặt tiếp câu hỏi một cách tự nhiên, đó là: trong mỗi một loại hình nhà nước có bao nhiêu mô hình khác nhau thuộc về loại hình đó?

Không chỉ đơn giản là việc phân chia các hình thức nhà nước, mà chúng ta cũng cần phải tìm hiểu xem xét có bao nhiêu mô hình khác nhau trong từng hình thức đó. Bởi vì theo Arixtot, “trong mỗi nhà nước có nhiều phần tử khác nhau. Đầu tiên ta thấy, tất cả mọi nước đều bắt nguồn từ nhiều gia đình, và trong số đông đảo công dân lại có người giàu, người nghèo, có kẻ trung lưu. Kẻ giàu có phương tiện để vũ trang, còn kẻ nghèo thì chỉ là kẻ bạch đinh. Trong số những kẻ bình dân, có người làm nghề nông, có người buôn bán, có kẻ làm thợ. Còn trong số quý tộc, cũng có sự khác biệt về tiền bạc và tài sản…” [1,213] do đó trong mỗi hình thức nhà nước lại xuất hiện nhiều mô hình khác nhau. Chính vì vậy, công việc tiếp theo chúng ta cần phải nghiên cứu, đó là việc chỉ ra tất cả các loại mô hình đó.

Tuy nhiên, để trả lời cho câu hỏi này, ta lại phải xem xét một vấn đề khác, nền tảng của nó – đó là việc xác định trong một cộng đồng chính trị xã hội, có bao nhiêu giai cấp, tầng lớp. Từ đó mới chỉ ra được có bao nhiêu mô hình khác nhau của các loại hình nhà nước.

Arixtot đã chia xã hội thành 9 tầng lớp, giai cấp khác nhau. “Một phần tử lo nhiệm vụ cung cấp lương thực, ta gọi là nhà nông; phần tử thứ hai là những người thợ tạo nên những máy móc cần thiết cho sự sinh tồn của một nước. Phần tử thứ ba, là những thương gia, tức là những người mua bán vật sỉ cũng như lẻ. Thành phần thứ tư là những nông nô hay lao động chân tay. Giai cấp chiến sỹ là giai cấp thứ năm và cũng cần thiết như mọi giai cấp khác để bảo vệ đất nước khỏi bị nước khác xâm lăng và áp đặt ách nô lệ. Thành phần thứ sáu là những quân nhân, phán quan, hay nghị viên, là những người điều hành đời sống chính trị, là thành phần được xem quan trọng hơn là những phần tử chỉ lo đến những nhu cầu vật chất của đời sống. Thành phần thứ bảy, là những người giàu có phục vụ quốc gia bằng tài sản của họ. Thành phần thứ tám là các quan chức vì một nước không thể hiện hữu nếu thiếu người cai trị, phải có người có khả năng đảm nhiệm những chức vụ công quyền hoặc là phục vụ quốc gia theo nhiệm kỳ hay vĩnh viễn. Còn sót lại một thành phần gồm những người có viễn kiến và nghị luận chín chắn cùng khả năng phán xét những cuộc tranh tụng” [1,219]. Hơn nữa, theo Arixtot, trong một quốc gia phải có 9 tầng lớp này quan hệ với nhau, một quốc gia dĩ nhiên cần phải có những người có khả năng lãnh đạo quốc gia. Còn những tầng lớp khác có thể kết hợp với nhau, chẳng hạn, một chiến sỹ có thể vừa là một người thợ, hay một nhà nông… do vậy, việc phân chia chỉ có tính chất tương đối.

Tuy nhiên, ngoài ra vẫn còn một cách phân chia xã hội khác mà Arixtot cũng nói đến, đó là việc phân thành người giàu – nguời nghèo, trong một cá nhân, không thể có vừa giàu vừa nghèo, cho nên chỉ có hai giai cấp giàu – nghèo. Hai giai cấp này thậm chí đối nghịch nhau, đấu tranh để xây dựng những chính quyền phục vụ cho giai cấp mình. Tuy nhiên, trong xã hội, người giàu thường chiếm thiểu số còn người nghèo thường chiếm đa số. Vì vậy, thông thường sẽ có hai chính quyền: dân chủ (theo số đông) và quả đầu (theo tài sản). Do đó, theo Arixtot, phải đặt hai giai cấp này cũng là những thành phần của nhà nước hiểu theo nghĩa riêng biệt chứ không phải theo chức năng như trên.

Trong một xã hội có nhiều giai cấp, tầng lớp như vậy thì chính quyền cũng có nhiều loại khác nhau như ta đã thấy, thậm chí trong một loại hình nhà nước lại có nhiều mô hình khác nhau. Arixtot cũng chỉ rõ những mô hình đó

Một là chế độ quân chủ

Theo Arixtot, “ta có thể thấy dễ dàng là có nhiều loại quân chủ, và hệ thống chính quyền do đó, cũng gồm nhiều loại”. Arixtot đã chia chế độ quân chủ thành 5 mô hình khác nhau:

Thứ nhất, chế độ quân chủ được lập nên từ luật pháp. Theo Arixtot, đây là loại quân chủ mà trong đó quyền lực của nhà vua không phải là tuyệt đối, nó chỉ tuyệt đối trong chiến tranh và các hoạt động tôn giáo. Vua không có quyền sinh sát chỉ trong những trường hợp đặc biệt như chiến trinh, vẫn phải nhẫn nhịn trước những lời nhận xét của các nghị viên trong quốc hội. Ở chế độ này, nhà vua kiêm nguyên soái – cai trị cho đến mãn đời. Mô hình này cũng có 2 loại: do thế tập hoặc do bầu cử tạo nên.

Thứ hai, loại chế độ quân chủ gần với chuyên chế, vua của các dân tộc dã man. Loại hình này Arixtot cho rằng chỉ thông dụng ở những nước kém phát triển, kém văn minh, nó gần với chế độ chuyên chế, nhưng vẫn được coi là hợp pháp và thế tập. Các sắc dân kém văn minh hơn người Hy Lạp, nên ít khi đứng lên chống lại sự độc tài của chính quyền. Những chế độ quân chủ loại này mang bản chất chế độ của những bạo chúa vì bản chất của dân trong nước là nô lệ, những chế độ loại này cũng không sợ bị lật đổ vì được xem là hợp pháp và truyền từ đời cha xuống đời con. Những vị vua này được xem là vua của họ thật sự, chứ không phải là bạo chúa, nhà vua cai trị theo luật pháp và thần dân tuân phục một cách tự nguyện, còn đối với bạo chúa thần dân bị buộc phải tuân phục.

Loại thứ ba, được Arixtot nói đến là chế độ quân chủ chỉ có ở Hy Lạp cổ, được gọi là Aesymnetia – tức là độc tài. Mô hình này có thể hiểu là quả đầu qua bầu cử, nó cũng giống như loại hai, nhưng khác ở chỗ nó không có tính chất thế tập. Nhà vua cũng có khi được nắm quyền suốt đời, hoặc theo nhiệm kỳ, hoặc khi một công việc nào đó được thực hiện xong.

Cả ba loại quân chủ này đều giống nhau ở chỗ có tính chất của bạo chúa, bởi vì nhà vua nắm quyền chuyên chính, nhưng nếu những vị vua này được dân chúng bầu ra và thuận theo, thì họ vẫn được coi là vị vua chính thống.

Loại thứ tư, là mô hình quân chủ Spac, chỉ xảy ra trong thời đại Anh hùng. Các nhà vua cũng cha truyền con nối và được xem là hợp pháp vì được thần dân chấp nhận. Nhà vua đầu tiên của triều đại được xem là người có công của nhân dân nhờ vào tài quân sự. Những vị vua này hoặc quy tụ nhân dân vào trong một lãnh thổ, hoặc chiếm đoạt thêm được đất đai cho họ; và như vậy được nhân dân tôn sùng lên làm vua và quyền lực được truyền tử lưu tôn. Những vị vua này là những nguyên soái trong chiến tranh, người chủ tọa trong những nghi lễ tế tự, và là quan tòa xử kiện khi có kiện tụng. Trong thời cổ quyền lực của vị vua này bao trùm lên vạn vật và muôn dân trong lãnh thổ, nhưng dần dà vị vua này bỏ một số đặc quyền và giao lại cho nhân dân, đến nỗi tại nhiều nước khác đặc quyền của nhà vua chỉ còn lại là vai trò thống soái khi đem quân đi viễn chinh.

Nhưng cũng còn một loại số 5 khác hẳn với 4 loại trên. Nhà vua trong loại này có quyền lực tuyệt đối trên thần dân của mình ở mọi vấn đề công cộng. Loại này cũng tương tự như vai trò của người gia trưởng có thẩm quyền tuyệt đối trên gia đình. Vì người gia trưởng được xem như là vua của gia đình, thì nhà vua cũng được xem là trưởng tộc của bộ lạc, quốc gia hay của nhiều nước khác.

Như vậy, Arixtot đã phân tích 5 loại hình quân chủ, trong đó có 4 loại thì quyền lực của nhà vua bị hạn chế, hoặc chỉ có những vai trò nhất định, có những quyền hạn nhất định đối với đất nước của mình. Còn riêng loại hình thứ 5, được xem là chế độ quân chủ tuyệt đối, nghĩa là nhà vua có quyền lực trên mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia. Nếu xét theo cách phân chia này ta thấy các quôc gia phong kiến Phương Đông đa số là theo hình thức nhà nước quân chủ tuyệt đối mà Arixtot đã nêu lên trên đây. Ở các quốc gia phương Đông, vua được xem là chúa tể, là thiên tử, nghĩa là vua được xem là con trời, có quyền lực tối đa, mọi lời nói chỉ thỉ của nhà vua đều được xem như một mệnh lệnh tối cao, xét xử mọi vấn đề trong quốc gia. Vua có quyền lực tuyệt đối, vua cho thần dân sống mới được sống, vua bắt chết phải chết. Đây chính là mẫu hình của chế độ quân chủ tuyệt đối mà Arixtot đã đưa ra.

Liên quan đến việc phân chia này, Arixtot còn đặt ra vấn đề giữa việc tuân theo pháp luật và việc một người tài đức lãnh đạo đất nước điều nào sẽ có lợi cho quốc gia hơn, đồng thời xác định xem chế độ quân chủ nào là hợp lý.

Arixtot cho rằng, pháp luật là khuôn mẫu, nhưng nó cũng không thể giải quyết hết những sự việc mới phát sinh, nhỏ bé hoặc những vấn đề ngoài điều pháp luật quy định, cho nên cũng cần phải có một con người tài đức để vận dụng pháp luật giải quyết những vấn đề đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có một con người lãnh đạo cũng có hạn chế, ở chỗ con người giải quyết rất có thể đem tình cảm lấn át lý trí, khi đó việc xử lý công việc sẽ thiên vị và thiếu chính xác, cho nên để một cá nhân con người lãnh đạo cũng chưa hẳn là đã tốt. Chính vì vậy, Arixtot cho rằng chế độ quân chủ tốt nhất phải là chế độ kết hợp giữa nhân trị - người có tài đức lãnh đạo đất nước với nhà nước có sự tồn tại của pháp luật.

Arixtot cho rằng “thật là rõ ràng, khi tìm kiếm công lý, người ta cần có một thẩm quyền trung lập để phán xét. Và thẩm quyền đó chính là luật pháp” [1,201]. Tuy nhiên, “cũng trong một số trường hợp khác nhau không thể bao hết trong luật pháp, và không thể phủ nhận được là trong những trường hợp như vậy cần phải có sự quyết định của con người. Nhưng điều cần phải tranh luận là những vấn đề như vậy do nhiều người chứ không phải một người quyết định” [1,202]. Bởi vì, theo Arixtot, một người với một đôi mắt, hai tay, hai chân sẽ không nhìn rõ hơn, làm hay hơn với nhiều người, có nhiều tai mắt và tay chân hơn. Và như thế, “nhà vua sẽ cần có nhiều đồng sự hơn, vừa là bạn của mình, vừa am hiểu pháp luật” [1,203] Chính vì vậy, chế độ quân chủ tốt nhất phải là chế độ quân chủ trung dung giữa việc cai trị của nhà vua bằng luật pháp cùng với hệ thống đồng sự tài giỏi của nhà vua, dĩ nhiên nhà vua sẽ phải là người có đức hạnh và tài năng nhất.

Hai là chế độ dân chủ:

Arixtot đã phân chia chế độ dân chủ thành 5 loại khác nhau: đầu tiên phải kể đến mô hình dựa trên sự bình đẳng. Bình đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa, “người nghèo không được có những lợi thế hơn người giàu; và không có bên nào thống trị bên nào, mà cả hai đều bình đẳng như nhau” [1,220]

Một loại chế độ dân chủ nữa, đó là “chế độ mà những quan chức được bầu ra theo một tiêu chuẩn tối thiểu về tài sản; bất cứ ai có đủ tài sản theo yêu cầu đều có quyền tham gia chính sự, nhưng nếu mất đi tài sản thì cũng mất luôn quyền này”.

Một loại khác nữa là “chế độ mà mọi công dân có cha mẹ cũng là công dân có hạnh kiểm tốt được tham gia chính sự”. Loại thứ năm, gần giống với loại thứ tư, đó là cứ ai làm công dân đều được quyền tham gia chính sự. Ở trong cả hai loại này, Arixtot cho rằng pháp luật vẫn là tối thượng.

Loại dân chủ thứ năm là chế độ cũng giống như loại trên, nhưng ý chí của đa số nhân dân mới là tối thượng và có thể thay đổi chế độ bằng những tuyên cáo. Theo Arixtot, đây “là trường hợp của chế độ do những kẻ mị dân xướng xuất. Trong trường hợp này, toàn thể nhân dân trở thành vị quân vương tập thể, và vì thế nắm toàn quyền một cách tập thể” [1,221]

Cách phân chia các loại hình nhà nước dân chủ của Arixtot có tính tiêu cực và hạn chế. Hạn chế ở chỗ, ông xem dân chủ như một sự cào bằng, một con số trung bình cộng cho các yếu tố thuộc về những người nghèo. Hơn nữa, dân chủ theo Arixtot, còn là sự thái hóa của các quyền bình đẳng giữa các cá nhân trong cộng đồng, sự thái hóa ở chỗ: không xét đến những vấn đề như tài năng, đức hạnh mà chỉ cần xét tài sản của cá nhân ở mức độ nào đó, và đó là cách để đảm bảo cho cá nhân có quyền tham gia các hoạt động chính trị (như cách phân chia thứ hai), sự thái hóa còn ở chỗ nó cổ vũ cho những hoạt động vô chính phủ, vô nguyên tắc trong đời sống chính trị. Không thể có một quốc gia ổn định, nếu như mọi công dân đều tùy ý mình làm, nó cổ vũ cho căn bệnh “số đông” lấn án pháp luật, làm hỏng nhà nước và pháp luật. Số đông chưa hẳn đã chính xác, hơn nữa cái nguy hiểm ở chế độ dân chủ theo cách hiểu của Arixtot lại là ở chỗ, nó có thể xây dựng và cũng có thể hủy bỏ pháp luật của nhà nước theo ý kiến của số đông (như loại dân chủ thứ 5). Loại hình dân chủ này, còn nguy hiểm hơn rất nhiều so với chế độ bạo quân. Bởi bạo quân còn có vương thất xem xét các quyết định của nhà vua, chế độ dân chủ theo số đông còn nguy hại hơn rất nhiều, nó có thể tạo ra những cơn sóng làm hỏng đi nhà nước, theo ngôn ngữ hiện nay – đó là dân chủ vô chính phủ.

Hạn chế của các loại hình này còn ở chỗ, nó thiếu đi sự lãnh đạo tập trung của một nhóm người có địa vị, có năng lực lãnh đạo đất nước và có đức hạnh cũng như trình độ để đánh giá những quyết định của đa số dân chúng trong các hội nghị cũng như khi đưa ra các quyết nghị.

Với những lý do đó ta hiểu tại sao Arixtot lại cho chế độ dân chủ là hình thức hủ bại của các loại hình thức nhà nước, nó tồn tại nhiều hạn chế và cần phải được một chế độ hoàn thiện hơn.

Mặc dầu vậy, theo cách hiểu của Arixtot, dân chủ với 5 mô hình khác nhau đó, cũng giúp ta hiểu được những điều kiện, tiêu chí để xác định chế độ dân chủ: trước hết là số đông, tiếp đến là có tài sản ở mức độ nhất định, có cha mẹ là công dân và bản thân cũng là công dân… từng đó tiêu chí mới hội tụ được chế độ dân chủ, thông qua những tiêu chí này ta hiểu được nội hàm của thuật ngữ “dân chủ” mà Arixtot diễn đạt. Tuy có hạn chế, song ta hiểu nội hàm nguyên sơ của thuật ngữ này trong ngôn ngữ chính trị của Phương Tây hiện đại, sau này các nhà triết học, chính trị phương Tây đã cải biến và sử dụng thuật ngữ này một cách chính xác hơn.

Ba là, chế độ quả đầu

Theo Arixtot mặc dầu chế độ quả đầu là chế độ được xây dựng từ cơ sở là tài sản, nhưng chế độ quả đầu cũng có nhiều loại khác nhau.

Loại thứ nhất đòi hỏi phải có tài sản ở mức độ cao để cho người nghèo dù là đa số cũng không được tham gia chính trị, còn ai đủ điều kiện tiêu chuẩn này thì sẽ được dự phần.

Loại thứ hai cũng theo tài sản nhưng ở mức độ cao hơn và chỉ những ai ở mức độ này mới được tham dự tuyển chọn vào những chức vụ đang thiếu. Nếu ở chế độ quý tộc lựa chọn quan chức dựa trên tài năng thì đó là chế độ quý tộc, còn nếu dựa trên đặc quyền, thì đó là quả đầu.

Loại thứ ba là cha truyền con nối. Loại thứ tư cũng là cha truyền con nối, nhưng quan chức có quyền tối thượng chứ không phải là luật pháp. Trong các loại chế độ này thì loại thứ 4 giống như chế độ bạo chúa trong chế độ quân chủ và giống như loại dân chủ số đông cuối cùng của chế độ dân chủ.

Bốn là chế độ bạo chúa

Khi bàn về chế độ bạo chúa Arixtot cũng bàn về 3 mô hình bạo chúa.

Trước hết là 2 mô hình bạo chúa do luật pháp tạo nên, và như thế vẫn được xem là chế độ quân chủ. Trong số những sắc dân kém văn minh họ cũng bầu ra những vị quân vương với quyền lực tuyệt đối (theo luật pháp của họ); loại thứ hai là những vị vua thời cổ Hy Lạp được dân bầu ra được gọi là Nhà Độc tài. Những vị vua này khi so sánh với nhau cũng có một số điểm khác biệt. Ta phải xem họ là Quân Vương khi họ còn cai trị theo pháp luật; và là một bạo chúa nếu cai trị độc tài và theo ý riêng của mình – ta có thể gọi là chế độ bán quân chủ - bán độc tài.

Còn một loại thứ 3 nữa là loại tiêu biểu nhất và đối nghịch hoàn toàn với chế độ quân chủ chân chính. Vị bạo chúa trong chế độ này tùy tiện sử dụng quyền lực của mình trên muôn dân chỉ nhằm phục vụ quyền lợi cho riêng mình và đi ngược lại lòng dân. Không có một người dân tự do nào lại chịu sống dưới một chế độ như vậy.



Năm là chế độ quý tộc

Theo Arixtot, “từ ngữ “quý tộc” là từ ngữ dùng đúng đắn để chỉ loại chính quyền mà chúng ta mô tả, một chế độ được gọi là quý tộc một cách đúng đắn nếu đó là một chế độ điều hành bởi những người tài đức nhất, hiểu theo nghĩa tuyệt đối (cả về tài cũng như đức), chứ không phải chỉ là những người tài giỏi theo một tiêu chuẩn nào đó” [1,227].

Chế độ quý tộc cũng được phân chia thành nhiều loại khác nhau, tuy nhiên Arixtot cũng không phân tích kỹ những loại quý tộc này, theo đó ông phân chia quý tộc thành:

Quý tộc hoàn hảo đó là loại quý tộc được xây dựng từ đức hạnh, tài năng, và tài sản. Đây là loại quý tộc hoàn hảo nhất.

Loại thứ hai là loại quý tộc theo chế độ ở Carthage, được xây dựng trên các yếu tố như tài sản, đức hạnh và số đông.

Loại quý tộc thứ ba, là loại quý tộc của thành Spac, bao gồm những người có các yếu tố có sự kết hợp của chế độ dân chủ và đức hạnh trung hòa lẫn nhau, đó là chế độ hỗn hợp giữa dân chủ và quý tộc.

Loại quý tộc thứ tư, trong đó hiến pháp nghiêng hẳn về phía quả đầu nhiều hơn, trong đó chính quyền theo hiến pháp nhưng không chú trọng đến số đông mà chú ý đến đức hạnh nhiều hơn.

Sáu là chế độ hiến định

Chế độ hiến định là sự trung dung của hai chế độ dân chủ và quả đầu, cho nên việc phân chia các loại thuộc chế độ hiến định cũng có nhiều cách khác nhau. Arixtot cho rằng, chế độ hiến định có thể được thiết lập bằng những phương án, cách thức sau:

Loại thứ nhất, chế độ hiến định sử dụng những phần tử giống nhau của cả hai bên hay phần tử ở giữa, đây là sự kết hợp thể hiện đặc tính chung của chính quyền hiến định. Phần tử giống nhau giữa hai bên là phần tử không quá giàu có, cũng không hẳn quá nghèo, đó chính là phần tử trung lưu trong xã hội, không thiên vị bên giàu cũng không thiên vị bên nghèo.

Loại hiến định thứ hai là loại trung bình cộng của hai bên: chế độ dân chủ không đòi hỏi thành viên quốc hội phải có nhiều tài sản hay ít tài sản, còn quả đầu lại đòi hỏi thành viên quốc hội phải có nhiều tài sản. Trong trường hợp này không có tiêu chuẩn chung, nhưng số trung bình cộng sẽ là một số chung cho cả hai bên.

Loại hiến định thứ ba là loại hiến định mượn một số nguyên tắc của chế độ dân chủ và một số nguyên tắc của chế độ quả đầu, chẳng hạn như nguyên tắc bộ nhiệm quan chức bằng cách bốc thăm là phương thức của dân chủ và nguyên tắc bầu cử là phương thức của quả đầu.

Loại hiến định cuối cùng là loại trung bình cộng của hai cực đại của cả hai chế độ quả đầu và dân chủ, gọi theo tên gọi nào cũng đúng. Chế độ Spac là một ví dụ, Spac thường được gọi là chế độ dân chủ vì có những đặc tính của đặc tính dân chủ. Nhưng Spac cũng được gọi là chế độ quả đầu vì nó cũng có nhiều đặc tính của chế độ quả đầu. Đó là bốn loại hiến định được Arixtot nêu trong tác phẩm.

Như vậy, với các loại hình nhà nước cơ bản Arixtot đã chỉ ra nhiều dạng khác nhau tồn tại song hành với nhau, việc phân chia các loại này đã giúp người đọc hiểu hơn những dạng thức khác nhau trong một chế độ. Tuy nhiên, việc phân chia đó chỉ có tính chất tương đối mà thôi. Tính chất tương đối thể hiện ở chỗ, mọi loại hình nhà nước lại có những mô dạng gần giống hoặc có liên hệ mật thiết với những mô dạng của loại hình khác, và có thể coi đó là sự biến thể của các loại hình nhà nước.

Thông qua việc phân tích 6 loại hình nhà nước với tổng 26 mô dạng nhà nước khác nhau đã cho thấy Arixtot có sự quan sát khá tỉ mỉ và cụ thể. Đồng thời, thông qua chỉ ra các mô hình này Arixtot còn cho thấy sự biến thể hay những mối liên hệ gắn bó gần gũi giữa các loại hình nhà nước với nhau. Trong mỗi một loại hình nhà nước bên cạnh những mô hình đặc thù còn có những mô hình tương đối gần gũi với nhau, thậm chí chỉ cần pháp luật và sự cai trị có thay đổi một chút thì có thể dẫn đến sự thay đổi từ mô hình này sang mô hình khác một cách dễ dàng.

Ta sẽ chứng minh các mối quan hệ như sau:

Trước hết ở chế độ Hiến định, chế độ này nhận biết dễ dàng nhất có sự tổng hợp của cả hai chế độ dân chủ và quả đầu. Mô dạng đặc trưng nhất của chế độ hiến định là mô dạng lấy phần tử ở giữa của cả 2 bên dân chủ và quả đầu, thế nhưng, ở những mô dạng khác như lấy trung bình cộng, mượn nguyên tắc của 2 bên hay mô dạng sự kết hợp của 2 bên mà lấy tên nào cũng đúng thì ở đó chế độ hiến định lại giống với chế độ dân chủ và chế độ quả đầu, thậm chí có mô hình mà gọi tên là dân chủ cũng đúng hoặc là quả đầu cũng đúng, đây chính là mối quan hệ gần gũi giữa chế độ hiến định với chế độ dân chủ và quả đầu. Chính vì vậy, “Sự kết hợp của hai giai cấp giàu – nghèo sẽ tạo nên chế độ được gọi là hiến định. Còn nếu có sự kết hợp của cả 3 yếu tố (giữa số đông của dân chủ, của cải tài sản của chế độ quả đầu và đức hạnh của chế độ quý tộc) thì sẽ tạo nên chế độ được gọi là quý tộc” ([1,230]

Chế độ quân chủ với mô dạng đặc thù là việc quân vương hành xử theo pháp luật dù theo nhiệm kỳ hay tại vị vĩnh viễn. Thế nhưng, loại hình quân chủ cũng chứa đựng mô dạng khác biệt mà gần gũi với chế độ bạo chúa. Đó là mô hình quân chủ tuyệt đối, hành xử hoàn toàn theo ý riêng của mình, giống với cách ứng xử của nhà độc tài hành động vì bản thân và vương thất.

Chế độ dân chủ với đặc trưng là mô dạng bình đẳng, tự do hay công bằng, tuy nhiên nó vẫn chứa đựng một dạng thức khác với bản chất dân chủ, nó gần gũi với chế độ quân chủ hay bạo quân. Dân chủ gần với quân chủ ở chỗ, dân chủ có mô dạng là quyền lực thuộc về đa số nhân dân và có quyền thay đổi pháp luật, gần với chế độ quân chủ tuyệt đối khi người lãnh đạo có thể tự quyết định pháp luật và thay đổi pháp luật theo ý kiến riêng của mình một cách vô chính phủ, “trong trường hợp này, toàn thể nhân dân trở thành vị quân vương tập thể, và vì thế nắm toàn quyền một cách tập thể” [1,221]. Chế độ dân chủ của đa số này cũng gần với chế độ bạo quân khi cả tập thể dân chủ theo số đông không còn tuân theo pháp luật nữa mà chỉ thích theo ý của nhà vua, và rơi vào tình trạng độc tài của một bạo quân (bạo quân tập thể” [1,222]

Chế độ quả đầu có những dạng mô thức gần gũi với chế độ bạo chúa và quân chủ, cũng như dân chủ. Trong các loại chế độ quả đầu này thì loại thứ 4, tức là loại mô hình cha truyền con nối, nhưng quan chức có quyền tối thượng chứ không phải là luật pháp, lại giống như chế độ bạo chúa trong chế độ quân chủ và giống như loại dân chủ số đông cuối cùng của chế độ dân chủ. Giống với mô hình quân chủ và bạo chúa ở chỗ, các mô hình này người lãnh đạo đều làm theo ý mình,và có hình thức cha truyền con nối. Còn quả đầu cũng giống với chế độ dân chủ là tập thể có quyền tối ưu chứ không phải là luật pháp.

Chế độ bạo chúa lại có mô dạng gần gũi với chế độ quân chủ. Chế độ bạo chúa có mô hình là vị vua được lập nên theo quy định của pháp luật, điều này giống với quân chủ. Ngược lại quân chủ cũng giống với bạo chúa nếu vị vua hành xử theo ý riêng của mình.

Cuối cùng, chế độ quý tộc gần gũi với chế độ quả đầu khi chế độ quý tộc có quy định tài sản và số lượng gần với quy định của chế độ quả đầu chỉ dành riêng cho thiểu số giàu có. Ông viết: “tất cả những chính quyền quý tộc đều có khuynh hướng nghiêng sang quả đầu, do đó cũng có khuynh hướng tóm thâu thêm quyền lực và tài sản” [1,286]. Điều này không thể xảy ra với chế độ dân chủ hay quý tộc được tổ chức theo hướng đúng đắn và cân bằng.

Như vậy, việc phân chia các loại mô dạng khác nhau của các loại hình nhà nước chỉ có tính chất tương đối, và cũng vì vậy, Arixtot cho rằng các chế độ này rất dễ có khả năng biến thể sang chế độ khác giống với những quy định của chế độ đó. Sự thay đổi diễn ra khi các quy định của chế độ này được thay đổi sẽ biến thể sang một dạng khác của nhà nước. Đây cũng là kết luận mà Arixtot khi phân tích các chế độ đã tồn tại, ông cho rằng sự biến thể giữa các chế độ đó là “vì một cơ thể gồm nhiều phần tử tạo thành và mỗi phần tử khi phát triển cũng phải tương ứng với nhau để giữ được tính cân đối của toàn thể, nếu không cả tập thể sẽ bị sụp đổ như bàn chân dài ra bốn mươi phân mà cơ thể chỉ có hai gang tay. Nếu sự gia tăng bất bình thường, kể cả phẩm cũng như lượng, cứ tiếp tục, thì cơ thể đó sẽ trở thành một cái gì đó khác hẳn” [1,269]. Cái sự gia tăng bất thường đó chính là những quy định của các chế độ, nếu thay đổi một chút thì chế độ đó không hẳn là chế độ cũ nữa mà nó có thể biến thành một chế độ nào đó khác hơn.

Như vậy, chúng ta đã đi khảo sát được phần lớn những vấn đề liên quan đến nhà nước được Arixtot mô tả trong tác phẩm, chẳng hạn như trả lời được câu hỏi hình thức nhà nước là gì, bản chất của các loại cũng như phân tích được các dạng khác nhau của từng loại. Vấn đề quan trọng hàng đầu đối với chúng ta hiện nay là phải chứng minh được trong những loại hình nhà nước đó, đâu là loại chính quyền lý tưởng nhất, từ đó chỉ ra những điều kiện để xây dựng một quốc gia lý tưởng.

2.3. Mô hình nhà nước lý tưởng

Sau khi đã phân tích đầy đủ các đặc điểm, bản chất cũng như các dạng phát triển khác nhau của các loại hình nhà nước, chúng ta sẽ đi đến vấn đề trọng tâm trong khóa luận cũng như của tác phẩm. Đó là việc tìm hiểu đâu là mô hình lý tưởng nhất được Arixtot bàn đến trong tác phẩm.

2.3.1 Nhà nước lý tưởng

Khi nói về mô hình nhà nước lý tưởng, ta quay lại tác phẩm “Nền cộng hòa” của Platon, xem Platon xác định đâu là mô hình lý tưởng nhất để từ đó ta nghiên cứu liệu rằng Arixtot có chung quan điểm với thầy giáo của mình hay không? Hay là ta có thể thấy được bước ngoạt, sự nhảy vọt khác hẳn của Arixtot đối với vị thầy của mình. Xem xét Arixtot đi tìm con đường lý tưởng nhất bằng những phương pháp gì và thực hiện con đường loại trừ đó như thế nào để đi đến một chế độ lý tưởng nhất.

Platon cũng phân tích khá chi tiết những chế độ đã có trong lịch sử, theo Platon, “chính thể xuất hiện từ trước đến giờ có thể tóm gọn trong 5 loại, tiêu biểu là quý tộc, tài bản, dân chủ, chuyên chế hoặc độc tài” [25,49]. "Nếu trong thành quốc, thể chế chính trị do thành phần hung hăng chiếm ưu thế, biểu lộ tinh thần hiếu chiến, nôn nóng, tham vọng thì đó là chính thể tài bản. Nếu chính quyền xây dựng trên nền tảng là sự ham muốn giàu có và căn cứ vào khả năng tài chính chính là bản chất của chế độ quả đầu, tạo ra sự cách biệt khá lớn giữa người giàu và người nghèo trong xã hội, đây là con đẻ của thể chế tài bản khi người ta không tham danh vọng nữa mà chuyển sang kẻ say sưa theo đuổi lợi lộc, lúc đó chính là thể chế quả đầu. Chính vì sự ham muốn giàu có đã đẩy bộ phận xã hội còn lại trở thành giai cấp nghèo mạt rệp, cuối cùng giai cấp này vùng lên, tống cổ giai cấp giàu có, thiết lập chế độ bình đẳng giữa mọi người. Đó là thể chế dân chủ. Khi người ta đam mê tự do quá chỡn, làm xuất hiện những con người có xu hướng chuyên chế, loi kéo dưới trướng trở thành áp đảo, hình thành những vị vua thèm muốn đủ thứ, sẵn sàng thỏa mãn mọi nhục vọng bất kể vi phạm quan hệ tự nhiên. Xảo trá, bất công, vô đạo chính là vị vua chuyên chế. Đó cũng là thể chế chuyên chế” [25,50]. Từ đó cũng hình thành những con người ham muốn một trật tự hợp lý và đưa mọi thứ vào khuôn khổ của những quy định pháp luật, chính vì vậy hình thành nên thể chế quý tộc.

Từ đó, Platon kết luận rằng, “thành quốc quý tộc hiển nhiên là thành quốc đạo đức, hạnh phúc hơn hết, đối lập với chế độ đó thì chế độ chuyên chế là thành quốc đau khổ, tồi tệ nhất hạng” [25,50]. Và vì vậy, Platon cho rằng mẫu người quý tộc cũng là mẫu hình tốt nhất trong lịch sử nhân loại, và chế độ quý tộc cũng là chế độ mà Platon gọi là lý tưởng “song có lẽ thành quốc đó tồn tại như mô hình trên trời, nơi ai muốn cũng có thể quan sát và xây dựng trong tâm hồn. Thành quốc đó có tồn tại hay sẽ tồn tại, sự thể không hề khác biệt, vấn đề không đáng quan tâm. Bởi đây là thành quốc duy nhất người đó (quý tộc) có thể `tham gia sinh hoạt chính trị, không phải thành quốc nào khác”. [25,656]

Đó là toàn bộ những gì mà Platon đã miêu tả khi nói về mô hình nhà nước lý tưởng trong tác phẩm “Nền cộng hòa” của mình. Khác Arixtot ở chỗ, Platon chỉ phân chia thành 5 loại hình nhà nước và coi chế độ quý tộc là chế độ lý tưởng nhất, ông cổ vũ cho chế độ này. Còn Arixtot, ông đã chia và phân loại rõ 6 loại hình nhà nước và Arixtot cũng nói đến chế độ quý tộc. Nhưng liệu Arixtot có cùng quan niệm với thầy giáo của mình hay không khi cho rằng quý tộc là chế độ tốt đẹp nhất? Tất cả điều đó đều được Arixtot chứng minh trong tác phẩm “Chính trị luận” này.

Để thực hiện nhiệm vụ của mình, Arixtot đã phân tích và phê phán quan điểm của Platon như ở phần trước ta đã phân tích, và công việc tiếp theo là phân tích và đánh giá xem chế độ nào là hợp lý và từ đó ông mới đưa ra mô hình nhà nước lý tưởng.

Trước hết, Arixtot đi chứng minh các loại chính quyền không hợp lý bằng cách chỉ ra hạn chế tồn tại trong các loại hình này.

Chế độ quân chủ, Arixtot đã chứng minh rằng, trong một nước, người tài đức duy nhất phải là nhà lập pháp, và phải có một hệ thống pháp luật… thế nhưng quốc gia gồm nhiều cá nhân tụ họp lại, và cũng như một bữa tiệc khi tất cả mọi người khách đều đóng ghóp mỗi người một món, thì bữa tiệc đó phải phong phú hơn bữa tiệc do một người khoản đãi. Như vậy thì đa số người xét xử hay hơn bất cứ một cá nhân nào về nhiều phương diện. Thêm nữa, đa số khó lòng bị hủ hóa hơn là một thiểu số cũng như một khối lượng lớn nước sẽ khó bị làm vẩn đục hơn một chút nước trong ly. Một cá nhân sẽ dễ dàng bị sự nóng giận hay những cảm xúc khác chi phối làm cho sự phán đoán sẽ bị thiên lệch. Như vậy, “nếu ta gọi chế độ do nhiều người cai trị là chế độ ưu tú, và chế độ do một người cai trị là quân chủ, thì ta thấy chế độ nhiều người cai trị sẽ tốt hơn chế độ quân chủ, dù chế độ quân chủ có do sức mạnh quân sự tạo nên hay không” [1,197]. Như vậy, chế độ quân chủ chưa thể trở thành một chế độ tốt đẹp nhất và lý tưởng để thực hiện được.

Chế độ dân chủ, loại hình chế độ sai chắc chắn không thể trở thành mô hình nhà nước lý tưởng được. Chế độ dân chủ là chế độ chỉ chú ý đến lợi ích của đa số người nghèo. Hơn nữa, theo Arixtot, trong chế độ dân chủ cũng chỉ có một bộ phận được dự vào chính sự, hoặc chỉ có một phần nào đó mà thôi. Bởi vì khi giai cấp nông nô và trung lưu như chế độ dân chủ, thì chế độ đó vận hành theo luật pháp. Lý do là vì những người mà phải sống nhờ vào sức lao động là những người không có thì giờ nhàn rỗi để lo chuyện chính trị, họ phải lập pháp quyền và chỉ tham dự khi nào cần thiết mà thôi. Nhưng vì còn phải làm lụng kiếm sống, những người này không có thì giờ nhàn rỗi để lo chính sự, luật pháp vẫn là tối thượng. Tuy nhiên, đó là đặc tính của các loại dân chủ đầu đã phân tích, còn loại dân chủ cuối cùng theo đa số có thể thay đổi cả pháp luật theo ý kiến của số đông. Đây là loại dân chủ, theo Arixtot “được hình thành sau cùng trong lịch sử hình thành quốc gia. Khi quốc gia đã lớn mạnh hơn nhiều so với thời lập quốc và nguồn thu nhập đã gia tăng, thì mọi công dân đều dự phần vào chính quyền nhờ vào ưu thế của đại chúng, và tất cả mọi người, kể cả người nghèo đều có lương, thì người nghèo lại càng có nhiều thì giờ rảnh rỗi nhất, vì họ không phải bận tâm lo cho của cải của họ. Mỗi bận tâm này khiến cho người giàu bị cản trở không thể tham gia vào nghị viện hay tòa án. Chính vì thế mà nhà nước do người nghèo, tức thành phần đa số cai trị, chứ không còn là do pháp luật cai trị nữa” [1,225]. Vì vậy, chế độ dân chủ không thể trở thành một mô hình nhà nước lý tưởng được.

Chế độ quả đầu cũng tương tự như chế độ dân chủ, đó là mô hình nhà nước hủ bại chỉ vì lo đến lợi ích của thiểu số người giàu có trong xã hội, khi quyền lực nằm trong tay của một nhóm giàu có thì quyền lợi của nhóm xã hội này cũng được bảo vệ nhiều hơn, người nghèo sẽ không có cơ hội tham gia chính quyền của quốc gia. Hơn nữa, Arixtot đã phân tích sự ra đời của các loại chế độ quả đầu để chứng minh chế độ này là chế độ do người cai trị chứ không còn là luật pháp cai trị nữa. Ông nói “Còn về chế độ quả đầu, một loại gồm có đa số công dân là những người có một ít của cải. Loại này cho phép bất cứ ai có số tài sản yêu cầu được tham gia chính sự. Vì số tài sản không nhiều nên đa số được dự phần vào chính sự, và vì thế, luật pháp được dùng để cai trị chứ không phải là con người cai trị. Nhưng nếu chỉ có ít người có tài sản mà làm chủ nhiều tai sản hơn, một mô hình quả đầu thứ hai được hình thành. Khi giai cấp này càng ngày càng lớn mạnh thì lại càng muốn có nhiều quyền hành, và như thế họ tự cho mình cái quyền lựa chọn cho mình những người thuộc giai cấp khác tham gia vào chính quyền. Nhưng vì chưa đủ mạnh để cai trị mà không cần pháp luật, giai cấp này tạo ra luật lệ thay cho ý muốn của họ. Khi con số người giàu ngày càng ít đi nhưng họ càng ngày càng giầu hơn thì mô hình quả đầu thứ ba được ra đời: trong mô hình này thành phần cai trị nắm giữ các chức vụ và ban hành luật “cha truyền con nối”. Chưa hết, khi kẻ cầm quyền có tài sản vĩ đại và vô số bạn bè, thì kiểu độc tài gia đình này sẽ dẫn đến chế độ quân chủ: chính quyền do người cai trị chứ không còn do pháp trị nữa” [1,226]. Do đó, chế độ quả đầu không thể nào là chế độ lý tưởng được.

Ta sẽ xét loại chế độ hủ bại cuối cùng nữa, đó là chế độ bạo chúa. Cũng giống như chế độ dân chủ và quả đầu, chế độ bạo chúa cũng chỉ phục vụ cho lợi ích của một ít người, đó là vị vua và vương thất. Hơn nữa, “vị bạo chúa trong chế độ này tùy tiện sử dụng quyền lực của mình trên muôn dân chỉ nhằm phục vụ cho quyền lợi riêng của mình và đi ngược lại lòng dân”. Vì vậy, chế độ này không bao giờ trở thành chế độ lý tưởng ở mọi nơi được.

Chế độ quý tộc là chế độ dành cho người tài giỏi đức hạnh và số đông giàu có như trên ta đã phân tích. Tuy nhiên theo Arixtot, nếu như ở Platon, chế độ quý tộc là chế độ tốt đẹp lý tưởng nhất thì ở đây, Arixtot cho rằng “đó là một mô hình nhà nước chỉ có ở trong mơ, chế độ quý tộc là một chế độ hoặc là vượt quá tầm với của một số nước lớn, hoặc là đã pha trộn để trở thành một chế độ theo hiến pháp” [1,235]. Chế độ quý tộc có những tiêu chuẩn đức hạnh quá tầm tay với của những người thường, nó đòi hỏi người ta phải có năng khiếu đặc biệt mới theo đuổi được. Chính vì vậy, chế độ quý tộc không thể trở thành chế độ lý tưởng như Platon đã xây dựng được.

Những chế độ ta vừa phân tích hoặc là quá tốt khó vươn tới, hoặc là chế độ hủ bại càng không thể thực hiện được, cho nên không thể chọn được trong những mô hình nhà nước đó làm tiêu chuẩn để xây dựng lý tưởng. Chính vì những thái cực đối lập nhau như vậy, Arixtot đã cho rằng cần phải có cùng một nguyên tắc. “Nếu ta công nhận những điều được bàn tới trong cuốn Đạo đức là đúng: (1). Một đời sống hạnh phúc là một đời sống theo đức hạnh và có đủ phương tiện vật chất để sinh sống, và (2), đức hạnh là một số trung bình cộng hay sự trung dung, thì đời sống trung dung và có số trung bình mà ai cũng có thể đạt được, phải là đời sống tốt đẹp” [1,235]. Điều này có nghĩa rằng, “Sự trung dung và trung bình là điều tốt nhất”.

Từ nguyên tắc đó, Arixtot đi phân tích chế độ tốt đẹp nhất, lý tưởng nhất. Trong một quốc gia, bao giờ cũng có 3 phần tử: một phần tử thì rất giàu, một phần tử lại rất nghèo, và giai cấp thứ ba ở giữa. Loại thành phần thứ nhất sẽ có khuynh hướng dùng đến bạo lực và trở thành những kẻ phạm đại tội, còn loại thứ hai thì dễ trở thành kẻ lưu manh và phạm các tội lặt vặt.

Những kẻ giàu có khi có quá nhiều thứ may mắn, sức khỏe, tài sản… thì lại là những kẻ không sẵn lòng phục vụ quyền uy, hoặc không biết phục tong như thế nào. Sự sấu xa này bắt nguồn từ gia đình, vì khi còn là trẻ con sống trong xa hoa, họ chưa bao giờ học, ngay cả học trong lớp, thói quen vâng lời. Mặt khác, con nhà nghèo, theo Arixtot lại nằm ở phía đối nghịch, và trở thành những kẻ hạ tiện để người khác sai khiến.

Thành thử có một giai cấp không biết vâng lời và chỉ có thể cai trị độc đoán, và một giai cấp không biết cai trị là gì mà chỉ biết vâng lời và tuân phục như nô lệ. Cho nên, “kết quả là ta có một nước không phải của những người tự do mà là một nước của chủ nhân và nô lệ, bên này thì khinh bỉ bên kia, còn bên kia thì đố kỵ bên này. Và đây là điều cực kỳ nguy hiểm cho tình thân hữu và nghĩa đồng bào trong một nước” [1,237].

Chính vì những lý do đó, trong một nước không thể để cho người quá giàu hay quá nghèo làm người quản lý đất nước. “Một quốc gia nên được xây dựng và tạo thành bởi càng nhiều người dân bình đẳng và tương đồng càng tốt, và thành phần này đa số nằm trong giai cấp trung lưu”. [1,237]

Tới đây, ta đã hiểu được chế độ hợp lý nhất phải là chế độ mà trong đó giai cấp trung lưu là người cai trị, đó chính là chế độ Hiến định, chế độ trung dung. Arixtot cũng đã phân tích những ưu thế của chế độ mà trong đó người trung lưu làm người cai trị, “một nước mà được thành lập bởi đa số công dân thuộc thành phần trung lưu chắc chắn phải là một nước có chế độ chính trị tốt nhất bởi vì họ cũng giống như những sợi chỉ dệt thành tấm vải quốc gia”. [1,238]

Thành phần trung lưu là thành phần ổn định và chắc chắn nhất của một nước. Vì họ không như những kẻ nghèo, thèm thuồng tài vật của người khác, mà cũng không ai thèm thuồng của cải thuộc loại thường bậc trung của họ, vì người nghèo thường ham muốn tài vật của người giàu. Họ cũng chẳng thèm âm mưu làm hại lẫn nhau, mà cũng chẳng có ai thèm âm mưu làm hại đén họ, họ sống một đời sống an toàn.

Như thế, ta thấy hiển nhiên là một đời sống chính trị tốt nhất được tạo nên bởi những công dân thuộc giai cấp trung lưu. Một nước được coi là thật may mắn nếu là một nước mà những công dân có tài sản đủ dùng, vì nếu có một số người có quá nhiều tài sản, trong khi đó số còn lại thì không có gì thì sẽ dẫn đến tình trạng dân chủ cực đoan hay quả đầu thuần túy, hay một bạo chúa… còn đối với một chế độ trung dung của người trung lưu thì không thể có một chế độ cực đoan như vậy.

Hơn nữa, người trung lưu thường khó bị chia bè phái hơn là hai giai cấp kia, nước lớn lại vững chắc hơn là nước nghèo, vì nước nghèo hay bị chia bè thành giai cấp giàu và nghèo hơn.

Cũng còn một lý do nữa, hai thành phần giàu và nghèo chống đối lẫn nhau, và bất cứ khi phe nào thắng thế, thay vì thiết lập một chế độ công chính, hay được lòng dân thì lại xem ưu thế chính trị là chiến lợi phẩm để thiết lập chế độ chính trị, dân chủ hay quả đầu theo ý kiến của mình. Hơn thế nữa, cả hai phe mà đã từng chiếm được thượng phong về mặt chính trị thì lại chỉ lo cho quyền lợi của phe mình thông qua thể chế chính trị chứ chẳng thèm để tâm đến quyền lợi chung của cả nước.

Arixtot cũng cho rằng, chế độ trung dung hầu như chưa bao giờ hiện hữu, mà nếu có thì cũng có rất ít. Ông cho rằng trong lịch sử Hy Lạp có duy nhất một người thực thi chế độ này, đó là Tharemanes, một nhà lãnh đạo phái trung dung ở Athen năm 411 TCN.

Từ tất cả những lý do trên, Arixtot đi đến kết luận chế độ Hiến định, trung dung giữa hai giai cấp giàu – nghèo, hai chế độ dân chủ và quả đầu, trở thành chế độ tốt đẹp nhất. Ông nói “ta thấy rõ ràng chế độ nào là chế độ tốt nhất và lý do khiến cho những chế độ này trở thành ưu việt nhất” [1,240]. Và đó cũng là kết luận cho câu hỏi quan trọng nhất trong luận văn nghiên cứu này. Đến đây ta đã thấy được đầy đủ những cơ sở để Arixtot nêu lên quan niệm của mình. Đồng thời, ta cũng thấy được sự khác biệt giữa Arixtot với người thầy của mình là Platon trong việc xác định đâu là mô hình nhà nước lý tưởng nhất. Lý tưởng nhất chứ không phải là không tưởng, mô hình nhà nước phải được thực hiện trong đời sống chứ không phải là chế độ chỉ có ở trong mơ như Platon đã nêu lên khi viết tác phẩm “Nền cộng hòa” của mình.

2.3.2 Đặc điểm cơ cấu bộ máy nhà nước lý tưởng

Sau khi tìm ra được đâu là mô hình nhà nước lý tưởng, tác giả đã nghiên cứu thêm các vấn đề liên quan đến nhà nước lý tưởng từ việc đặc điểm cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành và những biện pháp để xây dựng nhà nước đó.

Về cơ cấu bộ máy nhà nước, Arixtot đã phân tích rất nhiều trong Chương 14, 15 và 16 của Quyển IV. Theo Arixtot, “mọi hiến pháp đều có ba phần tử, nhà lập pháp giỏi phải là người biết lợi thế của mỗi loại hiến pháp là gì. Khi ba phần tử này được sắp xếp khéo léo, thì hiến pháp cũng được thiết lập đúng đắn, còn nếu có sự khác biệt giữa các phần tử này, thì hiến pháp cũng sẽ khác nhau. Phần thứ nhất, chịu trách nhiệm nghiên cứu, thảo luận và quyết nghị về những vấn đề công cộng. Phần thứ hai, là phần tử chịu trách nhiệm về hệ thống viên chức chính quyền – những ai đủ tiêu chuẩn, những giới hạn của thẩm quyền chính trị, và cách thức bộ nhiệm viên chức chính quyền, cuối cùng là bộ phận chịu trách nhiệm về quyền tư pháp” [1,240]

2.3.2.1 Cơ quan nghị quyết

Theo Arixtot, “phần tử hay cơ quan bình nghị có thẩm quyền trên những vấn đề chiến tranh hay hòa bình, liên kết đồng minh, thông qua luật pháp, ấn định tội tử hình hay lưu đày biệt xứ, tịch thu tài sản, bầu cử quan chức, và kiểm soát của quan lại” [1,247].

Quan niệm của Arixtot về cơ quan nghị quyết, hay cơ quan bình nghị chủ yếu vẫn là những chức năng thẩm quyền chỉ trên những lĩnh vực như quân sự, luật pháp, xử kiện, bầu cử quan chức… tuy nhiên, Arixtot chưa nói đến chức năng phát triển hoặc định hướng những mục tiêu chính để phát triển đất nước, trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội của quốc gia. Và như vậy, quan niệm của ông về cơ quan này còn khá đơn giản, nhưng cũng từ ông đặt nền tảng cho việc nghiên cứu các chức năng của cơ quan nghị quyết, hay sau này là Quốc hội trên cả lĩnh vực lý luận cũng như là thực tiễn.

Đối với cơ quan nghị quyết này, cũng có nhiều loại, nguyên do là vì có nhiều chế độ khác nhau, mỗi một chế độ lại có hình thức xây dựng cơ quan nghị quyết khác nhau. Arixtot nêu lên những hình thức xây dựng cơ quan này:

Theo ông, thực chất mà nói, cơ quan nghị quyết có thể được xây dựng theo những cách thức như: quyền lực này thuộc về hết mọi công dân, hoặc chỉ trao lại quyền đó cho một số công dân mà thôi, hoặc một số quyền lực nào đó trao hết cho mọi người, và số còn lại trao cho một số quan chức nào đó.

Để đưa ra cách thức xây dựng cơ quan nghị quyết cho chế độ Hiến định, hay là mô hình nhà nước lý tưởng, ông đã phân tích cách hình thành cơ quan nghị quyết của chế độ khác:



Trong chế độ dân chủ, có bao nhiêu loại chế độ dân chủ cũng tương ứng với bấy nhiêu loại hình thành cơ quan nghị quyết. Có thể cho tất cả mọi người cùng tham gia chính sự, đây là đặc tính của chế độ dân chủ. Nhưng cũng có nhiều cách khác nhau để cho mọi người tham gia chính sự, chẳng hạn: mọi người có thể bình nghị nhưng không cùng một lúc mà thay phiên nhau; hoặc có những hội đồng quan chức thay phiên nhau họp lại để bình nghị; một cách khác đó là toàn thể công dân tham gia họp thành một đại nghị hội nhưng chỉ bầu ra quan chức, thông qua luật pháp, ghóp ý kiến về những vấn đề chiến tranh và hòa bình, và kiểm tra quan chức và một số vấn đề khác do những quan chức chuyên biệt được dân chúng bầu ra đảm trách. Hình thức thứ tư, đó là toàn thể công dân họp, quan chức chỉ có trách nhiệm điều tra sơ bộ. Theo Arixtot, hình thức thứ tư này là “dạng tệ nhất của dân chủ” [1,248].

Chế độ quả đầu thì ngược lại, một số nào đó của công dân được bình nghị là bản chất của chế độ này, nó cũng có nhiều dạng khác nhau: hoặc là những người có đủ tiêu chuẩn về tài sản vừa phải, là số đông và tuân theo pháp luật, hình thức thành lập này nghiêng về chế độ trung dung. Nhưng nếu chỉ có một số nào đó được đưa ra để lo việc nước, thì chế độ này vẫn là chế độ quả đầu. Hoặc là, khi những người có quyền nghị quyết nắm giữ quyền hành và không do ai bầu ra, theo kiểu “cha truyền con nối” thì cách thức này vẫn là của chế độ quả đầu.

Chế độ quý tộc cũng có cách thức thiết lập riêng: khi một số người nào đó có một số quyền nào đó (như các vấn đề chiến tranh, hòa bình và giám sát quan lại) nhưng quan chức lại điều hành những việc khác, do dân bầu ra thì đó là cách thức thiết lập cơ quan nghị quyết của chế độ quý tộc.

Còn nếu một số vấn đề do quan chức được bầu ra làm đảm nhiệm, được chỉ thị bởi bốc thăm, quyết định thì chế độ này có một phần đặc tính của quý tộc, một phần của chế độ hiến định.

Vậy, đâu là cách thiết lập cơ quan quyết nghị của chế độ Hiến định? Cũng theo nguyên tắc trung dung, cách thiết lập cơ quan này cũng phải mang những đặc điểm của việc hình thành cơ quan nghị quyết trong cả 2 chế độ dân chủ và quả đầu.

Thứ nhất, để đảm bảo tính dân chủ - nghĩa là mọi công dân được tham gia nghị quyết, trong cơ quan nghị quyết của chế độ Hiến định sẽ có, đó là “kết nạp thêm một số người trong giới bình dân, hay lập nên một định chế gồm những viên chức gọi là ủy ban giám sát pháp lý có nhiệm vụ nghiên cứu và bản thảo trước những vấn đề mà được toàn thể dân chúng quyết định. Dân chúng sẽ chỉ quyết định những vấn đề này mà thôi. Như thế, toàn dân sẽ được tham sự vào việc bàn thảo những vấn đề liên quan đến quốc gia mà vẫn không làm xáo trộn những nguyên tắc của hiến pháp” [1,250]

Hơn nữa, đảm bảo tính chất quả đầu trong chế độ Hiến định, khi quyết nghị các vấn đề liên quan đến quốc gia, cả bình dân lẫn quý tộc đều bình nghị với nhau, thì những ý kiến họ đưa ra sẽ sáng suốt hơn. Ngoài ra, nên có những cơ quan trong đó có nhiều giai cấp khác nhau sẽ đảm bảo sự khách quan sẽ được thực thi.

Đây chính là cách thiết lập cơ quan nghị quyết – cơ quan cao nhất trong một nhà nước của mọi loại hình và đặc biệt là của nhà nước trung dung – nhà nước Hiến định.

Ngoài ra, Arixtot còn phân tích rất kỹ phẩm chất đạo đức của nhà lập pháp trong chế độ nhà nước. Trong đó, ông khẳng định nhà lập pháp “phải có cả khả năng hành động lẫn đức hạnh” [1,362] “nhà lập pháp giỏi nên suy xét xem làm thế nào để cho các nước, các giống dân khác nhau và những cộng đồng có thể sống một đời sống tốt đẹp, trong đó, hạnh phúc là điều mà họ có thể đạt được.” [1,359]. Chính vì vậy, “hành động của người cai trị không thể nào được coi là đáng kính, nếu người đó không quan tâm và lo toan cho những người dưới mình, như người chồng đối với vợ, cha đối với con, hay chủ nhân đối với tôi tớ” [1,361]. Quan niệm này của Arixtot về phẩm chất của nhà lập pháp rất giống với quan niệm của Khổng Tử trong việc nêu lên những mối qian hệ mà người quân tử cần phải chú ý và để tâm, đó chính là “ngũ thường” mà Nho giáo có nói đến – 5 mối quan hệ cần có của người quân tử: Vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, anh – em, bạn bè. Từ đó, ông nêu lên “có ba tiêu chuẩn mà những người nắm giữ chức vụ cao nhất phải có: (1), trung thành với cơ cấu chính trị được thiết lập, (2), có khả năng cao để điều hành chính quyền; và (3) có đạo đức cá nhân và tôn trọng công lý tương hợp với từng loại chính quyền” [1,295]. Đó chính là những phẩm chất đạo đức mà nhà lập pháp cần có.

2.3.2.2 Cơ quan chính quyền (tức là cơ quan hành pháp)

Arixtot dùng thuật ngữ “cơ quan chính quyền” để chỉ những bộ phận thực thi pháp luật trong nhà nước, ngày nay chúng ta gọi đó là cơ quan hành pháp. Khi xây dựng cơ quan chính quyền trong chế độ Hiến định, cũng có nhiều vấn đề đặt ra, như Arixtot đã nói: “nên có bao nhiêu cơ quan? Thẩm quyền của những cơ quan này như thế nào và nhiệm kỳ là bao lâu? Những viên chức này nên được lựa chọn theo phương thức nào và xuất thân từ giai cấp nào?” ([1,251]

Trước hết, trả lời cho câu hỏi nên có bao nhiêu cơ quan trong cơ quan chính quyền nhà nước, Arixtot cho rằng, mỗi một nhà nước nên có những cơ quan chức năng chuyên biệt ở cả những nước lớn và nước nhỏ. Những cơ quan này có thể kể đến, như : tướng soái thống lãnh toàn quân đội, thứ hai là những cơ quan thực hiện nhiệm vụ về kinh tế, thứ ba là những cơ quan chông coi về lao động, và tất cả những cơ quan dành cho việc bàn thảo, phán xét và nhất là chỉ huy, đó là những cơ quan đặc biệt của chính quyền.

Tiếp đến, việc lấy viên chức vào cơ quan chính quyền nên lấy ở giai cấp nào? Theo Arixtot, mỗi một loại hình nhà nước lại có những cách khác nhau tùy theo từng chế độ, ví dụ: trong chế độ quả đầu sẽ là thành phần giàu có, dân chủ là thành phần tự do, có học là thành phần quý tộc. Trong chế độ Hiến định, sẽ có một cơ quan Hội đồng dự thảo - là một cơ quan của chế độ dân chủ và cũng gồm một số người có nhiệm vụ chuẩn bị dự thảo cho hội nghị để những phiên họp không bị lạc để - cơ quan này là của chế độ quả đầu. Sự kết hợp của hai cơ quan này trong các chính quyền sẽ là cơ quan của chính quyền Hiến định.

Kế tiếp, Arixtot có bàn tới cách thức bổ nhiệm quan chức. Theo Arixtot có 3 yếu tố trong việc lựa chọn quan chức: (1), ai là người đi bầu cử (toàn dân, hay một số dân) , (2) bầu cử những ai? (toàn quan chức hay một vài quan chức) Và (3) là cách thức lựa chọn (thông qua phiếu bầu cử hay thông qua bốc thăm)

Trên cơ sở đó, Arixtot nêu ra cách lựa chọn quan chức cho từng chế độ. Nếu chế độ nào mà toàn dân hay một số dân đi bầu mọi quan chức bằng mọi cách đều là chế độ Hiến định. Bởi vì chế độ Hiến định là sự trung dung giữa chế độ quả đầu và dân chủ, mà quả đầu là một bộ phận dân số còn chế độ dân chủ là toàn thể dân chúng, cho nên trong chế độ hiến định có cả toàn dân của chế độ dân chủ và có cả một bộ phận dân chúng của chế độ quả đầu.

Chế độ nào mà mọi dân đi bầu một số quan thì đó là chế độ quý tộc. Bởi vì, quý tộc bao gồm những người tài giỏi, đức hạnh và số đông, và không phải vị quan nào cũng có thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên, cho nên chỉ có thể bầu ra một số quan mà thôi.

Còn chế độ nào mà một số dân đi bầu một số quan thì đó là chế độ quả đầu. Đây chính là vì, chế độ quả đầu là chế độ đại diện cho số ít quyền lợi của người giàu, cho nên chỉ có một số dân mới được đi bầu cử và cũng chỉ có một số dân đủ điều kiện để được ứng cử và bầu cử vì nó dựa trên cơ sở là tài sản giàu có.

Đó là cách thức bầu cử viên chức cũng là những đặc điểm của cơ quan nhà nước mà Arixtot nêu lên, cuối cùng là cơ quan tư pháp.

2.3.2.3 Cơ quan tư pháp

Cũng giống như các cơ quan trên, cơ quan tư pháp phải xác định có bao nhiêu loại tòa án? Và cách thức thiết lập cơ quan tư pháp như thế nào?

Thứ nhất, là các loại tòa án: Theo Arixtot, có tất cả là 8 loại tòa án. Thứ nhất, là tòa án hạnh kiểm (kiểm soát hành vi của thẩm phán). Thứ hai, là tòa xét xử những hành vi đi lại quyền lợi chung (khinh tội). Thứ ba, là những hành vi đi phản loạn đi ngược hiến pháp. Thứ tư, là những hành vi liên quan đến tiền phạt giữa quan chức và dân hoặc giữa dân và dân. Thứ năm, liên quan đến các trường hợp dân sự quan trọng. Thứ sáu, liên quan đến tội sát nhân (có dự mưu, ngộ sát, phạm nhân đã nhận tội, phạm nhân trốn chạy). Thứ bảy, là tòa án xét xử ngoại kiều (giữa ngoại kiều với ngoại kiều, hoặc giữa ngoại kiều với công dân). Thứ tám, là tòa tiểu hình xét xử những vụ kiện lặt vặt không gây thiệt hại quá 5 đồng drachma.

Thứ hai, là việc nghiên cứu cách thức lựa chọn thẩm phán. Cách đầu tiên là bổ nhiệm thẩm phán từ toàn dân và xét xử tất cả mọi trường hợp, đây là cách thức của chế độ dân chủ. Cách thứ hai, tòa án gồm một bộ phận dân chúng bổ nhiệm nhưng xét xử mọi trường hợp, đây là cách thức của quả đầu. Cách thứ ba, một số thẩm phán do toàn thể dân chúng bổ nhiệm, một số do giai cấp nào đó bổ nhiệm, đó là cách thức của quý tộc và của chế độ theo hiến pháp.


Chương 3:

CÁC BIỆN PHÁP DUY TRÌ CHẾ ĐỘ NHÀ NƯỚC LÝ TƯỞNG. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ “CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARIXTOT
Sau khi đã chỉ ra đâu là mô hình nhà nước lý tưởng, Arixtot đã phân tích cơ cấu bộ máy chính quyền và cách xây dựng những cơ cấu đó cũng như những biện pháp để bảo vệ và duy trì nhà nước lý tưởng đó. Tiếp đến ta sẽ nghiên cứu những nguy cơ làm sụp chế độ và những biện pháp bảo vệ chế độ lý tưởng, đồng thời đánh giá được những giá trị và hạn chế trong vấn đề về nhà nước mà Arixtot nêu lên trong tác phẩm.

3.1 Các biện pháp bảo vệ chế độ nhà nước lý tưởng

Chúng ta sẽ nghiên cứu những nguy cơ gây ra sự thay đổi chế độ nhà nước lý tưởng, xem xét các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi cũng như các biện pháp để bảo vệ chế độ. Đây có lẽ nội dung kế tiếp cho việc xây dựng lý tưởng một nhà nước hoàn hảo được Arixtot viết trong tác phẩm. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta hoàn thiện hơn trong việc nhận thức thế nào là một nhà nước hoàn hảo từ việc ra đời, bản chất đến các quá trình phát triển thậm chí là những sự thay đổi trong các chế độ nói chung, và chế độ hiến định nói riêng. Chính vì thế, việc nghiên cứu sự thay đổi đó cùng với việc đưa ra các biện pháp để bảo vệ chế độ nhà nước là vô cùng cần thiết và hợp khách quan.

3.1.1 Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ

Theo Arixtot, chính vì những đặc điểm hoặc sự biến dạng các chế độ là nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi các loại hình nhà nước, loại hình nào cũng chứa đựng những tác nhân gây ra cách mạng, thay đổi chế độ. Chế độ hiến định, mặc dù là loại chế độ hoàn thiện nhất, nhưng vẫn có nguy cơ bị thay đổi. Do đó, Arixtot cũng chỉ ra những nguyên nhân có thể thay đổi chế độ và đồng thời cũng đưa ra những biện pháp bảo vệ chế độ Hiến định.

Arixtot phân tích những nguyên nhân gây ra những sự biến đổi các chế độ, trong đó có thể kể đến những nguyên nhân như: “nguyên nhân sâu xa nhất đó chính là bắt nguồn từ ước muốn bình đẳng khi người ta nghĩ rằng họ bình đẳng hay không bình đẳng với người khác” [1,266] hoặc họ có thể cho rằng bản thân họ có thể được nhận nhiều quyền lợi hơn những gì họ đang nhận, từ đó sinh ra những mâu thuẫn giữa các giai cấp và dẫn đến những sự biến đổi trong các chế độ chính trị. Ngoài nguồn gốc đó ra, Arixtot còn chỉ ra “động cơ làm cách mạng là mong muốn đạt được quyền lợi vật chất và danh vọng, hay là nỗi sợ bị mất danh vọng và quyền lợi khiến họ phải nổi loạn để tránh bị mất mát những điều đó” [1,266]. Còn có những nguyên nhân khác như: “sự ngạo mạn, sợ hãi, bị đè nén quá đáng, bị khinh rẻ, sự gia tăng bất bình quân trong nước, bầu cử gian lận, sơ suất có cố ý, sự sơ suất vô ý những tiểu tiết, và sự khác biệt về các thành phần dân chúng” [1,267]

Như vậy, Arixtot quan niệm nguồn gốc chủ yếu dẫn đến cách mạng, thay đổi chế độ chủ yếu vẫn là xuất phát từ tâm trạng cá nhân, lòng ham muốn hay thái độ của cá nhân trước những biến đổi xã hội, đó là yếu tố thuộc về tâm lý xã hội chứ Arixtot chưa nhìn ra nguyên nhân sâu xa nhất phải là yếu tố kinh tế - xã hội. Sự biến đổi trong các chế độ xã hội phải bắt nguồn từ sự thay đổi kinh tế của chế độ. Sau này, chủ nghĩa Mác – Lênin đã rất khoa học khi đi lý giải nguồn gốc cách mạng, nguồn gốc thay đổi các chế độ xã hội – hay còn gọi là, các hình thái kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa Mác, không giống như Arixtot ở chỗ, nếu Arixtot xuất phát nguồn gốc thay đổi chế độ từ tâm lý xã hội, thì chủ nghĩa Mác lại xuất phát từ yếu tố quan hệ kinh tế trong xã hội. Mỗi một chế độ xã hội đều được xây dựng từ trên hai mối quan hệ chính: mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (hay còn gọi là lực lượng sản xuất) và mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất (hay còn gọi là quan hệ sản xuất). Trong lực lượng sản xuất lại có các yếu tố như con người, công cụ sản xuất và đối tượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất với ba quan hệ chính như, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Khi con người mới sinh ra đều cần phải có những điều kiện sinh sống cần thiết, nhưng muốn có điều đó con người phải lao động, đó là việc con người sức lao động của mình cùng với công cụ sản xuất để tác động vào giới tự nhiên, tác động vào đối tượng lao động để làm ra sản phẩm vật chất nuôi sống bản thân và xã hội. Trong quá trình lao động đó, con người càng hoàn thiện công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên một cách hiệu quả hơn, làm ra nhiều sản phẩm hơn. Ban đầu con người tìm kiếm phục vụ đầy đủ cho mỗi cá nhân trong cộng đồng bộ lạc thị tộc, sau đó nhờ sự phát triển của công cụ lao động, con người kiếm ngày càng nhiều hơn của cải vật chất, số sản phẩm đó không những chia đều cho mọi người mà còn dư thừa. Số dư thừa đó lại rơi vào tay những đầu bộ lạc thị tộc, dẫn đến sự xuất hiện chế độ tư hữu, trong xã hội xuất hiện các giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau giữa người giàu và người nghèo. Những sự khác nhau đó tạo thành mâu thuẫn giai cấp, và xuất hiện những cuộc đấu tranh giai cấp, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp chính là cách mạng. Khi cách mạng thành công, một chế độ xã hội mới ra đời thay thế cho chế độ xã hội cũ. Như vậy, nguồn gốc cách mạng, thay đổi các chế độ phải xuất phát từ yếu tố lực lượng sản xuất làm thay đổi các quan hệ sản xuất, trong đó sự xuất hiện tư hữu và đấu tranh giai cấp là những nguồn gốc xã hội chủ yếu dẫn đến cách mạng và sự thay đổi các chế độ.

Như vậy, nếu xét theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, thì quan niệm của Arixtot chủ yếu vẫn mang tính tâm lý xã hội chứ chưa nói đến nguồn gốc kinh tế - xã hội là nguồn gốc quan trọng, và trực tiếp nhất dẫn đến cách mạng làm thay đổi các chế độ.

Cũng cần phải làm rõ, sự khác nhau trong quan niệm của Arixtot với chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề cách mạng. Cả hai đều dùng thuật ngữ này nhưng cách hiểu lại khác nhau. Cách mạng của Arixtot nói đến trong tác phẩm chỉ đơn giản là sự thay đổi chế độ, chuyển từ chế độ này sang chế độ khác. Còn chủ nghĩa Mác – Lenin, cách mạng là sự thay đổi hoàn toàn chế độ này bằng một chế độ khác hiểu theo nghĩa rộng nhất, là sự biến đổi căn bản mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa… hình thành một hình thái kinh tế - xã hội khác hẳn với những chế độ trước đây. Chủ nghĩa Mác nhấn mạnh đến yếu tố bạo lực trong cách mạng, đó là quyền lực chính trị với tính cách là “bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [7,628], trong khi đó Arixtot không nói đến yếu tố bạo lực này trong thuật ngữ “cách mạng” được ông nêu lên trong tác phẩm.

Tuy nhiên, ông cũng nhìn ra được các nguồn gốc dẫn đến sự thay đổi của từng các chế độ cụ thể trong lịch sử:

Trong chế độ dân chủ, Arixtot cho rằng “sự thay đổi chế độ thường phát sinh từ sự lộng hành của những kẻ mị dân. Những kẻ này hoặc là bịa đặt ra những tin đồn bất lợi cho những người giàu có khiến cho họ phải liên kết lại đối phó với nguy hiểm chung ngay cả những kẻ thù quyết liệt nhất cũng đoàn kết lại, hoặc là kích động quần chúng chống lại những người giàu có” [1,276]. Bởi vì bản chất của chế độ dân chủ, đó là chế độ của số đông người nghèo, chỉ lo cho lợi ích của người nghèo, thậm chí có những chế độ dân chủ lại độc quyền, số đông gây hại cho pháp luật, không lo cho các giai cấp khác, dẫn đến họ trở thành những kẻ mị dân kích động dân chúng làm mất đi bản chất của chế độ dân chủ, kích thích các giai cấp khác đứng dậy đấu tranh lật đổ chế độ dân chủ.

Đối với chế độ quả đầu, Arixtot chỉ rõ có hai nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi thể chế: “thứ nhất, khi nhà cầm quyền đàn áp, thì lúc đó bất kỳ ai tỏ ra có khả năng cũng được người dân tin tưởng để thay đổi chế độ, nhất là khi người đó lại là thành viên của chính phủ, họ đã lật đổ chế độ quả đầu để trở thành kẻ độc tài” [1,279]. “Thứ hai, đó là sự tranh chấp giữa thành phần cai trị khiến cho họ phải dùng đến mưu mô mị dân. Kẻ mị dân quả đầu gồm có hai loại: loại thứ nhất là chơi trò chơi với nội bộ quả đầu, loại thứ hai là những kẻ quả đầu chơi trò chơi mị dân với quần chúng” [1,280]. Với những nguyên nhân này chế độ quả đầu sẽ dễ bị mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Cũng giống như chế độ dân chủ chế độ này thiên về những người giàu có cho nên cũng không quan tâm đối với những giai cấp khác, dẫn đến những mâu thuẫn trong xã hội và diễn ra cách mạng.

Chế độ quý tộc diễn ra cách mạng là ở chỗ “sự thay đổi chế độ xảy ra khi có một số nhỏ được tham chính… những sự thay đổi này rất dễ xảy ra, khi quần chúng có tinh thần cao và cảm thấy họ cũng giỏi bằng người lãnh đạo… ; một nguyên nhân nữa là ở chỗ khi những nhân sĩ tài đức tương đương với người cai trị nhưng lại bị đối xử tệ bạc… hoặc cũng có dạng nguyên nhân khác, có những người vì tham vọng muốn đạt được chức vị cao hơn, nên rất dễ diễn ra sự thay đổi chế độ” [1,285].

Có hai động lực chính khiến cho chế độ bạo chúa bị lật đổ, theo Arixtot đó là “sự khinh miệt và lòng oán ghét” [1,307]. Lòng dân oán ghét nhà độc tài là một điều dễ dàng có thể xảy ra, và theo Arixtot, sự khinh bỉ mới là nguyên nhân dẫn đến sự lật đổ, và chế độ này là chế độ dễ bị lật đổ nhất, cũng là chế độ tồn tại ngắn ngủi nhất trong lịch sử.

Chế độ quân chủ thường bị thay đổi chế độ là do tính cá nhân trong việc cai trị đất nước của nhà vua. Việc một người được đề cử lên làm vua là cách thức của giai cấp khá giả hơn dùng để cai trị dân nghèo. Vị vua được đề cử lên từ chính giai cấp của họ vì chính nhà vua hay dòng dõi nhà vua vượt trội hơn người về tài năng và đức hạnh. Tuy nhiên, khi vị vua này lên làm vua thì ông vua lại có những lòng ham muốn vượt quá giới hạn quyền lực đã được thừa hưởng và trở thành nhà độc tài, chuyên chế, chính việc nắm độc quyền như vậy rất dễ khiến cho nhà vua dần bị ảnh hưởng bởi sự chuyên chế vì quyền hành hoàn toàn nằm trong tay của vị vua đó. Chính vì vậy, sự độc quyền dẫn đến những mâu thuẫn và sự kích thích bạo động của quần chúng, cách mạng rất dễ xảy ra và chế độ bị thay đổi cũng là dễ hiểu.

Cuối cùng, Arixtot phân tích xem chế độ tốt nhất – chế độ Hiến định nhất liệu có dễ bị thái hóa, cách mạng có xảy ra hay không? Theo Arixtot, “chế độ pháp trị và quý tộc vẫn thường bị lật đổ vì đi lệch khỏi nguyên tắc công chính của hiến pháp; nguyên nhân sụp đổ của chế độ hiến pháp trị là sự kết hợp không hài hòa giữa hai phần tử dân chủ và quả đầu (người giàu và người nghèo) [1,285]. Trong chế độ Hiến định, nếu giai cấp nào nghiêng hẳn về giai cấp đó thì chế độ này cũng rất dễ bị thay đổi. Người giàu nếu được thêm quyền hành thì họ sẽ trở nên cao ngạo và tham lam hơn, lúc đó chế độ Hiến định sẽ trở thành chế độ quý tộc. Ngược lại, nếu người nghèo có quá nhiều quyền hành thì chế độ Hiến định sẽ trở thành chế độ dân chủ. Khi người giàu có quá nhiều quyền lực, người nghèo sẽ cảm thấy họ bị bạc đãi, sẽ thay đổi chính thể theo hướng đối nghịch. Tương tự như thế, người giàu cũng có khả năng đứng lên đấu tranh làm thay đổi chế độ hiến định.

Như vậy, chế độ nào cũng có nguy cơ bị biến thể, cách mạng xảy ra và thay đổi thành chế độ khác, thậm chí mô hình nhà nước lý tưởng Arixtot cũng cho rằng cũng có những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ nhà nước. Vấn đề quan trọng là cần phải có những biện pháp để xây dựng và bảo vệ chế độ tốt đẹp đó

3.1.2 Biện pháp bảo vệ và duy trì chế độ nhà nước lý tưởng

Arixtot đã đưa ra hai nguyên tắc quan trọng nhất để bảo vệ chế độ nhà nước lý tưởng, Một là : “Chỉ có một nguyên tắc giữ cho chế độ được ổn định là bình đẳng dựa theo tỷ lệ và tài năng, và người nào cũng được hưởng theo công sức và tài năng của họ” ([1,286].

Quan niệm này của Arixtot khá tiến bộ, ta thấy gần giống với quan niệm của chủ nghĩa Mác về việc giữ vững chế độ. Theo nguyên tắc này, vấn đề bình đẳng được xem là quan trọng nhất. Nhưng bình đẳng không giống như sự cào bằng, sự bình quân giữa tất cả mọi người, mà bình đẳng theo hướng tất cả mọi người làm theo tỷ lệ đóng ghóp và tài năng của mỗi một cá nhân, hưởng theo công sức lao động và tài năng của cá nhân đó. Nguyên tắc này không phải là cào bằng như nhau cho mọi người, nó không để cho cá nhân lười biếng, ỉ lại hay bất bình đẳng, mà tất cả mọi người đều phải lao động, việc phân chia tài sản hay quyền lợi cũng dựa vào công sức của họ bỏ ra trong lao động. Nguyên tắc này rất tiến bộ, Arixtot đưa ra nguyên tắc rất công bằng, mà sau này chủ nghĩa Mác cũng vận dụng điều đó khi đưa ra nguyên tắc phân phối trong chế độ Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chế độ Cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, chủ nghĩa Mác cho rằng, nguyên tắc phân phối sản phẩm sẽ là “Làm theo năng lực hưởng theo lao động” việc phân chia sản phẩm làm ra sẽ theo sức lao động và năng lực của cá nhân. Còn đến giai đoạn cộng sản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác cho rằng, phân phối sản phẩm theo nguyên tắc “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [9,36], đó là khi sản phẩm làm ra rất đầy đủ, có thể phân chia đều cho tất cả nhu cầu của mọi người. Cả hai quan niệm này ta thấy có nét tương đồng với nhau, như vậy quan niệm của Arixtot từ thời cổ đại đã rất tiến bộ, nhìn thấy được xu hướng của lịch sử, của thời đại, và đó là nguyên tắc rất khoa học và chính xác. Ngay cả ngày nay trên thế giới con người cũng đang hướng đến nguyên tắc nhân văn mà từ thời Arixtot đã nêu ra. Cho nên, quan niệm này của Arixtot được xem là rất tiến bộ so với thời đại của ông và của cả lịch sử thế giới.

Hai là, “tất cả mọi nước nên được cai trị và điều hành bởi luật pháp để quan chức không thể lợi dụng được quyền hành mà kiếm tiền” [1,292]. Pháp luật là tối thượng trong đời sống xã hội, phải được xem là thượng tôn trong đời sống và tất cả công dân cũng như quan chức đều phải lấy pháp luật lên làm yếu tố quan trọng hàng đầu. Đây là biện pháp cũng như nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong các chế độ, đặc biệt là chế độ Hiến định.

Từ những nguyên tắc chung đó, Arixtot nêu lên hệ thống các biện pháp bảo vệ chế độ lý tưởng. Ông nêu lên hàng loạt các biện pháp tích cực như:

(1),Trước hết, người cầm quyền phải có quan hệ tốt với mọi người dân (kể cả những người có quyền bầu cử và người không có quyền bầu cử), họ phải đối xử tử tế với mọi người, không xúc phạm đến danh dự của những người cả ở hai chế độ mà phải đối xử mọi giai cấp theo tinh thần bình đẳng. [1,289]

(2). Thứ hai, nhiệm kỳ cầm quyền sẽ ngắn ngủi, ngăn cản sự độc quyền của một nhóm công dân, hay gia đình trị. Việc thời hạn ngắn khi cầm quyền sẽ khiến cho bất cứ ai cũng khó lòng gây nên sự thiệt hại lớn lao, trong khi đó nhiệm kỳ lâu dài sẽ tạo nên những kẻ độc tài trong cả giới giàu có lẫn người nghèo.

(3) Thứ ba, người lãnh đạo chế độ phải nỗ lực kiềm chế những cuộc tranh chấp giữa các giai cấp, và ngăn chặn ngay từ đầu những mâu thuẫn để dẫn đến những cuộc đấu tranh đó. Việc ngăn chặn những cuộc đấu tranh này sẽ giảm đảm bảo pháp luật giữ vững tính nghiêm trang và thượng tôn trong đời sống xã hội.

(4). Chế độ Hiến định cũng dựa trên sự trung dung giữa hai giai cấp, cho nên số lượng tài sản của người lãnh đạo cũng là vấn đề cần đáng quan tâm. Theo Arixtot, “ta nên so sánh tổng sản lượng năm nay với năm trước theo định kỳ mỗi năm, nếu dân số được kiểm tra hàng năm, nên từ 3 hoặc 5 năm. Nếu tổng số lượng có tăng hơn hay thấp hơn gấp bội so với năm trước, thì luật pháp nên có những điều chỉnh tiêu chuẩn tài sản cho thích hợp. Nguyên tắc này rất cần thiết cho chế độ hiến định, vì quá giàu tầng lớp lãnh đạo sẽ chuyển thành chế độ quả đầu, hoặc quá nghèo sẽ chuyển sang chế độ dân chủ. Nguyên tắc này cũng đúng với các chế độ khác như chế độ quả đầu sẽ chuyển thành chế độ gia đình trị, hoặc dân chủ.

(5). Nguyên tắc mà có thể được dùng cho mọi chế độ, Arixtot nêu lên đó là “không để cho bất cứ một công dân nào có sự gia tăng bất cân xứng với những người khác; nghĩa là nên có những tưởng thưởng vừa phải cho một cá nhân trong một thời gian dài hơn là trao tặng những phần thưởng lớn lao và danh vọng tột bậc trong một thời gian ngắn”[1,291]. Đi kèm với nguyên tắc này là việc, theo Arixtot, “nên có những điều luật ngăn ngừa bất cứ ai có quá nhiều quyền lực, nếu có những người như vậy, thì kẻ đó phải bị tống xuất ra khỏi nước” [1,291]. Cho nên, quyền lực nên giao cho phần tử trung lưu, nên gia tăng tầng lớp này, một chính sách như vậy sẽ chấm dứt được sự phân hóa do bất bình đẳng gây ra.

Như vậy, những biện pháp để bảo vệ chế độ nhà nước nói chung và nhà nước hiến định nói riêng là những biện pháp rất tiến bộ, thích hợp với mọi chế độ. Ở mọi giai đoạn lịch sử khác nhau đều có thể vận dụng những biện pháp đó ứng dụng vào trong đời sống của nhà nước. Nhìn chung, những biện pháp mà Arixtot nêu lên có thể khái quát chung bằng những nguyên tắc như: công bằng, bình đẳng và đặc biệt là phải coi trọng pháp luật, đề cao pháp luật trong đời sống xã hội. Như Arixtot đã khẳng định “Một cách tổng quát, ta có thể cho rằng một hiến pháp được bảo tồn là nhờ sự tôn trọng tất cả mọi luật lệ của người dân, và nguyên tắc quan trọng nhất đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là số người trung thành với hiến pháp phải mạnh và đông hơn số người bất trung” [1,295] Quan niệm này của Arixtot rất giống với quan niệm của các triết gia phương Đông như Nho giáo, đặc biệt là Pháp gia. Những trường phái này rất đề cao vai trò thượng tôn của pháp luật, lấy đó là biện pháp quan trọng hàng đầu để xây dựng nhà nước, theo họ, “phương pháp lấy người trị người trước kia trở nên ít hiệu quả hơn, luật pháp bắt đầu được sử dụng như công cụ cai quản xã hội chủ yếu. Pháp gia đã luận chứng cho xu hướng này về mặt lý luận”. [15,21]

Sau khi đã tìm hiểu khá chi tiết nguyên nhân cũng như biện pháp bảo vệ chế độ nhà nước lý tưởng, cuối cùng bản luận văn này sẽ đi tìm hiểu những điều kiện để xây dựng nhà nước lý tưởng. Chúng ta đã tìm hiểu hầu hết các vấn đề của nhà nước được Arixtot nêu lên trong tác phẩm “Chính trị luận” và sẽ hoàn thiện hơn khi tác giả miêu tả những điều kiện để xây dựng nhà nước lý tưởng ở trong Quyển VII của tác phẩm.

3.1.3 Những điều kiện xây dựng nhà nước lý tưởng

Theo Arixtot, có rất nhiều cho rằng sự lớn mạnh của quốc gia chỉ có thể là một nước lớn, họ đánh giá sự lớn mạnh đó của quốc gia là dân số, “nhưng thực ra họ không nên chú trọng vào con số mà phải chú trọng vào khả năng của nước đó. Một quốc gia, cũng giống như một con người, có một chức năng phải thi hành, và nước nào được tổ chức tốt nhất để chu toàn được chức năng, thì đó là một nước lớn”. [1,363-364] Trên cơ sở đó, Arixtot đã phân tích những điều kiện để xây dựng một nhà nước lý tưởng

Những điều kiện để xây dựng nhà nước lý tưởng, theo Arixtot đó là: dân số, lãnh thổ, cảng biển, đường biên giới, thành phần xã hội và mối quan hệ giữa các giai cấp… những điều này, được Arixtot miêu tả rất rõ trong Quyển VIII của tác phẩm – đây cũng là những nội dung cuối cùng trong tác phẩm, cũng là những nội dung được chúng ta đề cập đến xem đó là cánh cổng khép lại toàn bộ những quan niệm của Arixtot về nhà nước một cách khá hoàn thiện như trên chúng ta đã phân tích.

Về dân số, Arixtot cho rằng không nên quá ít cũng như dân số không nên quá đông, mà tốt nhất là số dân vừa đủ lớn. “Nếu một khi dân số quá ít, thì cũng không thành một nước được vì thiếu tính chất tự túc; còn khi quá đông thì thỏa mãn được tính chất tự túc vì đông người cung ứng được mọi nhu cầu của nhau, nhưng vẫn không phải là một nước, vì rất khó để mọi người đồng ý chế độ chính trị.. cho nên, một nước chỉ bắt đầu hiện hữu khi đạt được một số dân vừa đủ lớn để tạo nên một đời sống tốt đẹp trong một cộng đồng chính trị”[1,365]. Tuy nhiên, Arixtot lại chưa chỉ ra được bao nhiêu số dân là vừa, và trả lời câu hỏi thế nào là số dân đủ lớn, dựa vào đâu để xác định được con số đó. Đây là một hạn chế của ông khi đề cập đến vấn đề này.

Tiếp đến, là lãnh thổ. Arixtot cho rằng, một đất nước nên xây dựng trên những khu vực như, “địa thế phải đủ hiểm trở để ngăn cản quân giặc, nhưng cũng phải thuận tiện cho dân cư đi lại, thứ hai là phải dễ quan sát mới dễ bảo vệ nhà nước” [1,367].

Một đất nước cũng cần phải có đường biển để thông thương trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, Arixtot lại cho rằng “một nước nên trở thành một thị trường để đáp ứng nhu cầu của chính mình, chứ đừng nên trở thành một thị trường cho những nước khác vào buôn bán, một quốc gia không nên biến thành nơi thị tứ của thế giới” [1,368]. Arixtot đã hạn chế trong việc đóng khung quốc gia, ngăn cản việc thông thương giao lưu với nước ngoài, đó là hạn chế của ông cũng là hạn chế của thời đại mà Arixtot sinh sống. Một đất nước có đường biển thì cũng phải có lực lượng hải quân tương đối mạnh để bảo vệ đất nước và chiến đấu với kẻ thù.

Về công dân của quốc gia, theo Arixtot, tính chất mà người dân của một nhà nước lý tưởng phải có đó là tính chất “trung dung”, vừa có sự hăng hái nhiệt tình, vừa có sự khôn ngoan, vừa can đảm. Những người dân này sẽ dễ được nhà lập pháp hướng dẫn tới đời sống hạnh phúc nhất.

Ngoài ra, Arixtot cũng nói đến những công việc cần có trong nhà nước lý tưởng và mối quan hệ giữa những người thực hiện những công việc đó…

Nói tóm lại, để hoàn thiện nhà nước lý tưởng, Arixtot đã nêu lên những điều kiện để xây dựng. Tuy nhiên, những điều kiện này không còn phù hợp vì thực tế có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng nhà nước như vậy, nó chỉ phù hợp với những thành quốc nhỏ bé trong thời Arixtot sinh sống của Hy Lạp cổ đại.

Đến đây, chúng ta đã phân tích khá chi tiết và hệ thống những nội dung trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtot. Những nội dung được Arixtot trình bày còn rời rạc chưa hệ thống, nhiều chỗ còn khó hiểu và cũng có những thuật ngữ khác xa với quan niệm của chúng ta hiện nay. Song trong quá trình nghiên cứu, chúng ta nhặt ra được những điểm sáng trong tác phẩm này, nghiên cứu nó trên quy mô hệ thống và khoa học. Và kết quả của chúng ta thu được là một hệ thống đồ sộ của những quan niệm của Arixtot đối với vấn đề nhà nước. Chúng ta thấy được những quan niệm chung về nhà nước, quan niệm về các loại hình nhà nước, đặc biệt là quan niệm về mô hình nhà nước lý tưởng, trong số những loại hình nhà nước Arixtot chỉ ra đâu là cái tốt nhất. Đồng thời với vấn đề đó, Arixtot còn đề cập về việc sự thay đổi chế độ và những nguyên nhân thay đổi đó, kèm theo là giải pháp bảo vệ và xây dựng chế độ này trong thực tế. Đó là một hệ thống rất toàn vẹn có mở đầu và có kết thúc, những ai muốn nghiên cứu về nhà nước đều có thể tìm thấy trong hệ thống này. Cuối cùng, công việc quan trọng trong bản luận văn này là phải đánh giá được những quan niệm của Arixtot, để thấy những điều Arixtot nói đúng, còn giá trị, để lại bài học cho chúng ta ngày nay và cả những điều Arixtot không còn chính xác, những hạn chế không còn khả thi đối với chúng ta hiện nay. Tất cả những điều này phải dựa trên một phương pháp luận khoa học và khách quan, để đặt Arixtot và tác phẩm “Chính trị luận” vào đúng ý nghĩa của nó.

3.2 Một số đánh giá và nhận xét quan niệm về nhà nước của Arixtot trong tác phẩm

Sau khi đã tìm hiểu những nội dung được Arixtot trình bày trong tác phẩm, nhiệm vụ cuối cùng của chúng ta là cần phải đánh giá những giá trị cũng như những hạn chế trong quan niệm của Arixtot trong tác phẩm và đặc biệt phải nêu bật lên được sự ảnh hưởng của Arixtot trong những quan niệm về nhà nước đối với lý luận và thực tiễn chính trị của phương Tây và nhân loại.

3.2.1 Những giá trị trong tác phẩm

Những giá trị mà Arixtot đã thể hiện ta có thể phân chia thành các lĩnh vực như phương pháp luận, cách nhận thức vấn đề của Arixtot và những giá trị thể hiện trong nội dung lý luận được đề cập trong tác phẩm.

3.2.1.1 Những giá trị thể hiện ở phương pháp tiếp cận của tác phẩm

Giá trị lớn nhất trong phương pháp nghiên cứu của Arixtot đó chính là ông kết hợp một cách thành thục tính toàn diện với tính lịch sử cụ thể trong nghiên cứu. Toàn diện là tổng thể các vấn đề nhà nước, lịch sử cụ thể là đi phân tích truy nguyên từng cái cụ thể trong tổng thể. Đây là mối quan hệ biện chứng trong phương pháp tiếp cận của Arixtot.



Một là, tác phẩm ''Chính trị luận" của Arixtot đã cho thấy ở ông có một hệ thống tư duy logic chặt chẽ và đầy đủ, khái quát và tổng thể về các vấn đề liên quan đến nhà nước.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là một cấu trúc logic đề cập đến mọi khía cạnh của việc xây dựng nhà nước lý tưởng. Trước hết là những quan niệm khá khái quát, bản chất về những quan niệm của nhà nước. Trong đó có thể kể đến các vấn đề như nguồn gốc, bản chất, các bộ phận thành phần cấu thành nên nhà nước. Tuy trước đó, nhiều tác gia triết học đã nói đến nhà nước, song ít người đã khái quát được những quan niệm như Arixtot đã trình bày trong tác phẩm. Hơn nữa, hàng loạt những thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử khoa học chính trị Phương Tây cũng đã được Arixtot nêu lên trong tác phẩm chẳng hạn như thuật ngữ “dân chủ”, “hình thức nhà nước”, “bản tính tự nhiên của nhà nước”,… làm nền tảng cho chính trị phương Tây sau này.

Sau đó, Arixtot đã chỉ ra 3 hình thức nhà nước đúng tương ứng với nó là 3 hình thức nhà nước sai đã hoặc đang tồn tại trong thực tiễn chính trị ở các nước phương Tây cổ đại. Ông phân tích kỹ lưỡng từng hình thức này chỉ ra bản chất, cách thức tồn tại và các dạng khác nhau của các hình thức đó. Quan trọng hơn, Arixtot đã dày công nghiên cứu sự phát triển, nguồn gốc làm cho các hình thức này biến thể và bị thay đổi bằng các hình thức nhà nước khác. Tìm được nguyên nhân Arixtot cũng nêu ra các giải pháp để bảo vệ các nhà nước đó.

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở điểm đó, Arixtot còn đi chứng minh trong tất cả các hình thức nhà nước đó, đâu là hình thức quan trọng và đúng đắn lý tưởng nhất. Đó chính là hình thức trung dung, hay còn gọi là hình thức Hiến định. Ông chỉ ra các lý do khiến đây là hình thức tốt nhất, kèm theo đó ông cũng đưa ra rất nhiều các phương pháp xây dựng và bảo vệ chế độ đó. Một trong những giải pháp hàng đầu được ông chú ý tới chính là giáo dục. Giáo dục cho thanh niên và mọi tầng lớp xã hội. Đây cũng là chương cuối cùng trong toàn bộ tác phẩm này, khép lại những nội dung liên quan đến nhà nước và chính trị của tác phẩm.

Với cách triển khai đầy logic khoa học này, Arixtot đã mở ra cho độc giả một cái nhìn toàn diện nhất, đa dạng nhất về các lĩnh vực liên quan đến nhà nước và chính trị. Ai muốn nghiên cứu sâu sắc về nhà nước của Arixtot đều có thể tìm thấy cho mình những câu trả lời tâm đắc trong toàn bộ tác phẩm. Đi sâu nghiên cứu những nội dung này ta như đi tìm kho báu đầy lý thú và hấp dẫn, nhưng muốn tìm được kho báu ấy không phải là dễ dàng. Có lẽ, vì lý do này, C.Mác đã phải thừa nhận rằng “Tư tưởng thâm thúy của Arixtot đã vạch ra những điều trừu tượng nhất, tế nhị nhất một cách thật đáng ngạc nhiên. Ông giống như người đang đi tìm kho tàng. Dù kho tàng tài liệu bị chôn vùi ở bất cứ nơi đâu… thì cái gậy hóa phép của Arixtot cũng nhất định chỉ đúng vào nó” [30,213]

Do đó, khi nghiên cứu tác phẩm ta có thể học hỏi được nhiều phương pháp triển khai nội dung lý luận của tác giả. Ông vẽ lên một bức tranh hệ thống đầy đủ tất cả các nội dung liên quan đến nhà nước. Đó chính là tính toàn diện trong tư duy của Arixtot.



Thứ hai, phương pháp phân tích truy nguyên của Arixtot đã đảm bảo tính khách quan, lịch sử cụ thể

Phương pháp này thể hiện ở chỗ, đối với mọi khía cạnh Arixtot đều truy nguyên nguồn gốc sâu xa, cội nguồn của chúng, sau đó ông tiếp tục nghiên cứu nó ở dạng phát triển đầy đủ để chỉ ra những đặc điểm của chúng ở mọi giai đoạn. Đó chính là tính lịch sử cụ thể trong tư duy của Arixtot. Ông nói “Cũng giống như trong các ngành khoa học khác, chính trị cũng vậy, một hợp chất luôn luôn có thể được phân giải ra thành những phần tử đơn giản hay nhỏ nhất của tổng thể. Do đó, chúng ta phải xem xét các phần tử cấu thành nhà nước, hầu có thể thấy được các luật lệ khác nhau của các loại chính quyền khác nhau như thế nào, và có thể rút ra được một kết luận khoa học nào chăng về mỗi loại chính quyền”[1,43]. Ông còn nhấn mạnh “Nếu ta xem xét sự vật từ ngọn nguồn, dù sự vật đó là một nhà nước hay cái gì đi nữa, ta sẽ có được một sự nhận thức rõ ràng nhất về sự vật đó”. [1,43]

Hơn nữa, khi chứng minh một hình thức nhà nước Arixtot luôn chỉ ra dẫn chứng cụ thể có thực đã tồn tại trong lịch sử, không pha tạp mà giữ nguyên những số liệu, dẫn chứng đó. Từ đó cho thấy Arixtot cũng rất đề cao tính khách quan trong việc nghiên cứu của mình.

Có thể thấy điều này ở ngay trong Chương 1, Quyển II được Arixtot nhấn mạnh đến phương pháp nghiên cứu đảm bảo tính khách quan khi tìm hiểu về nhà nước. Ông nói “Mục đích của chúng ta là xem xét, đối với những người có khả năng thực hiện đời sống lý tưởng của họ, đâu là dạng thức tốt nhất cho một cộng đồng chính trị. Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu những cơ cấu chính trị đang hiện hữu thực sự trong các nước có bộ máy cai trị hiện hữu, cùng với những cơ cấu lý tưởng do các nhà tư tưởng nổi tiếng tạo nên trên lý thuyết, hầu tìm ra đâu là cơ cấu chính trị tốt và hữu dụng cho con người”. [1,84]

Việc truy nguyên nguồn cội của các sự vật hiện tượng là biện pháp hữu hiệu và khoa học nhất cho việc nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của sự vật hiện tượng. Với phương pháp này giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử và khách quan về các sự vật hiện tượng, làm cho tri thức về thế giới đó ngày càng hoàn thiện và chính xác hơn. Arixtot sử dụng phương pháp này cũng làm cho những tri thức khách quan về nhà nước được sáng tỏ và rõ ràng hơn.

Chính vì vậy, những phương pháp mà Arixtot đã sử dụng không chỉ làm cho tác phẩm ''Chính trị luận" của ông thêm phần logic và khoa học, mà quan trọng nhất nó đã để lại cho chúng ta những bài học ý nghĩa về phương pháp nhận thức khoa học. Có thể nội dung tri thức còn đúng còn sai, nhưng giá trị lớn nhất mà tác phẩm đem lại, theo tác giả luận văn, đó là ở phương pháp nhận thức khoa học. Đây là điều chúng ta nên học hỏi và kế thừa thành tựu đó một cách đáng chân trọng nhất.



3.2.1.2 Những giá trị thể hiện trong những nội dung lý luận về nhà nước

Về vấn đề lý luận của nhà nước, mặc dù có những quan niệm hạn chế hoặc không còn phù hợp với thực tiễn chính trị ngày nay, nhưng Arixtot vẫn đem lại nhiều giá trị về mặt lý luận khi nghiên cứu nhà nước. Cụ thể như:



Một là, ông có quan niệm khoa học và đúng đắn trong việc xác định mục đích của nhà nước. Nhà nước không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên trong lịch sử xã hội loài người, mà nhà nước là “biểu hiện của cái tốt nhất”. Nếu các cộng động khác trong xã hội đều hướng con người đến cái tốt đẹp thì nhà nước hướng con người đến cái tốt đẹp nhất. Nhà nước xuất hiện nhằm hướng con người đến những ước vọng mà mỗi cá nhân hay cộng đồng nhỏ không thể thực hiện được. Đó chính là nhiệm vụ, chức năng xã hội to lớn và cao quý mà nhà nước đem lại cho con người. Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt đời sống con người với đời sống động thực vật. Chính nhờ có nhà nước mà con người mới khác động vật, và vì vậy Arixtot đã gọi con người là “động vật chính trị”, khác hẳn với những động vật hoạt động theo bản năng khác.

Hai là, ông đặt nền tảng cho việc xây dựng lý luận “bản tính tự nhiên của nhà nước”. Mặc dù khi xác định nguồn gốc của nhà nước, Arixtot còn có chỗ chưa thỏa đáng, song ông lại để lại tiền đề lý luận cho các thế hệ triết gia sau này cái gọi là “bản tính tự nhiên của nhà nước”. Tính chất cách mạng mà Arixtot thể hiện ở chỗ, nếu như trước Arixtot và thậm chí sau Arixtot vẫn có nhiều triết gia thuộc chủ nghĩa duy tâm, đều viện lý do Thần thánh, Chúa hay một lực lượng siêu nhiên khác làm nguồn gốc sinh ra nhà nước, thì Arixtot lại không dựa vào điều đó. Arixtot dựa vào chính bản tính tự nhiên có trong con người để lý giải sự xuất hiện của nhà nước, và cho đó là “bản tính tự nhiên của nhà nước”. Điều này đã được chứng minh ở trên của bản luận văn này, song có thể nhắc lại rằng, Arixtot đi chứng minh sự quần tụ của các loại cộng đồng xã hội con người dù nhỏ nhất đến cao nhất là nhà nước, cũng đều dựa vào mong muốn, nhu cầu rất tự nhiên của con người – đó là nhu cầu quần tụ với nhau. Và dĩ nhiên “thoạt kỳ thủ phải có sự kết hợp giữa giống đực và cái” hình thành đến gia đình – làng mạc và cao nhất chính là nhà nước. Bản tính đó không thể chối cãi được. Chính vì vậy, sau này đặc biệt là triết học khai sáng Pháp đã kế thừa và phát triển rất nhiều từ tiền đề lý luận quan trọng này của Arixtot, ông là người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng “bản tính tự nhiên của nhà nước”.

Ba là, ông đã xác định đúng bản chất giai cấp của nhà nước. Trước Arixtot, các nhà triết học thường mong muốn xây dựng một nhà nước hài hòa, một nhà nước đại đồng như nhau, mà chưa thấy được nhà nước mang bản chất của một giai cấp nhất định, là công cụ trấn áp của một giai cấp thống trị đối với các giai cấp khác. Tuy nhiên, Arixtot đã xác định đúng bản chất của nó, ông cho rằng, thuật ngữ “hình thức chính quyền” hay nhà nước mang hai nghĩa xác định. Thứ nhất, nhà nước là cơ quan quyền lực cao nhất trong đời sống của một quốc gia, là cơ quan quyền lực có quyền uy tối thượng trong một nước. Thứ hai, hình thức nhà nước là thuộc về một giai cấp, tầng lớp xác định trong xã hội, trong đó thuật ngữ này trả lời cho câu hỏi “ai là người lãnh đạo xã hội?”, ai là người cai trị đất nước. Ông nói “Hai từ hiến pháp và chính quyền có cùng một nghĩa, và chính quyền tức là quyền uy tối thượng trong một nước, phải nằm trong tay của một người, hay của một vài người, hay thuộc về nhiều người” [1,164]. Điều này chứng tỏ rằng, Arixtot ban đầu đã xác định được bản chất giai cấp của nhà nước. Nhà nước không thể là chung chung, bình đẳng như nhau giữa các giai cấp được, mà nhất định Nhà nước phải mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà nước phải là cơ quan quyền lực của một giai cấp này trấn áp đối với một giai cấp khác, và đối với toàn thể xã hội. Đó là một quan niệm đúng đắn, giống như Lenin sau này trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” ông cũng nói “Nhà nước là cơ quan thống trị của một giai cấp, là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác” [18,10]

Bốn là, ông đã xác định đúng và đặt nền tảng cho việc nghiên cứu những hình thức chính quyền trong lịch sử. Ông đã chứng minh bản chất của các hình thức chính quyền đó. Lấy tiêu chí là việc quan tâm đến quyền lợi của mọi người làm cơ sở để phân biệt đâu là những hình thức đúng và đâu là những hình thức nhà nước sai. Tiêu chí đó là một tiêu chí đúng đắn, ông xác định đâu là nền tảng cho sự tồn tại lâu dài của một chế độ. Dĩ nhiên, điều quan trọng nhất như ông vừa nói phải xác định được hình thức nhà nước nào quan tâm nhiều nhất đến lợi ích của mọi người. Trên cơ sở đó, ông đã xác định chế độ quân chủ, quý tộc và chế độ Hiến định là những chế độ đúng đắn, vì những chế độ này đã quan tâm nhiều đến lợi ích chung của mọi người. Ngược lại, những hình thức nhà nước như độc tài, quả đầu và dân chủ là những hình thức nhà nước sai, vì không quan tâm đến lợi ích của mọi người nói chung. Tuy việc phân chia thành các hình thức nhà nước này của Arixtot còn nhiều điểm phải nói đến, nhưng giá trị thật sự của ông lại là ở chỗ, ông nêu ra tiêu chí xác định nhà nước đúng và sai dựa trên cơ sở xem xét nhà nước đó có quan tâm đến lợi ích chung hay không. Đó là điều tiến bộ ở Arixtot, chúng ta phải học hỏi ông ở tiêu chí đó. Ngày nay, khi chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam rất cần thiết phải quan tâm đến lợi ích của mọi người, quyền lợi của công dân xem xét thực thi quyền lợi đó đạt được ở mức độ nào rồi để điều chỉnh cho phù hợp, điều này chưa hẳn lúc nào chúng ta cũng làm được. Cho nên, với quan niệm này của Arixtot cũng là một bài học có ý nghĩa đối với chúng ta hiện nay.

Năm là, giá trị nhân đạo của Arixtot trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp mà cả nhân loại hướng đến được thể hiện rất rõ trong toàn bộ tư tưởng của tác phẩm. Toàn bộ tác phẩm ông đã chỉ ra được những giá trị cũng như hạn chế của từng loại chính quyền và chứng minh rằng những hình thức đó chưa phải là những hình thức nhà nước lý tưởng, để từ đó ông đưa ra mô hình nhà nước lý tưởng nhất. Bằng việc phân tích chi tiết từng loại hình nhà nước, Arixtot đã cho thấy đặc điểm rất căn bản của từng loại hình đó để lấy cơ sở chứng minh rằng chúng chưa đạt đến mô hình nhà nước lý tưởng. Từ đó, ông đã tìm thấy mô hình lý tưởng nhất phải là mô hình thuộc về hình thức nhà nước Hiến định, trung dung. Ở điểm này, chúng ta thấy được giá trị của Arixtot là những tri thức rất cụ thể về từng loại chính quyền tồn tại trong xã hội cổ đại, làm cơ sở lý luận cho chúng ta nghiên cứu lịch sử xã hội cổ đại ở Phương Tây. Theo quan niệm của Arixtot, nhà nước lý tưởng phải là nhà nước của số đông thực hiện nhiệm vụ đáp ứng nguyện vọng của đa số quần chúng. Đây thực sự là một chế độ tốt đẹp, nó là đích đến của nhân loại trên toàn thế giới. Xã hội tương lai sẽ là một xã hội mà trong đó mọi người đều sống bình đẳng như nhau, được làm việc và hưởng thụ những giá trị kinh tế - văn hóa – xã hội mà chính con người làm ra. Xã hội đó sẽ không có chiến tranh, không có chết chóc và con người sẽ đến một chế độ văn minh nhất trong lịch sử. Thực chất, quan niệm này của Arixtot rất văn minh và nhân đạo. Tư tưởng đó là nền tảng cho tất cả những nhà triết gia sau này hướng đến, thậm chí sau này cả chủ nghĩa Mác – Lenin cũng hướng theo con đường xây dựng một xã hội như vậy. Đó cũng là giá trị to lớn trong tác phẩm này của Arixtot.

Sáu là, lần đầu tiên trong lịch sử chính trị học Phương Tây, Arixtot đã phân chia quyền lực nhà nước thành 3 cơ quan phân lập. Cơ quan nghị quyết (hay chính là cơ quan lập pháp), cơ quan chính quyền (cơ quan hành pháp) và cơ quan tư pháp. Tuy cách gọi của Arixtot có khác với chúng ta ngày nay, nhưng về bản chất những cơ quan này chính là hình thức tam quyền phân lập ở mỗi nhà nước hiện đại. Ông không những đặt nền tảng cho việc xây dựng lý luận nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, mà Arixtot còn đi chứng minh rất cụ thể từng nhiệm vụ, chức năng, các cách thức hành động và lựa chọn cán bộ cho từng vị trí trong các cơ quan nhà nước đó. Đây là giá trị to lớn mà tác phẩm đã đem lại cho chính trị học phương tây trong lịch sử của ngành khoa học này. Còn đối với chúng ta, chúng ta sẽ học được cách thức hoạt động của từng cơ quan trong nhà nước, đặc biệt học được những giá trị trong việc lựa chọn và sử dụng nhân lực trong bộ máy nhà nước, thậm chí ông còn nói đến chống tham nhũng, lạm quyền ở cán bộ cấp cao trong bộ máy chính quyền… đó là những bài học rất quý giá cho các quốc gia đang ngày càng hoàn thiện chế độ nhà nước pháp quyền của mình.

Bảy là, một trong những giá trị to lớn của tác phẩm đem lại, chính là ở những biện pháp để xây dựng và bảo vệ nhà nước lý tưởng mà Arixtot đã nói đến. Arixtot đã đặt ra những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi chế độ và kèm theo đó là những biện pháp để bảo vệ chế độ. Điều đáng nói ở đây, những giải pháp mà Arixtot nói đến cách chúng ta hàng nghìn năm nhưng hiện vẫn có giá trị đối với chúng ta. Những nhà lập pháp và thực thi pháp luật của nhà nước sẽ học hỏi được rất nhiều điều bổ ích cho việc lãnh đạo quốc gia của mình. Chúng ta sẽ học được tư tưởng lấy pháp luật là thượng tôn trong đời sống xã hội, rồi tiếp đến là những bài học trong việc chống tham nhũng, chống những hành vi sai trái của cán bộ nhà nước như độc tài, xa rời quần chúng, bệnh quan liêu… là những căn bệnh cố hữu có trong mọi nhà nước hiện nay. Đặc biệt, Arixtot có nêu lên quan niệm về sự bình đẳng trong quốc gia, ông cho rằng “Chỉ có một nguyên tắc giữ cho chế độ được ổn định là bình đẳng dựa theo tỷ lệ và tài năng, và người nào cũng được hưởng theo công sức và tài năng của họ” [1,286] – Đó là nền tảng để giữ vững quốc gia.

Cuối cùng, giá trị thứ tám – đó là tư tưởng đề cao giáo dục. Arixtot xem giáo dục như biện pháp quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng nhà nước lý tưởng. Giáo dục đem lại cho con người sự hiểu biết để tuân theo những chuẩn mực của xã hội một cách tự giác. Và chính vì vậy, Arixtot nêu lên những chương trình, kế hoạch giáo dục cho thanh thiếu niên trong quốc gia. Tư tưởng này vẫn còn đúng với chúng ta. Ngày nay,Việt Nam đã xác định coi “giáo dục là nền tảng của quốc gia” và vì vậy phát triển giáo dục được xem là “ quốc sách hàng đầu”. Cho thấy giá trị quan trọng của giáo dục, và cũng cho thấy ý nghĩa to lớn trong quan niệm này của Arixtot.

Với những giá trị to lớn đó, tác phẩm không những mang lại hệ thống tri thức khái quát về các vấn đề lý luận của nhà nước, quan trọng hơn chính từ những quan niệm này đã đặt nền tảng to lớn cho triết học nói chung và chính trị học phương Tây nói riêng phát triển, không những về mặt lý luận, mà quan trọng hơn cả nền thực tiễn chính trị phương Tây cũng chịu ảnh hưởng từ những tư tưởng đó. Chính vì vậy, khi đánh giá những giá trị mà Arixtot đem lại trong tác phẩm, chúng ta không thể không đánh giá về sự ảnh hưởng của ông đối với lý luận và thực tiễn chính trị phương Tây sau Arixtot.



3.2.1.3 Bước đầu đánh giá sự ảnh hưởng của Arixtot đối với lý luận và thực tiễn chính trị Tây Âu

Quan niệm về nhà nước của Arixtot trong tác phẩm ''Chính trị luận" có nhiều giá trị to lớn đối với cả thực tiễn lẫn lý luận chính trị phương Tây nói chung và nhân loại nói riêng. Những giá trị to lớn đó đã được các thế hệ triết gia của Phương Tây kế thừa và phát triển một cách có chọn lọc. Chúng ta sẽ bước đầu đi khám phá sự ảnh hưởng này đối với các thế hệ sau này như thế nào thông qua một số những tư liệu sau đây.



Trên phương diện lý luận chính trị phương Tây

Sau này chịu ảnh hưởng của Arixtot có thể kể đến một số những tư liệu sau đây:

Nhà hùng biện và triết gia La Mã, thế kỷ thứ I TCN – Ciceron ( 106 – 43 TCN) cũng có sự kế thừa quan niệm về chính phủ của công và xác định công dân trong một nhà nước của Arixtot. Quan niệm đó đã được Ciceron miêu tả trong tác phẩm De re publica như sau: “Sự nghiệp chung là công việc của nhân dân; còn nhân dân không phải là của bất cứ nhóm người nào, được kết hợp với số lượng bất kỳ, mà là một số lượng lớn đàn ông liên kết với nhau bằng một thỏa thuận chung về luật pháp và các quyền, và với mong muốn tham gia để mọi người cùng có lợi” [17,76]. Với quan niệm này, ta thấy ở Arixtot và Ciceron giống nhau hoàn toàn khi xác định ai là công dân của một nước, trong đó chỉ có đàn ông mới đủ điều kiện làm công dân còn phụ nữ, trẻ em và nô lệ lại không được nhắc đến. Đây cũng là hạn chế của các ông, tư tưởng trọng nam khinh nữ bám rễ vào hàng loạt các nhà chính trị, nhưng suy cho cùng đó cũng là hạn chế của thời đại mà thôi.

Bước sang thời kỳ Trung cổ, người chịu ảnh hưởng của Arixtot phải kể đến Aquinas (354 -430). Ông có kế thừa quan niệm về tư tưởng “dân chủ”. Dĩ nhiên, thuật ngữ này chưa được Arixtot hiểu đúng như ngày nay, thế nhưng nó cũng làm nền tảng cho những tư tưởng về sau, trong đó có Aquinas. Aquinas trong tác phẩm De Regimine Principum, được xuất bản năm 1948 tại Oxford từ trang 2 đến trang 82, cũng đi theo quan niệm của Arixtot, và phát triển tư tưởng dân chủ theo hướng tiêu cực và thường được liên tưởng tới chính sách của lũ tiện dân; chính phủ hành động vì người nghèo chứ không phải vì quyền lợi công cộng, và hình thức chính quyền trong đó “người dân thường có thể trở thành bạo chúa, đe dọa cào bằng tất cả khác biệt xã hội và đặc quyền đặc lợi đã được giành được” [17,73].

Nhà triết học Marsillius (1275 – 1342) trong tác phẩm Defensor pacis của mình cũng có sự kế thừa tư tưởng của Arixtot. Khi bàn về chính trị, đặc biệt là việc xác định công dân, giống như Arixtot, Marsillius cũng khẳng định, công dân là “người tham gia vào cộng đồng dân sự” hoặc qua vai trò quản lí hoặc “qua chức năng thảo luận hay phê phán” đối với biện pháp cai trị. Đồng thời, cũng giống như quan niệm của Arixtot về “trẻ con, nô lệ, kiều dân và phụ nữ không phải là công dân, dù mỗi loại bị truất quyền công dân theo những cách khác nhau. Theo Marsillius, “chỉ những người đàn ông có tài sản chịu thuế, sinh ra và sống một thời gian dài trong thành phố của họ mới có quyền công dân, tất cả những người khác đều không phải là công dân”. [17,83-84]

Bước sang triết học Cổ điển – thời kỳ triết học Khai sáng, hay chính trị học hiện đại, cũng có rất nhiều nhà triết học chịu sự ảnh hưởng của Arixtot, hoặc phê phán hoặc kế thừa những lý luận và mô hình chính trị mà Arixtot đã xây dựng nên.

Người chịu ảnh hưởng từ Arixtot và cũng là chính trị gia đầu tiên về nền chính trị của nhà nước hiện đại chính là Machiavelli. Nicolai Machiavelli được xem là người nắm vững cả lý thuyết chính trị của thế giới cổ đại lẫn trật tự chính trị vừa mới xuất hiện ở châu Âu, cũng đã có những sự ảnh hưởng nhất định của mình đối với những quan niệm của Arixtot.

Tư tưởng chính trị quan trọng của Machiavelli được thể hiện rõ nhất là trong tác phẩm “Quân vương”. Trong đó có những nội dung ông có sự kế thừa và phát triển tư tưởng của Arixtot. Nghiên cứu tư tưởng chính trị của Arixtot nói riêng và chính trị cổ đại nói chung, Machiavelli cho rằng có 3 hình thức cai trị chính: quân chủ, quý tộc và dân chủ, vốn là những hình thức không ổn định và có xu hướng tạo ra vòng luẩn quẩn của sự thái hóa và suy đồi. Cũng giống như Platon và Arixtot, Machiavelli cho rằng “sau giai đoạn phát triển mang tính tích cực ban đầu, chế độ quân chủ có xu hướng tạo ra vòng luẩn quẩn của sự thoái hóa thành chế độ chuyên chế, chế độ quý tộc thì thoái hóa thành tập đoàn đầu sỏ còn dân chủ thì thành chế độ vô chính phủ, tình trạng này lại một lần nữa dẫn đến chế độ quân chủ” [17,86]

Machiavelli cũng giống như Arixtot, ông cũng mong muốn xây dựng một “chính quyền hỗn hợp”, được xây dựng nhằm bổ khuyết những thiếu sót của các hình thức hiến pháp mang tính cá nhân chủ nghĩa, có khả năng cân bằng quyền lợi của các nhóm cạnh tranh với nhau, đặc biệt là sự cạnh tranh giữa người giàu và người nghèo” [17,88].

Ông cũng cho rằng chế độ tự do thì thích hơn chế độ chuyên chế, nhưng ông cũng cho rằng thường khi muốn bảo vệ tự do lại cần phải dùng đến chuyên chế. Cho nên ông đã tìm cách trung dung giữa một chế độ của những người tự do tự quản với chế độ cần đến một ông vua chuyên chế. Mặc dù vậy, nói chung với tình hình như châu Âu lúc bấy giờ, Machiavelli “tin rằng chính phủ tự do là khó có thể thực hiện được mà tình hình lúc đó rất cần đến một ông vua chuyên chế có tài xoay xở đủ tài áp đặt tầm nhìn của ông ta về nhà nước và xã hội, đủ tài để tạo dựng một xã hội có trật tự và hòa hợp” [17,90].

Như vậy, Machiavelli có những quan niệm rất gần với Arixtot nhưng ta cũng nhận thấy một sự cải tạo, phát huy và có sự áp dụng rất sáng tạo tư tưởng đó vào hoàn cảnh cụ thể của Châu Âu lúc bấy giờ. Ở đây ta cũng nhận thấy có những điểm khác biệt giữa Arixtot với Machiavelli. Nếu Arixtot phân chia 6 hình thức nhà nước, thì Machiavelli tinh giản thành 3 hình thức nhằm giảm sự luẩn quẩn trong tư tưởng của Arixtot. Nếu Arixtot đưa ra xây dựng chế độ hiến định, trung dung giữa giai cấp giàu có và nghèo khổ thì Machiavelli lại khác. Mặc dù cũng là “chính quyền hỗn hợp”, nhưng sự hỗn hợp đó là sự kết hợp của chế độ dân chủ với chế độ chuyên chế, ông biết vận dụng với tình trạng của Châu Âu lúc bấy giờ, cần đến một ông vua chuyên chế hơn là chế độ tự do mặc dù ông rất thích chế độ tự do.

Người được nói đến tiếp theo, chính là nhà triết học cận đại Jean – Jacques Rousseau. Người được xem là “Machiavelli của thế kỷ XVIII”. Điều đáng nói ở đây, mặc dù những tư tưởng chính trị của Rousseau có tính chất phê phán đối với các bậc tiền bối trong đó có Arixtot. Chẳng hạn như Rousseau phê phán thuật ngữ “dân chủ” được Arixtot nói đến và cho rằng Aten không phải là chế độ lý tưởng. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là tư tưởng “tình trạng tự nhiên” được nói trong tác phẩm kinh điển của ông “Bàn về khế ước xã hội – The Social Contacts” xuất bản năm 1762, gần giống với tư tưởng “bản tính tự nhiên của nhà nước” được Arixtot nói đến khi diễn giải sự ra đời của nhà nước. Rousseau cũng cho rằng “con người đã từng sống trong “tình trạng tự nhiên”, nghĩa là trong giai đoạn trước khi thành lập các chính phủ dân sự, trong thời gian đó, con người về cơ bản là bình đẳng, họ sống một đời sống biệt lập, nhưng tự do trong những điều kiện đa dạng của tự nhiên. Mặc dù vậy, do có những trở ngại khác nhau cho việc sinh tồn: những nhược điểm và dục vọng ích kỉ của các cá nhân, cảnh nghèo khổ và thảm họa tự nhiên đã buộc người ta phải từ bỏ trạng thái tự nhiên để thiết lập nên các thiết chế mới. Họ nhận thức rằng phải thiết lập một hệ thống hợp tác, được bảo vệ bởi một cơ quan lập pháp và cưỡng chế, thì họ mới mong muốn sống sót, mới mong những phẩm chất tự nhiên của mình, hiện thực hóa khả năng tư duy và sống một đời sống tự do thực sự. Do đó người ta liên kết lại để thiết lập, thông qua “một khế ước xã hội”, và liên kết như thế lúc đầu được gọi là polis – thành bang”. [17,93-94]

Như vậy, mặc dù cách giải thích của Rousseau về nguồn gốc ra đời của thành bang hay nhà nước có khác với Arixtot. Sự khác biệt nằm ở chỗ, Rousseau xuất phát từ tính ích kỷ cá nhân còn Arixtot lại xuất phát từ nhu cầu quần tụ với nhau mà hình thành gia đình – làng mạc và nhà nước, trong khi đó với Rousseau thì từ trạng thái tự nhiên đó hình thành các thành bang thông qua “Khế ước xã hội”. Thế nhưng, giữa hai người này lại có cùng một điểm chung. Điểm chung đó chính là lý giải sự ra đời của nhà nước xuất phát từ đặc tính tự nhiên của con người, không dựa trên thần thánh và duy tâm. Cả hai triết gia đều truy nguyên nhà nước từ bản tính tự nhiên có sẵn trong con người từ đó hình thành cộng đồng chính trị của mình. Điểm này chứng minh rằng sức mạnh tư tưởng của Arixtot không hề nhỏ trong chính trị học phương Tây.

Một trong những người chịu sự ảnh hưởng của Arixtot về vấn đề chính trị và nhà nước đó là Mongtexkio. Ông rất khâm phục các thành bang cổ đại, ngưỡng mộ những lý tưởng về một nhà nước cổ đại, tuy nhiên tư tưởng được xem là quan trọng nhất chứng tỏ có sự ảnh hưởng của Arixtot đối với Mongtexkio phải là tư tưởng về tam quyền phân lập. Trong tác phẩm ''Chính trị luận" của mình, Arixtot có đặt nền tảng về việc phân chia quyền lực của nhà nước thành ba cơ quan chính. Sau này được nhiều triết gia tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên, cách diễn giải của Mongtexkio về các vấn đề này “sâu sắc hơn tất cả những bậc tiền bối trước ông” ([17,132]. Mongtexkio giải thích rất kỹ về sự khác nhau giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, làm rõ hơn những tư tưởng nền tảng mà Arixtot nói đến trong tác phẩm.

Ảnh hưởng của Arixtot đối với thực tiễn chính trị phương Tây

Trực tiếp nhất phải kể đến 2 sự kiện ngay sau khi Arixtot qua đời chứng tỏ sự ảnh hưởng của ông trên nền chính trị của Aten. Thứ nhất, là Bản Hiến pháp của Aten do Antipater soạn thảo năm 321 sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy của Aten hai năm trước đó. Bản Hiến pháp này phản ánh tư tưởng chính trị của Arixtot như sau: “Quyền bầu phiếu giới hạn trong số dân của Aten và có tài sản từ 2000 drachmas trở lên, nghĩa là giới hạn trong số trung lưu, những người có lượng tài sản vừa phải và còn trẻ để làm nghĩa vụ quân sự” [1,16]. Sự kiện thứ hai, là việc Demestrius, một học trò của Arixtot lên cai trị Aten và biến những gì Arixtot đã dạy tại Lyceum thành luật.

Một sự kiện khác, mà theo nhiều nhà nghiên cứu phương Tây hiện đại cho rằng, chính mô hình của Công xã Pa –ri được Mác – Anghen thực hiện vào năm 1871 có chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng về một mô hình nhà nước lý tưởng mà Arixtot nói đến. “Các thiết chế được mô tả trong Chương 2, tác phẩm của Arixtot cho ta biết thêm về tính chất cấp tiến thực sự của nền dân chủ cổ điển. Không ngạc nhiên khi Mac và Anghen lấy đó làm nguồn cảm hứng, mô hình của họ về một chế độ dân chủ thực sự, tức là Công xã Pa –ri năm 1871, được họ phác thảo có nhiều điểm chung với nền dân chủ ở Aten mà Arixtot miêu tả” [17,47]. Mac đã miêu tả Công xã một cách rất chi tiết trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”, trong đó có những tư tưởng về nhà nước gần giống với những tư tưởng về nhà nước được Arixtot miêu tả khi nói về nhà nước Aten. Mac cho rằng “Công xã gồm những đại biểu thành phố do đầu phiếu phổ thông ở các khu ở Pari bầu lên. Họ là những đại biểu có trách nhiệm và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào… Đối với các ủy viên Công xã cũng như các thành viên cấp thấp nhất trong Công xã đều phải được đảm bảo với mức lương nang với lương công nhân. Những đặc quyền đặc lợi và những phụ cấp chức vụ của những người quyền cao chức trọng của nhà nước cũng biến đi cùng với chính ngay những kẻ quyền cao chức trọng đó. Chức vị xã hội không còn là sở hữu riêng của bọn bộ hạ của chính phủ trung ương nữa. Không những việc quản lý thành thị mà tất cả quyền định đoạt xưa nay thuộc nhà nước, đều chuyển vào tay Công xã…. Cũng như các công chức khác trong xã hội, từ nay trở đi, họ đều phải được công khai bầu lên, chịu trách nhiệm và có thể bị bãi miễn. Tất nhiên công xã Pari phải là kiểu mẫu cho tất cả các trung tâm công nghiệp lớn. Chế độ của Công xã một khi được thiết lập ở Pari và các trung tâm thứ yếu rồi, thì cả ở các tỉnh, chính phủ tập quyền cũ cũng phải nhường chỗ cho cơ quan tự quản của những người sản xuất” [8,449-450]. Dựa theo những gì mà Mac đã mô tả công xã, tuy có những điểm khác biệt về tính chất cách mạng, ý nghĩa của các nhà nước nhưng hình thức tổ chức lên các nhà nước đó cũng có những điểm giống nhau. Đặc biệt, điểm chung giữa hai quan niệm này là ở chỗ, cả hai đều khẳng định, tất cả cơ quan nhà nước đều phải được bỏ phiếu thông qua bầu cử, mọi công dân đều có quyền ngang nhau và xóa bỏ những đặc quyền, bất công trong xã hội, xây dựng một xã hội bình đẳng không có áp bức bất công. Tuy nhiên, đối tượng để được sự bình đẳng này không phải giống nhau. Nếu chủ nghĩa Mác coi bình đẳng cho toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thì Arixtot nêu lên sự bình đẳng nhưng bình đẳng đó chỉ đối với tầng lớp hữu sản, còn nô lệ, trẻ em và phụ nữ không được xem là công dân, họ không có quyền trong xã hội và cũng không được tham gia vào các hoạt động của chính quyền. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa chủ nghĩa Mác – Lenin đối với Arixtot và cũng là một trong những hạn chế đã được nói đến ở Arixtot.

Như vậy, thông qua việc khảo sát một số tư liệu về lý luận và thực tiễn của chính trị học phương Tây, đã chứng minh rằng giá trị tư tưởng của Arixtot trong tác phẩm ''Chính trị luận" về nhà nước là hết sức to lớn và có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến thực tiễn và lý luận chính trị phương Tây sau này. Chính những tư tưởng của Arixtot, đã tạo điều kiện cho các triết gia có thể phê phán lý thuyết và mô hình chính trị của Arixtot, nhờ vậy họ có thể phát triển nên các hệ tư tưởng mới. Đó là giá trị to lớn mà Arixtot đã thực hiện được trong tác phẩm này. Tuy nhiên, những tư tưởng trên đây chỉ là những dữ liệu tiêu biểu bên cạnh đó có thể còn có rất nhiều những dẫn chứng khác chứng tỏ điều này. Trong khuôn khổ luận văn do điều kiện chỉ nói đến được một số dẫn chứng đó mà thôi, để có thể hiểu hơn thì cần có một sự nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về vấn đề này nhằm thấy được ý nghĩa của tác phẩm và giá trị tư tưởng của Arixtot đối với lịch sử tư tưởng nhân loại.

3.2.2 Những hạn chế trong tác phẩm

Tuy nhiên, như trên đã nói, tác phẩm ''Chính trị luận" của Arixtot cũng chứa đựng nhiều điều đáng phải quan tâm và phân tích về nó.



Thứ nhất, Arixtot thiếu cơ sở kinh tế - xã hội để truy nguyên nguồn cội cho sự ra đời của nhà nước.

Mặc dù Arixtot chứng minh sự ra đời của nhà nước không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà do nhu cầu tự nhiên mong muốn quần tụ của con người hình thành nên nhà nước, đó cũng là quan niệm rất duy vật, ông đã loại bỏ yếu tố duy tâm, thần thánh trong việc lý giải nguồn gốc sinh ra nhà nước. Tuy nhiên, quan niệm đó cũng vẫn còn thiếu những cơ sở cần thiết để chứng minh cho đầy đủ những lý do mà dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Cơ sở mà Arixtot chưa nói đến chính là cơ sở kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Ông chưa thấy được sự phát triển của các yếu tố kinh tế dẫn đến xuất hiện giai cấp và phân chia giai cấp trong xã hội. Ông cũng chưa thấy các giai cấp khác nhau vì lợi ích kinh tế có thể dẫn đến mâu thuẫn xã hội xảy ra giữa các giai cấp, và hệ quả của mâu thuẫn đó chính là những cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội. Kết thúc những cuộc đấu tranh cách mạng đó sẽ là sự ra đời của chế độ xã hội mới, một nhà nước mới ra đời. Tuy nhiên, lịch sử xã hội sẽ không thể dừng lại ở đó, vì khi nào còn mâu thuẫn giữa các giai cấp, xã hội còn phân chia giai cấp thì khi đó cách mạng và đấu tranh cách mạng xã hội sẽ không kết thúc, và lịch sử sẽ phát triển theo hướng thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, hay nói cách khác, các nhà nước khác nhau sẽ thay thế lẫn nhau cho đến khi xã hội không còn giai cấp, nhà nước sẽ không tồn tại nữa. Dĩ nhiên, vào chính thời điểm mà Arixtot sinh sống cũng chưa đủ những điều kiện kinh tế - xã hội và tư duy khoa học của con người chưa thể đạt đến trình độ để có thể rút ra về những tri thức khoa học chứng minh cho sự ra đời của nhà nước. Tuy nhiên, ta sẽ không thể loại bỏ những giá trị hợp lý đó của Arixtot, mà thay vào đó nên kế thừa những yếu tố nào còn hợp lý trong tư duy của ông.



Hai là, trong vấn đề xác định mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, yếu tố nào là có trước, yếu tố nào là có sau thì Arixtot cũng chưa xác định cho đúng được vấn đề.

Arixtot cho rằng nhà nước là yếu tố có trước và công dân là yếu tố có sau chịu sự quy định của nhà nước. Dĩ nhiên công dân phải chịu sự quy định của nhà nước, nhưng nhà nước không thể là yếu tố sinh ra trước công dân. Công dân trước khi trở thành một công dân theo nghĩa chính trị thì công dân phải là con người động vật trước. Bản thân Arixtot xác định “con người là động vật chính trị” khác với loài vật khác là con người sẽ tham gia hoạt động chính trị, nhưng ông lại cho rằng nhà nước là cái có trước thì vấn đề lại trở nên không chính xác. Con người phải tồn tại theo đúng nghĩa trước rồi mới hoạt động chính trị, văn hóa và xã hội. Và nhà nước cũng như các yếu tố thượng tầng của xã hội khác như tôn giáo, đảng phái, dân tộc, văn hóa… cũng đều phải sinh ra từ cơ sở hạ tầng hay chính là hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên, quan niệm này của Arixtot cũng chưa được chính xác.



Thứ ba, một trong những hạn chế lớn nhất của Arixtot nằm ở vấn đề phân chia các hình thức nhà nước.

Ông đã xác định các hình thức nhà nước đúng đắn và các hình thức nhà nước sai và hủ bại và từ đó ông nêu lên 6 hình thức nhà nước. Trong đó, ông xác định, mỗi một chế độ có một bản chất khác nhau. Một ông vua cai trị lo cho dân chúng – chế độ quân chủ, ngược lại ông vua đó chỉ lo cho vương thất – lại là chế độ bạo chúa. Một chế độ xây dựng trên việc sử dụng tài sản, đức hạnh và số đông , thì đó là chế độ quý tộc, đó là một chế độ được điều hành bởi những người có tài đức nhất, ngược lại nơi nào là số ít người giàu có cai trị chỉ lo cho bản thân họ - đó là chế quả đầu. Nơi nào mà chế độ được xây dựng trên nền tảng cai trị là người nghèo, đa số và tự do – đó là chế độ dân chủ, một chế độ hủ bại của chế độ trung dung. Chế độ trung dung là sự kết hợp giữa hai chế độ quả đầu và dân chủ.

Cách phân chia này cũng dễ hiểu, dễ phân biệt, tuy nhiên trong cách phân chia này ta thấy Arixtot còn có hạn chế. Hạn chế ở chỗ, ông đã không xác định thật chính xác các loại chế độ, mà trong cùng một bản chất, ông lại phân chia thành các hình thức nhà nước khác nhau. Hay nói cách khác, 6 loại chính quyền thực ra có những chính quyền mang bản chất như nhau.

Như đã phân tích ở trên, chế độ quân chủ và chế độ bạo chúa đều mang một bản chất giống nhau là sự cai trị của một ông vua trong một nước. Còn cách thức ông vua đó sử dụng quyền lực như thế nào phải thuộc vua bản tính và quan niệm cai trị của ông vua đó chứ không phải là các hình thức chính quyền khác nhau. Ông vua đó có thể dùng quyền lực đáp ứng nguyện vọng của người dân nhưng cũng có thể bạo chúa sử dụng sức lực để uy hiếp quần chúng.

Chế độ qúy tộc và quả đầu mang cùng một bản chất là chế độ của người giàu có. Thế nhưng Arixtot lại phân chia thành hai loại khác nhau. Cũng giống như chế độ dân chủ là chế độ dành cho người nghèo lại là một hình thức đối lập với chế độ Hiến định.

Nói tóm lại, cách phân chia thành 6 loại hình nhà nước mà Arixtot xây dựng còn có hạn chế, chưa chính xác và dễ khiến cho người đọc bị nhầm lẫn ở cách phân chia này.

Sau này, chính Machiavelli cũng đã nhận xét, thực chất nền chính trị cổ đại chỉ có 3 hình thức: quân chủ - quý tộc và dân chủ, vốn là “những hình thức không ổn định và có xu hướng tạo ra vòng luẩn quẩn của sự thái hóa và suy đồi” [17,86]

Thứ tư, thuật ngữ “dân chủ” được Arixtot nói đến trong khi phân chia các hình thức chính quyền, cũng chưa được sử dụng một cách thật chính xác.

Theo đó,mặc dù là người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ “dân chủ” trong lịch sử chính trị học phương Tây nhưng cách hiểu của Arixtot lại khác với chúng ta hiện nay. Ngày nay khi chúng ta nói đến dân chủ là nói đến sự tự do – bình đẳng của mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sắc tộc, tôn giáo… tất cả đều được bình đẳng trước pháp luật. Còn “dân chủ” được Arixtot hiểu theo nghĩa hạn chế hơn, đó là quyền lực thuộc về số đông nhưng là thành phần dân nghèo trong xã hội. Arixtot hiểu dân chủ là một hình thức nhà nước “do thành phần dân chúng tự do cai trị” [1,215], và “một chính quyền được xem là dân chủ khi những người tự do, vừa là đa số vừa là những người nghèo cai trị” [1,216]. Cho nên, tại sao chế độ dân chủ lại theo Arixtot lại bị coi là chế độ hủ bại trong các hình thức chính quyền.



Thứ năm, nhà nước lý tưởng mà Arixtot hướng đến lại có tính chất trung dung điều hòa các giai cấp trong xã hội

Mặc dù xã hội như Arixtot xây dựng có tính chất nhân đạo hướng đến đời sống chung của con người, nhưng về bản chất ta thấy quan niệm đó có tính chất điều hòa giai cấp, xóa bỏ tính chất đấu tranh giai cấp hơn là nhà nước thuộc về một giai cấp nhất định. Chế độ trung dung được Arixtot định hướng xây dựng là một chế độ không thuộc hẳn về giai cấp lao động cũng không thuộc hẳn về giai cấp tư hữu, đó là sự kết hợp của cả chế độ dân chủ lẫn chế độ quả đầu. Quan niệm này chính là quan niệm điều hòa giai cấp chứ không có tính chất cách mạng. Arixtot cũng không có ý định phân chia giai cấp một cách rõ ràng, biện pháp ông đưa ra là xây dựng một nhà nước trung dung là việc làm giảm đi mâu thuẫn giai cấp trong lòng xã hội cổ đại lúc bấy giờ. Ông muốn quy tất cả các giai cấp hài hòa trong một nhà nước được gọi là lý tưởng, đó là mục đích nhân đạo, song khó có thể thực hiện được vì bản chất của nhà nước phải có tính chất giai cấp nhất định, cho nên quan niệm xây dựng nhà nước lý tưởng của ông dễ bị xếp vào những tư tưởng có tính không tưởng, không thể thực hiện được. Nhà nước phải thuộc về một giai cấp nhất định chứ không thể thuộc về một số ít người của một số nhóm người trong xã hội.



Thứ sáu, hạn chế không chỉ ở Arixtot mà ở thời đại Arixtot sinh sống, đó chính là việc chứa đựng tư tưởng phân biệt giai cấp.

Mặc dù ông hướng lý luận đến việc xây dựng một nhà nước trung dung, nhưng ông cũng mắc phải sai lầm ở chỗ, ông đã phân biệt giai cấp, xem nô lệ không phải là con người, xem người lao động tay chân là nô lệ cho những người lao động trí óc, phụ nữ là nô lệ cho đàn ông và xã hội. Chính vì lý do đó, ông không đưa ra quan niệm giải phóng nô lệ,lao động chân tay và phụ nữ, ông chỉ hướng đến tầng lớp trung gian, không giàu quá cũng không nghèo quá trong xã hội. Và thực chất, quan niệm của Arixtot vẫn chịu ảnh hưởng của tầng lớp tư hữu, có tài sản trong xã hội. Ông nêu lên quan niệm về việc xây dựng một nhà nước lý tưởng là nhằm điều hòa lợi ích của các giai cấp tư hữu trong xã hội, dù có nhiều hay ít số lượng tài sản. Còn đối với tầng lớp nô lệ và lao động chân tay lại không được nhiều quyền lợi và bị Arixtot bỏ rơi họ trong tư tưởng của mình. Đó cũng là hạn chế lớn nhất của Arixtot. Tuy nhiên, hạn chế đó không phải do Arixtot đặt ra mà nó chịu ảnh hưởng từ thời đại mà ông sinh sống. Chính vì lý do này, ta đã hiểu được vì sao cần phải tìm hiểu thời đại mà các triết gia sinh sống để hiểu vì sao trong tư tưởng của họ lại có những quan niệm như vậy.

Như vậy, ta đã phân tích đầy đủ những giá trị và hạn chế của Arixtot trong tác phẩm. Không thể vì những hạn chế có tính thời đại mà ta bỏ qua những giá trị to lớn trong những quan niệm về nhà nước của Arixtot được nhắc đến trong tác phẩm. Giá trị to lớn của ông vượt ra khỏi thời đại và đặt nền tảng lý luận to lớn trong nền triết học chính trị phương Tây sau này. Do đó, công việc cuối cùng trong bản luận văn này là phân tích sự ảnh hưởng của Arixtot đối với nền lý luận và thực tiễn chính trị phương Tây sau này.

PHẦN KẾT LUẬN

Với những phân tích và đánh giá trên đây về tác phẩm ''Chính trị luận" của Arixtot đã đủ để ta thấy Arixtot có tầm quan trọng như thế nào đối với lý luận và thực tiễn chính trị phương Tây. Với tác phẩm và những nội dung được Arixtot nêu lên tạo nên một hệ thống tri thức toàn vẹn và đa dạng về các vấn đề liên quan đến nhà nước. Không chỉ có vậy, chúng ta còn nhận thức rõ nét hơn về phương pháp tư duy logic và hệ thống của tác giả này. Chính vì những điều đó đã có rất nhiều những đánh giá xác đáng cho tác gia triết học này trong lịch sử khoa học. C.Mác đã cho rằng “Arixtot là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại” và xem ông chính là “Hoàng đế Macedonia trong triết học”. Còn Ph.Anghen cũng có nhận xét sáng giá không kém. Ông cho rằng Arixtot “là khối óc toàn diện nhất trong số các triết gia cổ đại Hy Lạp”. Đây là những nhận xét hoàn toàn chính xác đối với Arixtot. Với những thành tựu đạt được trong triết học nói chung và lý luận chính trị nói riêng, Arixtot xứng đáng nhận được sự đánh giá đó của nhân loại. Tác phẩm của Arixtot vẫn là một trong những kho tàng tri thức vĩ đại của nhân loại, mà chúng ta đi cũng chưa đến nơi cho được. Đây cũng là một lĩnh vực mà các nhà khoa học và chính trị học cần phải đào sâu tìm kiếm để phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm tàng nằm trong tư tưởng của Arixtot.

Ngoài ra, độc giả còn tìm thấy nhiều nội dung hữu ích nữa từ cuốn sách. Những ai yêu thích lịch sử nhân loại, đặc biệt là Hy Lạp cổ đại sẽ tìm thấy trong tác phẩm những sinh hoạt văn hóa – chính trị - xã hội sống động tại Hy Lạp cổ đại. Những ai yêu thích tư tưởng chính trị sẽ tìm thấy các ý tưởng độc đáo của những tác giả kinh điển như Platon, Xocrate,.. và đặc biệt là nhà thông thái Arixtot nổi tiếng nhân loại. Điều đó sẽ rất hữu ích cho việc nghiên cứu và học tập lịch sử tư tưởng của triết học phương Tây nói chung và Hy Lạp cổ đại nói riêng.

Đối với độc giả Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp tinh hoa, cuốn sách còn có ý nghĩa ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn diện, đa dạng và mới mẻ về chính trị. Cho thấy không thể có một mô hình nào chung cho mọi quốc gia. Dựa trên những tư tưởng được Arixtot nêu lên trong toàn bộ tác phẩm, mỗi độc giả có thể tự xây dựng cho mình một mẫu hình nhà nước có thể phù hợp với Việt Nam. Chúng ta không thể đi theo những khuôn mẫu có sẵn và quan trọng hơn chúng ta nhận thức được rằng chúng ta cần phải học hỏi từ những truyền thống tư duy chính trị khác nhau để hoàn thiện tư duy chính trị của chúng ta. Tương lai của công cuộc cải cách thể chế chính trị ở Việt Nam sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự tìm hiểu và phản biện lẫn nhau của các học giả và chính trị gia về mọi khía cạnh cấu thành nhà nước và các tư tưởng độc lập dân tộc và bình đẳng dân chủ của chúng ta. Tác phẩm ''Chính trị luận" của Arixtot chắc chắn sẽ một sự khởi đầu tốt để chúng ta cùng nhau xây dựng một thể chế chính trị thích hợp nhất cho Việt Nam…/



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Arixtot , “Chính trị luận”, NXB Thế giới, 2013

2. Almanach, “5000 năm nền văn minh thế giới”, NXB Văn hóa Thông tin, 2006

3. Bộ giáo dục và đào tạo, Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2008



4. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1995

5. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 2, NXB Sự Thật, 1962

6. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1995

7. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1995

8. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 17, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1995

9. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập,  “Phê Phán cương lĩnh Gotha” tập 19, Nxb.CTQG, HN, 1995.

10. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập,  “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước” tập 21, Nxb.CTQG, HN, 1995.

11. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 22, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1995

12. Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lịch sử các học thuyết chính trị, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1995

13. Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Từ các triết học tự nhiên đến K.Mác, NXB ĐHQG TPHCM, 2001

14. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác - Lenin, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.

15. Đỗ Minh Hợp, Lịch sử triết học đại cương, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010

16. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (đồng chủ biên), Đại cương lịch sử triết học Phương Tây, NXB Tổng hợp Hồ Chí Minh, 2006



17. David Held, “Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại”, NXB Tri thức, 2013

18. Lenin toàn tập, Nhà nước và Cách mạng, tập 33, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005

19. Machiavelli, “Quân vương (Thuật trị nước)”, Vũ Mạnh Hồng và Nguyễn Hiền Chi dịch, NXB Lý luận chính trị, 2005



20. Hà Thúc Minh, Triết học cổ đại Hy Lạp La Mã, NXB Mũi Cà Mau, 2000

21. Lương Minh, Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012



22. Lewis H.Morgan, “Xã hội cổ đại - hay con đường nghiên cứu đi lên của loài người từ mông muội qua dã man đến văn minh”, NXB Giáo dục Việt Nam, 2002

23. Nhóm Giáo sư triết học Đại học Pháp, Triết học Tây Phương từ khởi thủy đến đương đại, NXB Văn hóa thông tin, năm 2010

24. Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học Tây Phương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2000

25. Platon, “Nền cộng hòa”, NXB Thế giới, 2013

26. PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn, PGS.TS Trần Ngọc Linh, PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên (Đồng chủ biên), “Tập bài giảng về quan điểm chính trị trong một số tác phẩm kinh điển Mác – Lenin”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011

27.Từ điển triết học, NXB Maxcơva, 1975

28. Trần Đăng Sinh, Lịch sử triết học, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2010

29. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998

30. Viện Khoa học hàn lâm Liên Xô, “Lịch sử triết học – Triết học của xã hội nô lệ”, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1958

31. Nguyễn Ước, Đại cương Triết học Tây phương, NXB Tri Thức, 2009



Các tài liệu trên internet:

http://www.sachgiaoduchcm.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1052:xa-hi-c-i-hay-nghien-cu-cac-con-ng-i-len-ca-loai-ngi-t-mong-mui-qua-da-man-n-vn-minh&catid=23:bai-gii-thiu-sach&Itemid=102

http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/?topic=3&subtopic=88

http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/4lanhtu/?topic=3&subtopic=91

http://idoc.vn/tai-lieu/tu-tuong-chinh-tri-cua-arixtot.tailieu

http://www.baomoi.com/Hai-cuon-sach-nho-cua-nhung-nguoi-khong-lo/152/10602904.epi

http://plato.stanford.edu/entries/aristotle-politics/

http://www.iep.utm.edu/aris-pol/

http://en.wikipedia.org/wiki/Politics_(Aristotle)

http://www.u.arizona.edu/~kamtekar/papers/Aristotle'sSocial&PoliticalPhilosophy.pdf







tải về 0.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương