MÃ ngành : 05115 ĐỀ TÀI : XÂy dựng hệ thống hỗ trợ giao tiếp trong doanh nghiệP



tải về 366.24 Kb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2017
Kích366.24 Kb.
#32850
1   2   3   4   5

.IVRED 5 Server


Red5 Server là server Flash RTMP mã nguồn mở được viết bằng Java hỗ trợ nhiều tính năng như:

  • Streaming Audio/Video(mp3 và Flv).

  • Hỗ trợ lưu luồng từ Client( chỉ hỗ trợ lưu dạng flv).

  • Hỗ trợ Shared Object.

  • Hỗ trợ phát trực tiếp từ client.

  • Hỗ trợ remoting(AMF).

Red5 server là một giải pháp để thay thế cho Flash Media Server. Red5 cung cấp nhiều chức năng tương tự như FMS nhưng hoàn toàn miễn phí. Bên cạnh đó Red5 còn hỗ trợ một số chức năng hữu ích khác như khả năng chặn dòng đang phát hay hỗ trợ một số thư viện java khác như Hibernate.

Ngoài ra thì Red5 còn hỗ trợ việc chuyển đổi định dạng các file Media bằng cách sử dụng thư viện Xuggler.


.VCơ sở dữ liệu MySQL

.V.1.Giới thiệu về MySQL


MySQL là một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu quan hệ (RDBMS) phổ biến được sử dụng rộng rãi, ước tính đã có hơn 11 triệu bản MySQL được tải và cài đặt trên toàn thế giới, trong đó có những website lớn như Flickr, FaceBook, WikiPedia, Google, Youtube… sử dụng MySQL để lưu trữ dữ liệu.

MySQL là phần mềm mã nguồn mở theo chuẩn GNU được phát triển bởi công ty MySQL AB, một công ty con của Sun MicroSystems. MySQL được viết bằng C và C++, bộ phân tích cú pháp SQL sử dụng yacc và home-brewed lexer, sql_lex.cc.

MySQL có thể chạy trên nhiều nền tảng khác nhau bao gồm AIX, BSDi, FreeBSD, HP-UX, i5/OS, Linux, Mac OS, NetBSD, Novell Netware, OpenBSD, Solaris, OS/2 warp, eComStation, QNX, IRIX, Symbian, SunOS, SCO OpenServer, SCO, Unixware, Sanos, Tru64,Microsoft Windows.

Thư viên để lập trình kết nối làm việc với MySQL đều có với hầu hết các ngôn ngữ lập trình hiện nay dưới dạng các thư viện API. Thêm vào đó, giao diện MyODBC cho phép tất cả các ngôn ngữ lập trình hỗ trợ ODBC có thể kết nối và làm việc với MySQL như ngôn ngữ ASP hay ColdFusion.

Để quản trị cơ sở dữ liệu trong MySQL, quản trị viên có thể dùng hệ thống điều khiển dòng lệnh như mysql hay mysqladmin hoặc tải và cài đặt công cụ quản trị giao diện đồ họa như phpMyAdmin, MySQL Administrator hay MySQL Query Browser giúp việc quản lý cơ sở dữ liệu dễ dàng hơn.

.V.2.Lịch sử phát triển


MySQL ban đầu được phát triển bởi Michael Widenius và David Axmark năm 1994.

Ngày 23 tháng 5 năm 1995 phiên bản đầu tiên được đưa ra.

Phiên bản đầu tiên cho Windows phát hành năm 1998 hỗ trợ Windows 95, NT.

Phiên bản 3.23 được phát hành tháng 1 năm 2001.

Phiên bản 4.0 được phát hành tháng 3 năm 2003.

Phiên bản 5.0 chính thức được phát hành vào tháng 10 năm 2005.

Phiên bản 5.1 được phát hành tháng 11 năm 2008.

.V.3.Vấn đề bản quyền và hỗ trợ


Người sử dụng có thể nhận hỗ trợ từ công ty MySQL AB, bao gồm dịch vụ 24/7 trả lời trong vòng 30 phút, nhóm hỗ trợ sẽ liên lạc trực tiếp với đội ngũ phát trển để giải quyết lỗi nếu cần thiết.Ngoài ra người dùng còn có thể sử dụng diễn đàn, email hoặc kênh chat IRC để nhận được sự hỗ trợ.

Những người mua phiên bản MySQL Enterprise có thể tải về cài đặt phiên bản đã được chứng nhận cho hệ điều hành họ sử dụng và tải các bản cập nhật hay vá lỗi hàng tháng. Có nhiều loại hình dịch vụ Enterprise khác nhau, như thời gian trả lời khi có sự cố khẩn cấp đến việc tối ưu hóa hay tìm các lời khuyên về kiến trúc hệ thống máy chủ.

Phiên bản MySQL miễn phí được phát hành theo giấy phép GNU, tuy nhiên người sử dụng phiên miễn phí sẽ không nhận được sự hỗ trợ cũng như các bản và khẩn cấp như người mua sản phẩm MySQL Enterprise.

.V.4.Các tính năng của MySQL


MySQL phiên bản 5.1 bao gồm những tính năng sau:

  • Hỗ trợ nhiều nền tảng khác nhau

  • Stored Procedures

  • Triggers

  • Cusors

  • Hỗ trợ true VARCHAR

  • INFOMATION_SCHEMA

  • Strict Mode

  • Hỗ trợ X/OPEN XA distributed transaction processing (DTP)

  • Hỗ trợ SSL

  • Lưu cache Query

  • Sub-SELECTs

  • Hỗ trợ Unicode

  • Và một số tính năng khác

.VITổng quan về XML

.VI.1.XML là gì


XML (viết tắt từ tiếng Anh eXtensible Markup Language – Ngôn ngữ đánh dấu mở rộng) là ngôn ngữ đánh dấu với mục đích chung do W3C đề nghị, để tạo ra các ngôn ngữ đánh dấu khác. XML là một tập tin văn bản thuần túy, nó là một bộ quy luật về cách chia tài liệu ra làm nhiều phần, rồi đánh dấu và ráp các phần khác nhau lại để dễ nhận diện chúng. Đây là một tập con đơn giản của SGML (Standard Generalized Markup Language – Siêu ngôn ngữ có khả năng sinh ngôn ngữ khác), có khả năng mô tả nhiều loại dữ liệu khác nhau. Mục đích chính của XML là đơn giản hóa việc chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống khác nhau, đặc biệt là các hệ thống được kết nối với Internet. Các ngôn ngữ dựa trên XML (ví dụ: RDF, RSS, MathML, XHTML, SVG, và cXML) được định nghĩa theo cách thông thường, cho phép các chương trình sửa đổi và kiểm tra tính hợp lệ của XML bằng các ngôn ngữ này mà không cần có hiểu biết trước về hình thức của chúng.

.VI.2.Tầm quan trọng của XML


tính năng ưu việt nhất của XML đó là khả năng mở rộng kế thừa. Các tổ chức và công ty sẽ có khả năng mở rộng XML để đáp ứng những thử thách và các ứng dụng mới. Những ngôn ngữ dựa trên XML như: RDF (Resourse Definition Format) – đã được sử dụng từ lâu; CDF của Microsoft – hiện đang được sử dụng, và còn nhiều ngôn ngữ khác đang trong quá trình hoàn thiện sắp được đưa ra như OSD (Open Software Description).

Vì cả tài liệu XML đều nằm dưới dạng chuỗi văn bản (Text string) nên nếu gởi đi xa có hư mất chút đỉnh, đầu kia cũng đoán ra được. Mặc dù ta nói ai muốn đặt ra TAG nào trong XML cũng được, nhưng ví dụ mỗi nghề nghiệp như cơ khí, y học, tin học,... đều ấn định một số TAG, mỗi TAG có ý nghĩa theo sự đồng ý trước trong nghề của mình, người ta có thể dùng XML và trang tính mẫu (Style Sheet) để quy định cách chứa dữ liệu và ngay cả cách trình bày cho riêng nghề của mình.

Một công ty cơ khí có thể dùng một chương trình chạy tự động (Robot) để dò giá những vật tư từ các công ty cung cấp qua cách dùng XML. Đây là khởi đầu cho việc giao dịch kinh doanh tự động (Business-To-Business hay B2B). Có một quy ước về cách dùng XML để trao đổi dữ liệu đã được triển khai gọi là OFX (Open Financial eXchange Format – Định dạng trao đổi tài chính mở). Người ta thiết kế OFX để cho các chương trình tài chính như Microsoft Money và Quicken trao đổi dữ liệu hay gởi các dữ liệu tài chính đến nhà băng,...

Vì XML là một chuẩn công cộng, không thuộc về một công ty nào, nên người dùng không sợ phải đụng chạm ai về bản quyền, hay bị giới hạn cách sử dụng,... Ví dụ như, với XML ta có thể tránh phải lệ thuộc hoàn toàn vào Microsoft Word khi gởi một tài liệu vì sợ đầu kia người ta không có Microsoft Word. Miễn là tất cả các phần mềm soạn thảo văn bản (Word Processors) đều đọc và viết được XML, ta có thể dùng XML làm phương tiện trao đổi các tài liệu. Người dùng ở mỗi nơi có thể tự do chọn một phần mềm soạn thảo văn bản theo sở thích.

XML không những cho chúng ta định nghĩa các phần của tài liệu mà còn đặt qui ước về sự liên hệ của các phần ấy.

Vào năm 1998 hoặc 1999 thì còn quá sớm để xác định được XML sẽ đi đến đâu. Nhưng đến thời điểm hiện tại thì XML được thừa nhận là một chuẩn giao dịch thông tin, một lý do chính để hiểu tại sao có quá nhiều sự xôn xao tập trung quanh XML. Tổ hợp Web toàn cầu W3C đã chính thức đưa ra chuẩn XML ver 1.0


.VI.3.Đặc điểm của XML


XML cung cấp một phương tiện dùng văn bản (text) để mô tả thông tin và áp dụng một cấu trúc kiểu cây cho thông tin đó. Cơ bản mọi thông tin đều thể hiện dưới dạng văn bản, chen giữa là các thẻ đánh dấu (markup) với nhiệm vụ ký hiệu sự phân chia thông tin thành một cấu trúc có thứ bậc của các dữ liệu ký tự, các phần tử dùng để chứa dữ liệu, và các thuộc tính của các phần tử đó. Về mặt nào đó, XML tương tự với các biểu thức S (S-expression) của ngôn ngữ lập trình LISP ở chỗ chúng đều mô tả các cấu trúc cây mà trong đó mỗi nút có thể có một danh sách tính chất của riêng mình.

Đơn vị cơ sở của XML là các ký tự theo định nghĩa của bộ ký tự toàn cầu (Universal Character Set). Các ký tự được kết hợp theo các tổ hợp chuỗi hợp lệ để tạo thành một tài liệu XML. Tài liệu này gồm một hoặc nhiều thực thể, mỗi thực thể thường là một phần nào đó của các ký tự thuộc tài liệu, được mã hóa dưới dạng một chuỗi các bit và lưu trữ trong một tệp văn bản (text file).

Các tệp XML có thể dùng cho nhiều loại dữ liệu đa phương tiện. RFC3023 định nghĩa các loại "application/xml" và "text/xml", với ý rằng dữ liệu được biểu diễn bằng XML mà không nói gì đến ngữ nghĩa của dữ liệu.

Sự phổ biến của các phần mềm soạn thảo văn bản (word processor) đã hỗ trợ việc soạn thảo và bảo trì tài liệu XML một cách nhanh chóng. Trước XML, có rất ít ngôn ngữ mô tả dữ liệu với các đặc điểm đa năng, thân thiện với giao thức Internet, dễ học và dễ tạo. Thực tế, đa số các định dạng trao đổi dữ liệu thời đó đều chuyên dụng, có tính độc quyền, và có định dạng nhị phân (chuỗi bit thay vì chuỗi ký tự) khó dùng chung giữa các ứng dụng phần mềm hay giữa các nền (platform) khác nhau. Việc tạo và bảo trì trên các trình soạn thảo thông dụng lại càng khó khăn.

Bằng cách cho phép các tên dữ liệu, cấu trúc thứ bậc. Ý nghĩa của các phần tử và thuộc tính có tính chất mở, có thể được định nghĩa bởi một giản đồ tùy biến được. XML cung cấp một cơ sở cú pháp cho việc tạo lập các ngôn ngữ đánh dấu dựa theo yêu cầu XML. Cú pháp chung của các ngôn ngữ đó là cố định, các tài liệu phải tuân theo các quy tắc chung của XML, bảo đảm rằng tất cả các phần mềm hiểu XML ít ra cũng phải có khả năng đọc (phân tích cú pháp – parse) và hiểu bố cục tương đối của thông tin trong các tài liệu đó. Giản đồ chỉ bổ sung một tập các ràng buộc cho các quy tắc cú pháp. Các giản đồ thường hạn chế tên của phần tử, thuộc tính và các cấu trúc thứ bậc được phép. Ví dụ, chỉ cho phép một phần tử tên “ngày sinh” chứa một phần tử tên “ngày” và một phần tử có tên “tháng”, mỗi phần tử phải chứa đúng một ký tự. Đây là điểm khác biệt giữa XML và HTML. HTML có một bộ các phần tử và thuộc tính không mềm dẻo, chỉ có một tác dụng và nói chung là không thể dùng cho mục đích khác.

XML không hạn chế về việc nó được sử dụng như thế nào. Mặc dù XML về cơ bản là dạng văn bản, các phần mềm với chức năng trừu tượng hóa nó thành các định dạng khác, giàu thông tin hơn đã nhanh chóng xuất hiện, quá trình trừu tượng hóa này được thực hiện chủ yếu qua việc sử dụng các giản đồ định hướng kiểu dữ liệu (datatype-oriented schema) và khuôn mẫu lập trình hướng đối tượng (mà trong đó, mỗi tài liệu XML được thao tác như là một đối tượng). Những phần mềm như vậy có thể coi XML như là dạng văn bản đã được tuần tự hóa chỉ khi nó cần truyền dữ liệu qua mạng.



frame7
Hình 7: Ví dụ một tập tin xml

CHƯƠNG 3

Каталог: books -> luan-van-de-tai -> luan-van-de-tai-cd-dh
luan-van-de-tai-cd-dh -> Thế kỷ 21, cùng với sự phát triển nh­ vũ bão của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế tác động đến tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội
luan-van-de-tai-cd-dh -> VIỆN ĐẠi học mở HÀ NỘi khoa công nghệ thông tin đỒ Án tốt nghiệP ĐẠi họC
luan-van-de-tai-cd-dh -> Phần một : Tình hình thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn việt nam hiện nay
luan-van-de-tai-cd-dh -> TRƯỜng đẠi học cần thơ khoa công nghệ BỘ MÔN ĐIỆn tử viễn thôNG
luan-van-de-tai-cd-dh -> Em xin chân thành cảm ơn! Vị Xuyên, ngày 19 tháng 5 năm 2012 sinh viêN
luan-van-de-tai-cd-dh -> PHẦn I mở ĐẦu tầm quan trọng và SỰ ra đỜi của giấY
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài: Tìm hiểu về vấn đề sử dụng hợp đồng mẫu trong đàm phán ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam
luan-van-de-tai-cd-dh -> Đề tài phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cà phê nhân của các doanh nghiệP
luan-van-de-tai-cd-dh -> Giao tiếp máy tính và thu nhận dữ liệU ĐỀ TÀI: TÌm hiểu công nghệ 4g lte

tải về 366.24 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương