Lâm Ngữ Đường


TINH THẦN PHÓNG KHOÁNG VÀ ĐỘC LẬP



tải về 1.38 Mb.
trang6/21
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.38 Mb.
#4040
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21

5. TINH THẦN PHÓNG KHOÁNG VÀ ĐỘC LẬP
 
Ngày nay hình như hạng quân nhân được trọng hơn hạng người phóng lãng và được coi là hạng người lí tưởng cao quí nhất của nhân loại. Đáng lẽ cần có những cá nhân phóng khoáng, độc lập, tự do thì xã hội chúng ta sắp phải có những công nhân ái quốc, hợp lí hoá, nhất luật hoá, gò bó vào kỉ luật, vào đoàn thể và bị kiểm soát, tổ chức một cách hiệu quả đến nỗi một quốc gia năm sáu chục triệu người cùng thờ một chủ nghĩa, cùng một loại tư tưởng, cùng thích một loại thức ăn. Đành rằng cả hai quan niệm trái ngược nhau về phẩm cách tôn nghiêm của nhân loại đó đều có lí cả: một quan niệm coi con người phóng lãng là lí tưởng, một quan niệm coi quân nhân là lí tưởng; một quan niệm cho rằng người nào còn giữ được tự do và cá tính của mình là người cao quí nhất, một quan niệm cho rằng người nào từ bỏ cái quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng để hoàn toàn lệ thuộc vào kẻ thống trị hoặc quốc gia, là người ấy tốt nhất. Người ta có thể dùng ý thức phổ thông để binh vực quan niệm trên; dùng óc luận lí để bênh vực quan niệm dưới và chứng minh rằng con người máy ái quốc là một công dân kiểu mẫu, ích lợi cho quốc gia, mà quốc gia nào muốn tồn tại thì phải tiêu diệt tất cả những quốc gia khác. Thực là khó tin, một quan niệm như vậy mà đã được và hiện còn được nhiều quốc gia “văn minh” và “khai hoá” ở Âu châu chủ trương.
 
Riêng tôi thì mặc dầu quan niệm đó hợp luận lí cách nào, tôi vẫn thích quan niệm phóng nhiệm hơn, thích con người phóng khoáng hơn, mà lòng ngưỡng mộ văn minh phương Tây của tôi đã giảm đi rất nhiều từ năm 1919-1920. Trước hồi đó, tôi xấu hổ về văn minh Trung Hoa, và cho rằng Trung Hoa không có hiến pháp, không có công quyền, thì thực là một khuyết điểm lớn, và tôi tin rằng một chính phủ lập hiến cộng hoà hay dân chủ, là một tấn bộ trên phương diện văn hóa. Nhưng, bây giờ tôi nhận thấy rằng nhân quyền và tự do cá nhân, cả quyền tự do tín ngưỡng mà người Trung Hoa từ hồi nào đến giờ vẫn được hưởng, đều có thể bị chà đạp ngay trên khu vực phát triển của văn minh phương Tây, rằng ở Trung Âu ngày nay có nhiều nô lệ hơn ở Trung Hoa thời phong kiến.
 
Tôi biết rằng người phương Tây sẽ bảo những học thuyết về tự do cá nhân, về công quyền của họ đã đâm rễ sau trong tâm hồn họ rồi, đã thành một tín ngưỡng hoặc một bản năng rồi, tất có đủ sinh lực để đảo ngược lại tình thế và thói đào tạo, biểu dương hạng công nhân nhất luật hoá hiện nay sẽ mất hẳn. Vâng, chúng ta đợi thủ coi.
 
Hình như ở thời đại chúng ta, thời đại mà phong trào tập thể phát động mạnh – tập thể xã hội, tập sản kinh tế, tập thể chính trị - thì nhân loại tự nhiên quên mất cái quyền phản kháng của mình và cái phẩm cách của cá nhân đi. Vấn đề kinh tế được đưa lên hàng đầu và tư tưởng kinh tế khuynh loát tất cả tư tưởng khác; vì vậy mà chúng ta thành ra hoàn toàn dửng dưng với một thứ khoa học, một thứ triết học hợp với nhân tính hơn, một thứ triết học chú trọng tới đời sống cá nhân. Lẽ đó tự nhiên. Một người lở bao tử thì chỉ nghĩ tới bao tử; một xã hội mà kinh tế không lành mạnh thì chỉ nghĩ tới các vấn đề kinh tế. Hậu quả là chúng ta hoàn toàn lãnh đạm với cá nhân và quên hẳn rằng có cá nhân. Ngày xưa mỗi người là một con người, ngày nay mỗi người chỉ được coi như một vật tự động nhắm mắt tuân theo những luật vật chất và kinh tế, như một cái răng trong một bánh xe, như một phần tử trong một giai cấp, như một ngoại nhân mà chính phủ “nhập cảng”, như một kẻ tiểu tư sản mà người ta khinh bỉ, hoặc như một nhà đại tư bản mà người ta tố cáo, hoặc như một người lao động mà người ta gọi là đồng chí chỉ vì người đó là lao động. Hình như chỉ gọi một người nào là tiểu tư sản hoặc đại tư bản hoặc lao động là đã hiểu rõ người đó rồi, và có thể ghét người đó một cách thích đáng hoặc giúp người đó như một đồng chí rồi. Chúng ta không còn là những cá nhân, những con người nữa mà chỉ là những giai cấp. Như vậy chẳng là giản dị hoá sự tình một cách quá mức ư? Chúng ta vui vẻ và hăng hái tiến lần đến xã hội kiểu mẫu của loài sinh vật nào đó.
 
Ở một thời đại mà khoa học cơ giới tự hào về những thực hiện của nó, về những công cuộc chinh phục thiên nhiên của nó, thì một quan niệm máy móc về con người cũng xuất hiện. Khoa học đó lũng đoạn những môn khác, cái luận lí máy móc của nó đã đem áp dụng vào xã hội loài người và cái danh từ uy nghiêm “luật thiên nhiên” được các nhà nghiên cứu nhân sự rất ưa dùng. Do đó mà lí thuyết này chiếm được ưu thế: “hoàn cảnh quan trọng hơn con người, và cá tính con người có thể đặt thành một phương trình được 53 [3] “. Lí thuyết đó có thể tốt về kinh tế học, nhưng rất dở về sinh học. Môn sinh vật học nhận rằng trong sự phát triển của sinh mệnh, sức phản ứng của cá nhân là một yếu tố cũng quan trọng như hoàn cảnh vật chất, cũng như một lương y nhận rằng tính tình cùng phản ứng của bệnh nhân là một yếu tố rất quan trọng trong sự kháng cự với bệnh. Cứ theo lí thuyết thì nhiều bệnh nhân đáng lí phải chết, nhưng họ nhất định không chịu chết, rồi mà bình phục được, làm cho y sĩ phải kinh ngạc. Một y sĩ dùng chung một phương thuốc để trị hai người cùng mắc một thứ bệnh và tin rằng phản ứng của cơ thể hai người đó sẽ như nhau thì quả thực là nguy hại cho xã hội. Bọn triết gia cũng nguy hại như vậy nếu họ quên mất cá nhân, quên mất rằng mỗi người có thể phản ứng lại một cách khác nhau, và thái độ, hành vi của con người thường thay đổi, không sao biết trước được.
 
Có thể tôi chẳng hiểu một chút gì về môn kinh tế, nhưng chính môn kinh tế cũng không hiểu tôi nữa. Môn đó hiện nay còn lúng túng, chưa có thể tự nhận là một khoa học được. Nó chỉ bàn về các món hàng mà không tiến xa hơn, không bàn về động cơ của con người, như vậy nó không phải là một môn khoa học; mà dù nó có bàn về các động cơ của con người, nhưng chỉ dùng những bảng thống kê thì nó cũng vẫn chưa phải là một khoa học, may lắm chỉ có tính cách bán-khoa-học 54 [4] thôi. Nó chưa tìm ra được một kĩ thuật thích đáng để nghiên cứu tâm trí con người, cho nên nó vẫn lúng túng, dò dẫm trong bóng tối. Vì vậy, mỗi khi cần lựa chọn một chính sách quan trọng về kinh tế thì ta thấy có hai nhà chuyên môn đưa ra những đề nghị trái ngược hẳn nhau. Một nhà tin rằng nếu nước Anh bỏ kim bảng vị đi thì thật là tai hại; nhà kia cũng kiên quyết tin rằng chỉ có cách bỏ kim bản vị đi mới cứu vãn được tình thế. Ngay các nhà chuyên môn tài giỏi nhất cũng không thể dự tính được một cách hợp lí khi nào người ta bắt đầu mua vào hoặc bán ra. Do đó mới có những vụ đầu cơ ở thị trường chứng khoán. Mà sở chứng khoán dù có những tài liệu đáng tin nhất về kinh tế thế giới cũng không thể đoán trước một các khoa học được khi nào giá vàng, giá bạc, giá thương phẩm lên hay xuống. Chỉ vì trong vấn đề đó có một yếu tố về nhân sự, và khi nhiều người bán ra thì một số ít người bắt đầu mua vào; mà khi nhiều người mua vào thì có một số ít người bắt đầu bán ra. Tất nhiên kẻ bán ra cho kẻ mua vào là điên, và ngược lại cũng vậy. Nhưng ai mới thực là điên thì tương lai mới chứng thực được. Điều đó minh chứng rằng thái độ của con người rất bất thường, không sao biết trước được, mà chẳng phải chỉ riêng trong công việc làm ăn, ngay cả trong quá trình lịch sử do tâm lí con người tạo nên, trong những phản ứng của con người đối với luân lí, phong tục, cải cách xã hội thì nhận xét trên cũng vẫn đúng .
 
6. CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
 
Chẳng những triết lí phải dựa vào cá nhân mà phát sinh, mà mục tiêu tối hậu của nó cũng là cá nhân. Cá nhân tự nó là mục tiêu của nó rồi chứ không phải là công cụ cho những sáng tạo của tâm trí. Những triết lí xã hội tốt đẹp nhất đều nhắm cái mục tiêu tối cao này là trong một chế độ nào đó, làm sao tạo được những đời sống cá nhân sung sướng nhất. Nếu có những triết lí phủ nhận điều đó thì nó chỉ là những sản phẩm của những bộ óc bệnh hoạn, mất quân bình.
 
Muốn xét một văn hóa thì cứ xét hạng đàn ông và đàn bà mà nó tạo thành. Chính vì nghĩ như vậy mà Walt Whitman, một trong những người Mĩ minh triết, sáng suốt nhất, chủ trương trong cuốn Democrative Vistas (Viễn cảnh dân chủ) rằng nguyên tắc cá nhân phải là mục tiêu của mọi nền văn minh. Ông viết “Văn minh dựa trên cơ sở nào? Văn minh với các tôn giáo, các nghệ thuật, các học hiệu của nó… nhằm đạt được cái gì nếu không phải là đạt được chủ nghĩa cá nhân phong phú, mĩ lệ, đa sắc thái. Tất cả đều phải hướng vào mục tiêu đó cả (…)
 
“Trải bao nhiêu sự biến thiên, nhiều khi thất thố đến lố bịch, nhiều khi phải tranh đấu, phải thất bại, chế độ dân chủ luôn luôn nhắm mục đích này là dù gian lao tới mấy cũng rán chịu, miễn làm sao chứng minh được rằng loài người được dạy dỗ trong một xã hội tự do, một thứ tự do lành mạnh và cao cả, thì có thể và nhất định phải thành một luật pháp cho chính mình”.
 
Rút cục không phải hoàn cảnh mới là quan trọng, chính phản ứng của ta với hoàn cảnh mới là quan trọng. Pháp, Đức, Anh, Mĩ đều sống trong một nền văn minh cơ giới như nhau, nhưng hình thức và ý vị đời sống của họ khác nhau và mỗi dân tộc giải quyết vấn đề chính trị của mình theo một lối khác nhau. Đời sống có biết bao hình thức như vậy, thì chỉ có hạng người điên mới bảo rằng con người thế nào cũng bị cơ giới khống chế. Một người cha có hai đứa con, dạy dỗ chúng như nhau, dự bị cho chúng vào đời như nhau, vậy mà rồi mỗi đứa cũng lần lần tạo ra một cuộc đời theo cá tính riêng của mình. Dù cả hai đều thành giám đốc ngân hàng, lãnh một số lương bằng nhau thì chúng cũng không giống nhau về những điểm khác, những điểm quan trọng cho hạnh phúc của chúng: khác nhau về sự khéo léo, về giọng nói, về tính tình, về cách cư xử và cách giải quyết vấn đề, cách đối đải với nhân viên; hoặc được nhân viên yêu, hoặc họ sợ, hoặc nghiêm khắc mà tỉ mỉ, hoặc vui vẻ mà dễ tính; khác nhau trong cách tiêu tiền vung phí hay kiệm tiện; về đời sống cá nhân, mỗi người có một thói trong sự giao du với bạn bè, trong sự đối đãi với vợ con, trong sự lựa chọn sách báo. Cùng sống trong một thời đại, trong một xã hội, cùng chết một ngày mà có người hăng hái tin tưởng tiến theo khuynh hướng của mình và tìm được hạnh phúc, có kẻ lại trải qua một cuộc đời chìm nổi, đổi hướng hoài; có người thành nhà phát minh, có kẻ thành nhà thám hiểm, có người tinh thần hái hước, kẻ lại rầu rĩ, quạo quọ; người thì bay vút lên cảnh phú quí như pháo thăng thiên rồi chết trong đám trong tro tàn lạnh lẽo của pháo, kẻ thì bán nước đá hay bán than rồi bị đâm chết trong cái liều của họ, để lại tới hai vạn Mĩ kim bằng vàng. Đời sống quả thật kì diệu, cả trong thời đại kĩ nghệ nữa. Con người còn là con người thì đời sống có nhiều sắc thái như vậy mới có ý vị.
 
Trong nhân sự - dù là về chính trị hay cách mạng xã hội – không thể có quyết định luận được. Yếu tố nhân tình làm đảo lộn tất cả các dự tính của những người đưa ra những lí thuyết mới, chế độ mới.
 
Nhưng sự quan trọng của cá nhân không phải chỉ do lẽ đời sống cá nhân là mục tiêu của tất cả mọi nền văn minh, mà còn lẽ này nữa: sự cải thiện đời sống xã hội và chính trị, sự cải thiện những quan hệ quốc tế là do hành động và tính tình của mỗi cá nhân trong mỗi quốc gia! Trong việc nội chính và trong sự tiến hoá của một quốc gia, yếu tố quyết định là tính khí của dân tộc. Vì trên tất cả những luật về sự phát triển kĩ nghệ, còn một yếu tố quan trọng hơn, tức lối hành động và lối giải quyết vấn đề của mỗi dân tộc.Rousseau không tiên liệu được sự diễn tiến của cách mạng Pháp và sự xuất hiện của Napoléon; mà Karl Marx cũng không tiên liệu được sự phát triển hiện nay của lí thuyết xã hội và sự xuất hiện của Staline. Không phải khẩu hiệu Tự do, Hoà bình, Bác ái, mà là vài nét nào đó trong bản tính của con người xét chung và trong bản tính của dân tộc Pháp xét riêng, đã quyết định diễn tiến của Cách mạng Pháp. Những dự ngôn của Karl Marx về sự diễn tiến của cách mạng xã hội đã sai be bét mặc dầu biện pháp của ông rất chính xác. Theo luật luận lí, ông dự đoán rằng một cuộc cách mạng vô sản sẽ xảy ra ở nước nào mà nền văn minh kĩ nghệ tiến nhất, mà giai cấp vô sản mạnh nhất, nghĩa là xảy ra trước hết ở Anh rồi có lẽ ở Mĩ, ở Đức. Nhưng sự thất là chế độ Cộng sản đã được thực nghiệm ở một sứ nông nghiệp như Nga, tại đó giai cấp vô sản không mạnh. Ông đã quên không tính tới yếu tố nhân sự ở Anh và Mĩ, quên cách hành động và giải quyết vấn đề của Anh và Mĩ. Lỗi lầm lớn nhất của một chính sách kinh tế chưa chính mùi, là quên không tiên liệu cái “bất ngờ” trong việc nước. Người Anh coi thường các lí thuyết, nếu cần, còn tìm cách lần lần phá nó nữa; sự chậm chạp của họ khi dò đường đi, lòng yêu tự do cá nhân, tôn trọng trật tự, nhất là có lương tri của họ, tất cả những cái đó ảnh hưởng nhiều tới sự diễn tiến của các biến cố còn hơn là những lí luận của nhà biện chứng Đức Karl Marx.
 
Vậy sự phát triển về xã hội và chính trị của một nước, rút cục căn cứ vào ý tưởng của cá nhân. Cái tính khí, cái mà người ta gọi là “thiên tài” của một dân tộc, rút cục do toàn thể cá nhân của dân tộc đó tạo thành; nó chỉ là cách cư xử và hành động của dân tộc đó, cách lựa chọn một thái độ trong một hoàn cảnh nào đó. Các sử gia phái cổ thường nghĩ như Hégel rằng lịch sử một nước chỉ là sự phát triển của một quan niệm, mà sự phát triển đó có tính cách tất nhiên của cơ giới, nhưng nếu xét một cách tế nhị thực tế hơn thì ta thấy phần ngẫu nhiên ở trong đó. Mỗi khi gặp bước nguy nan thì quốc gia phải lựa chọn mà trong khi lựa chọn luôn luôn có những thế lực, những dục vọng tương phản xung đột: bên đây chỉ thêm một chút, bên kia chỉ giảm một chút là cán cân trút về phía khác rồi. Vì mỗi dân tộc thích con đường nào thì theo con đường đó, ghét con đường nào thì bỏ con đường đó. Sự lựa chọn căn cứ vào trào lưu tư tưởng, vào quan niệm đạo đức và vào thành kiến xã hội.
 
Nhìn toàn diện sự biến chuyển của lịch sử nhân loại tôi chỉ thấy như thuỷ triều lên rồi xuống, mà khi lên cũng như khi xuống, đều là do sự lựa chọn bất thường, không thể biết trước của con người. Chính vì có ý đó mà Khổng giáo đem vấn đề “bình thiên hạ” liên kết với “tu thân”. Từ đời Tống trở đi, nhà Nho nào cũng dùng đoạn dưới đây làm bài học khai tâm cho trẻ mới nhập học: “Người xưa muốn làm sáng cái đức sáng ở trong thiên hạ thì trước phải trị nước mình; muốn trị nước mình thì trước phải tề nhà mình; muốn tề nhà mình thì trước phải tu thân (sửa mình); muốn tu thân thì trước phải thành cái ý của mình; muốn thành cái ý của mình thì trước phải trí tri; trí tri ở chỗ cách vật 55 [5] . Vật xét kĩ (cách vật) rồi sau cái tri mới được đến nơi đến chốn (trí tri), trí tri rồi sau ý mới thành, ý thành rồi sau tâm mới chính, tâm chính rồi sau thân mới tu, thân tu rồi sau gia mới tề, gia tề rồi sau nước mới trị, nước trị rồi sau thiên hạ mới bình. Từ Thiên tử cho đến người thường, nhất loạt đều phải lấy sự tu thân làm gốc. Cái gốc loạn mà cái ngọn trị, thì không thể có như vậy. Vật có gốc ngọn, việc có đầu đuôi. Biết cái nào trước cái nào sau là gần được đạo rồi đấy”.

 

Chú thích:




56 [1] Có lẽ tác giả muốn nói loài hải li (Goldfish).
57 [2] Thi sĩ và tiểu thuyết gia Đan Mạch (1805-1875) nổi danh về truyện ngắn: La petite Sirène, Les cynes sauvage… tưởng tượng phong phú, thi vị dồi dào.
58 [3] Nghĩa là một cá nhân sinh trong giai cấp nào ở trong những hoàn cảnh ra sao thì nhất định phải có cá tính ra sao.
59 [4] Nay thì đã khác rồi vì sách này tác giả viết trước thế chiến (1939-1945).
60 [5] Trí tri là biết cho đến nơi đến chốn; cách vật là cân nhắc sự vật để biết rõ cái nào trước cái nào sau, coi cái nào gốc cái nào ngọn, nghĩa là để hiểu cái tương quan của mọi sự vật. Đoạn này ở đầu sách Đại học. [Trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “(…) cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền), ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải là của Khổng tử mà của Tăng tử, tức “trí tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật”. (Goldfish)].


Lâm Ngữ Đường

Một Quan Điểm Về Sống Đẹp

Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê

CHƯƠNG V

AI CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐỜI ĐƯỢC HƠN CẢ?




[1] Trí tri là biết cho đến nơi đến chốn; cách vật là cân nhắc sự vật để biết rõ cái nào trước cái nào sau, coi cái nào gốc cái nào ngọn, nghĩa là để hiểu cái tương quan của mọi sự vật. Đoạn này ở đầu sách Đại học. [Trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “(…) cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền), ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải là của Khổng tử mà của Tăng tử, tức “trí tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật”. (Goldfish)].
[1] Nghĩa là họ đã tìm kiếm hết hơi rồi.
1. TA HÃY TỰ TÌM LẤY TA: TRANG TỬ
 
Trong chương này tôi rán trình bày vài quan niệm của các triết gia Trung Hoa về một lối sống kiểu mẫu. Tuy họ khác nhau về học thuyết, nhưng hết thảy đều nhận rằng muốn sống một đời sống sung sướng thì chúng ta phải minh triết và có dũng khí. Quan niệm tích cực của Mạnh Tử và quan niệm viên hoạt hiếu hoà của Lão Tử hoà hợp với nhau trong triết lí Trung Dung mà tôi muốn coi là một tôn giáo chung của dân tộc Trung Hoa. Sự xung đột giữa động (Mạnh Tử) và tĩnh (của Lão Tử) rút cục đưa tới một sự thoả hiệp này là dân tộc Trung Hoa tự lấy làm mãn nguyện trong một thế giới rất không hoàn mĩ, tức cõi trần này. Do đó mà có một triết lí sáng suốt, vui vẻ, và đời sống điển hình của triết lí đó là đời sống của Đào Uyên Minh, một thi nhân mà tôi cho là vĩ đại nhất, có tư cách điều hoà nhất của Trung Quốc.
 
Tất cả các triết gia Trung Hoa đều nhận trong thâm tâm rằng chỉ có mỗi vấn đề này là khá quan trọng: làm sao hưởng đời được và ai hưởng được đời hơn cả? Không truy cầu sự toàn thiện, không đeo đuổi những mục đích hão huyền, không tìm hiểu những cái không thể biết được; bản chất tầm thường của con người ra sao thì chịu nhận nó như vậy, rồi tự tổ chức lối sống ra sao để có thể yên ổn làm việc, nhận sự đau khổ với một tinh thần khoáng đạt và sung sướng ở đời.
 
Chúng ta là ai? Đó là vấn đề thứ nhất nhân loại đặt ra. Gần như không thể giải đáp được. Nhưng chúng ta đều nhận rằng cái “ta” đương lăng xăng về những hoạt động hàng ngày đây không phải hoàn toàn là cái “ta” chân thực. Chúng ta biết chắc rằng trong cuộc sống chúng ta đã đánh mất một cái gì đó. Khi thấy một người chạy khắp một cánh đồng tìm một vật gì, thì một người hiền minh có thể hỏi khách bàng quan câu này: Họ đánh mất cái gì vậy? Người thì đoán đánh mất một cái đồng hồ, người lại đoán đánh mất cây trâm nạm kim cương, mỗi người đưa ra một phán đoán. Người hiền minh kia cũng chẳng biết rõ sự thực ra sao, đợi cho mọi người đưa ra hết những ức đoán lầm lẫn ra rồi, mới bảo: “Tôi nói cho các bạn nghe nhé: họ đánh mất hơi thở của họ đấy!” 61 [1] . Và ai nghe cũng phải nhận là đúng.
 
Trong cuộc sinh hoạt, chúng ta cũng thường quên cái “ta” chân thực của mình đi, cũng như con chim khách quên nỗi nguy hiểm khi đuổi bắt con bọ ngựa, mà con này cũng quên nỗi nguy hiểm khi đuổi bắt một con mồi khác trong ngụ ngôn tuyệt diệu dưới đây của Trang Tử:
 
“Trang Chu dạo chơi trong vườn Điêu Lăng, thấy một con chim khách kì dị ở phương Nam bay lại, cánh rộng bảy thước, mắt tròn một tấc, bay sát trán Trang Chu rồi đậu ở một cây giẻ.
 
Trang Chu hỏi: “Loài chim nào đây? Cánh lớn như vậy mà không bay đi chỗ khác, mắt lớn như vậy mà không thấy gì cả”.
 
Ông bèn vén áo tiến nhanh lại, cầm cây cung lắp đạn muốn bắn nó. Lúc đó ông thấy một con ve đương hưởng bóng mát mà quên nó đi (không để ý đến chung quanh). Rồi ông thấy một con bọ ngựa nhảy tới bắt con ve, mà quên chính cái thân của nó đi; con chim khách kì dị kia thừa cơ vồ lấy nó, cũng vì lợi mà quên thân nó đi.
 
Trang Chu thở dài nói: “Ôi! Vật vẫn làm hại lẫn nhau. Lo cái lợi thì thế nào cái hại cũng theo sau”.
 
Rồi ông bỏ cây cung, trở về nhà, người coi vườn chạy lại hỏi ông vào vườn y làm gì.
 
Trang Chu về nhà rồi, ba tháng không ra khỏi nhà. Lận Thư lấy làm lạ, hỏi: “Sao thầy lâu quá không ra ngoài?”.
 
Trang Chu đáp: “Ta giữ cái hình hài của ta mà quên cái chân thân; ngó dòng nước đục quá mà quên cái vực trong. Vả lại ta nghe thấy Thầy ta dạy rằng “sống trong cõi tục thì phải theo tục”. Nay ta dạo chơi ở Điêu Lăng mà quên mất thân ta; con chim khách kì dị kia bay sát trán ta để lại cây giẻ mà quên mất thân nó; người giữ vườn giẻ đó tưởng ta là kẻ trộm; vì vậy mà ta không ra khỏi nhà nữa” 62 [2] .
 
Trang Tử là môn sinh của Lão Tử cũng như Mạnh Tử là môn sinh cũng Khổng Tử, cả hai đều có khẩu tài, đều sống cách sư phụ khoảng trăm năm. Trang Tử đồng thời với Mạnh Tử cũng như Lão Tử đồng thời với Khổng Tử. Mạnh Tử đồng ý với Trang Tử ở chỗ chúng ta đánh mất một phần nhân tính, và nhiệm vụ của triết học là phải tìm kiếm thu hồi cái phần đánh mất đó, cái mà ông ta gọi là “xích tử chi tâm” – tấm lòng đứa con đỏ - Ông bảo: “Bậc đại nhân là người không đánh mất cái “xích tử chi tâm” của mình” (Đại nhân giả, bất thất kì xích tử chi tâm giả dã 63 [3] ). Ông cho rằng đời sống văn minh ảnh hưởng đến cái “xích tử chi tâm” của nhân loại cũng như búa rìu làm hại cây cối trên núi.
 
“Cây cối trên núi Ngưu Sơn xưa vẫn tươi tốt; nhưng vì ở giáp một nước lớn nên thường bị búa rìu tiều phu đốn chặt; như vậy làm sao còn tươi tốt được nữa? Nhờ ngày đêm còn chút nhựa lưu thông, lại được mưa, sương tẩm nhuần, nên mới còn đâm chồi nảy mộng. Nhưng bò dê kéo nhau đến ăn phá, vì vậy mà núi hoá trơ trọi, và người ta thấy nó trơ trọi, tưởng chừng như núi chưa từng có cây lớn. Nhưng có phải bản tính của núi như vậy đâu?
 
Cái bản tính còn lại ở con người cũng thế. Ai mà chẳng có sẵn lòng nhân nghĩa. Nhưng người đời buông mất tấm lòng lương thiện đi, cũng như búa rìu đốn chặt cây trên núi đi; ngày nào cũng đốn, thì làm sao còn tốt đẹp được nữa? Tất nhiên ngày đêm lòng lương thiện còn sanh ra được, và khí lành buổi sớm còn nuôi được, nhưng khí lành đó chẳng được bao nhiêu mà những hành vi ngày đêm lại ngăn phá nó. Ngăn phá nó hoài thì cái khí ban đêm không đủ để bảo tồn nó nữa thì con người có khác cầm thú bao nhiêu đâu? Thấy họ không khác gì cầm thú mà tưởng rằng họ chưa từng có lòng lương thiện. Nhưng có phải bản tính của con người như vậy đâu” 64 [4] .
 
2. TÌNH, TRÍ, DŨNG: MẠNH TỬ
 
Người nhiệt thành, ưu nhân, can đảm là người có thể hưởng thụ đời sống được hơn cả. Mạnh Tử cho nhân, trí, dũng là ba cái mĩ đức quan trọng nhất của bậc mà ông gọi là “đại nhân”. Tôi muốn đổi chữ “nhân” ra chữ “tình” và coi tình, trí, dũng là ba đức của một đại nhân. Anh ngữ và Pháp ngữ đều có chữ “passion” nghĩa rất gần với chữ “tình” của Trung Hoa. Cả hai chữ mới đầu đều có cái nghĩa hẹp là “tình dục”, nhưng ngày nay nó đã có nghĩa rộng hơn như trong lời này của Trương Trào: “Người đa tình tất hiếu sắc, nhưng kẻ hiếu sắc vị tất đã đa tình”, hoặc như trong câu: “Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn”. Nếu chúng ta không có chữ tình thì ở đời không có việc gì để làm cả. Tình là linh hồn của đời sống, là ánh sáng của tinh tú, là nhịp điệu trong âm nhạc, thi ca, là cái tươi đẹp của hoa, là màu sắc của lông chim, là cái duyên dáng của đàn bà, và là sinh khí trong học vấn. Linh hồn thì phải có tình cũng như âm nhạc thì phải biểu tình. Nhờ có tình mà lòng ta mới ấm áp, mới có đủ sinh lực để vui vẻ đối phó với cuộc đời.
 
Nhưng có lẽ tôi đã lầm mà dùng chữ passion để dịch chữ tình của Trung Hoa; dùng chữ sentiment thì đúng hơn chăng vì chữ này có cái nghĩa êm đềm hơn, ôn nhu hơn, không gợi những tình cảm cuồng nhiệt như chữ trên. Hay là chữ tình có cái nghĩa rất gần với các nhà lãng mạn đầu tiên gọi là Sensibilité, tức cái tình của các tâm hồn nồng nàn, đại lượng và nghệ sĩ.
 
Nhưng nếu cái phương Tây gọi là passion khác với cái mà họ là sentiment, và có tính cách sôi nổi, cuồng nhiệt, thì quả người Trung Hoa không có tiếng để trỏ nó, và đành phải tạm dùng chữ “tình” vậy. Mà như vậy có phải là vì tính tình của dân tộc Trung Hoa khác các dân tộc phương Tây không, có phải là vì người Trung Hoa không có những nhiệt tình vĩ đại nó xâm đoạt tâm hồn và làm tài liệu cho những bi kịch trong văn học phương Tây không? Có phải vì vậy mà văn học Trung Hoa không sản xuất những bi kịch hiểu theo cái nghĩa Hy Lạp không, mà trong bi kịch Trung Quốc thường có những nhân vật gặp cảnh nguy kịch thì thường khóc lóc và nhường nhân tình cho kẻ thù, hoặc như Sở Bá Vương, giết chết tình nhân rồi tự vẫn luôn không? Lối kết thúc như vậy không làm vừa lòng khán giả phương Tây, nhưng đời sống Trung Hoa ra sao thì văn học họ như vậy. Con người chiến đấu với định mạng rồi bỏ cuộc, và bi kịch tiếp tục trong hồi ức, hối hận và tưởng vọng, như trường hợp vua Đường Minh Hoàng, vì quân lính nổi loạn mà phải đau xót ra lệnh cho Dương Quí Phi tự tử rồi nhớ tiếc, nằm mê thấy nàng. Trong kịch Trung Hoa, ý nghĩa bi thảm hiện ra sau khi kết thúc, và nỗi buồn kéo dài ra, mỗi lúc một thấm thía. Trong khi tị nạn, dưới trận mưa dầm, Đường Minh Hoàng nghe tiếng lục lạc của đàn bò trên đồi xa vẳng lại, mà soạn ra bản Vũ lâm linh khúc để kỉ niệm ái phi; ông nhìn thấy cái gì, cầm tới vật gì, hoặc là một nữ tì già, hoặc là một chiếc khăn còn vương lại chút dư hương, đều nhớ lại hình ảnh ái phi và bi kịch kết thúc ở cái hồi ông được các đạo sĩ giúp mà gặp lại hương hồn Dương Quí Phi trên tiên cảnh.
 
Tình đó nếu không phải là thứ passion (nhiệt tình) thì là thứ sensibilité (đa cảm) của phái lãng mạn phương Tây. Nhưng nó chính là thứ passion mà tính cách kịch phát đã giảm đi. Vậy triết gia Trung Hoa khinh cái “tình dục” nhưng vẫn trọng cái nhiệt tình hoặc cái tình cảm và coi nó là cơ sở cho đời sống bình thường, cũng như coi tình vợ chồng là cái gốc của nhân luân.
 
Nhiệt tình hay tình cảm là vấn đề bẩm sinh; chúng ta mới sinh ra đã có người đa cảm, có người không; chúng ta không thể lựa thiên tính của ta được, cũng như không thể lựa cha mẹ được. Nhưng không có một đứa trẻ nào hoàn toàn lãnh đạm cả; lớn lên ta đánh mất lần lần cái tấm lòng hồi nhỏ mà mất nhiệt tình đi. Bản tính đa cảm bị hoàn cảnh khắc nghiệt tiêu diệt, bóp nghẹt, làm cho suy nhược đi, phần lớn là tại ta không gắng sức hoặc không biết cách bảo vệ nó. Trong khi “rút kinh nghiệm ở cuộc đời” ta tàn hại bản tính của ta, ta tập thói cứng cỏi, hư nguỵ, thường khi tàn nhẫn nữa, thành thử bộ thần kinh của những kẻ tự khoe là mỗi tuổi một thêm lõi đời, càng ngày càng nhụt đi, tê liệt đi – nhất là trong giới chính trị và thương mại. Kết quả là ta thành hạng người “tiến thủ” (go-getter) gạt tất cả các người khác ra để leo lên đỉnh danh vọng, hạng ý chí sắt đá, kiên quyết, vô tình vô nghĩa, coi tình nghĩa là một thứ lí tưởng lố bịch hoặc một thứ đa cảm bệnh hoạn. Thế giới này chật những người lòng khô khan như vậy, và họ không đáng cho tôi khinh nữa. Nếu một ngày nào đó, quốc gia cần làm tuyệt tử chủng, hạng người không thích hợp với đời sống thì phải bắt đầu từ hạng người vô tình về đạo đức, vô cảm về nghệ thuật, hạng người lòng trơ trơ như đá, tàn nhẫn để thành công, lạnh lùng khi quyết định: hạng đó đáng tuyệt tử chủng hơn bọn điên và bọn ho lao. Vì tôi nghĩ rằng nếu một người có tình cảm, có nhiệt tình, có thể làm những việc lố bịch, ngông cuồng, thì người vô tình không còn cái vẻ con người nữa. So với kĩ nữ Sapho trong truyện của Daudet, hắn chỉ như một côn trùng, một cái máy, một người máy làm dơ trái đất này thôi. Nàng Sapho đã tội lỗi. Thì đã làm sao? Nàng có tội lỗi nhưng nàng đã yêu, mà kẻ nào yêu nhiều sẽ được tha thứ nhiều. Sống giữa giới con buôn tàn nhẫn, nàng vượt lên được, lòng trẻ trung hơn biết bao kẻ triệu phú. Cho nên người ta thờ nữ thánh Marie Madeleine 65 [5] là phải.
 
Nhưng vì đời sống tàn khốc nên một người bản tính nồng nàn, quảng đại, đa cảm dễ bị bạn bè khôn lanh lừa gạt. Họ lầm lẫn vì quá đại lượng với kẻ thù, quá tin bạn và đôi họ về nhà mới tỉnh ngộ mà làm một bài thơ chua chát. Ở Trung Hoa có nhiều thi sĩ như vậy, chẳng hạn như Trương Đại, một môn đồ của Trà đạo. Ông ta phung phí gia sản rồi bị bạn thân và họ hàng lánh bỏ, làm được mười hai bài thơ giọng cực kì chua xót. Nhưng tôi ngờ rằng ông vẫn đại lượng cho tới khi chết, cả những khi ông khốn cùng nữa vì nhiều lần ông suýt chết đói, và tôi tin chắc rằng nỗi chua xót của ông tan đi như đám mây mà ông vẫn sung sướng như trước.
 
Chính vì đời sống tàn khốc cho nên chỉ có nhiệt tình không thôi không đủ, phải có thêm trí và dũng nữa; hai đức này theo tôi chỉ là một, vì dũng do trí, do sự hiểu rõ nhân sinh mà ra, vả lại cái trí mà không đưa ta tới dũng thì cũng vô dụng.
 
Ở đời có vô số cái bả nó phỉnh gạt ta và Phật giáo ở Trung Hoa chia nó làm hai loại chính: danhlợi. Người ta kể chuyện rằng vua Càn Long khi du Giang Nam, một lần đứng trên một ngọn núi, nhìn ra biển thấy thuyền buồm qua lại rất nhiều, hỏi một vị đại thần: “Hàng trăm chiếc thuyền đó đi đâu vậy?”. Vị đại thần đáp chỉ trông thấy có hai chiếc, một chiếc tên Danh, một chiếc tên Lợi. Nhiều người có học tránh được cái bả Lợi, nhưng chỉ hạng vĩ nhân mới tránh được cái bả Danh. Một vị hoà thượng bảo đệ tử: “Tránh cái lợi dễ hơn tránh cái danh. Ngay những bậc ẩn sĩ, những bậc tu hành cũng mong được người ta biết đến mình. Họ muốn giảng kinh thuyết pháp trước đám đông, chứ không muốn ở ẩn trong một cái am nhỏ mà đàm đạo với một đệ tử như chúng mình lúc này đây”. Đệ tử đó đáp: “Bạch thầy, quả thực Thầy là bậc duy nhất tuyệt được lòng ham danh ở đời”. Và vị hoà thượng đó mỉm cười.
 
Theo sự nhận xét của tôi, đạo Phật sắp hai loại trên chưa đủ; có ba loại bả chứ không phải hai: Danh, LợiQuyền. Và một tiếng có thể gồm cả ba, tiếng Thành công. Nhiều người đã có đủ Danh và Lợi rồi còn muốn thống trị người khác nữa. Có những kẻ muốn kiệt lực “phục vụ tổ quốc”, và phải trả một cái giá rất đắt. Bảo một bậc trí giả giơ cái mũ vẫy vẫy đám đông và đọc bảy bài diễn văn một ngày rồi sẽ được bầu làm Tổng Thống, thì bậc trí giả lắc đầu xin chịu. James Bryce cho rằng chế độ dân chủ ở Mĩ làm cho những người ưu tú nhất muốn vào chính giới để phục vụ tổ quốc. Tôi thì tôi nghĩ rằng cái lối cạnh tranh gay gắt trong cuộc bầu cử Tổng Thống ở Mĩ cũng đủ cho bậc trí giả đâm hoảng. Một người tòng chính mỗi tuần thường phải dự sáu bữa tiệc, có vậy mới là phục vụ và hi sinh cho nhân quần. Sao họ không phục vụ và hi sinh cho họ, ăn bữa cơm xoàng ở nhà, bận bộ đồ bà ba 66 [6] rồi leo lên giường ngủ? Khi đã bị mê hoặc vì Danh và Quyền rồi thì người ta còn phải nô lệ nhiều cái bả khác nữa. Không khi nào ngừng được.
 
Nhưng còn một bả tuy phụ thuộc nhưng cũng rất mạnh, rất phổ biến, tức cái thời thượng, cái “mốt”. Rất ít người có đủ can đảm sống theo ý mình lắm. Démocrite nghĩ rằng giải thoát cho nhân loại được hai nỗi sợ: sợ Thượng Đế và sợ chết, là cống hiến cho nhân loại được nhiều rồi. Nhưng như vậy chúng ta vẫn còn một nỗi sợ nữa, sợ ông hàng xóm. Dù hữu ý hay vô tình, chúng ta cũng đóng vai diễn trên sân khấu là cuộc đời, và muốn đóng trò sao cho vừa ý khán giả để được khán giả vỗ tay. Nhưng vỗ tay càng lớn thì ở hậu trường, tim ta đập càng mạnh.
 
Tài đóng trò đó có thể giúp ta mưu sinh, cho nên chẳng ai là đáng trách vì đã đóng trò theo mốt mà người đời công nhận. Nhưng có điều này là thường khi vai trò thay thế hẳn con người, chiếm hẳn con người. Chỉ có vài tâm hồn siêu quần ở địa vị cao, mang cái danh lớn mà vẫn mỉm cười, tự nhiên. Họ biết rằng họ đóng trò, họ không bị cái ảo tưởng quyền thế, chức tước, tư sản, tiền tài mê hoặc; những cái đó tới thì họ cũng nhận nhưng không cho mình là vì có nó mà khác những những người thường 67 [7] . Chính những bậc tinh thần vĩ đại đó mới sống giản dị trong đời tư. Không có gì biểu thị cái trí óc hẹp hòi, nhỏ mọn bằng thái độ một anh chàng cạo giấy tự cho mình là tôn quí, hoặc một chú trọc phú mới phát mà khoe châu bảo, hoặc một văn sĩ còn ấu trĩ tưởng mình đã vào hàng bất tử mà đâm ra kiểu cách, không tự nhiên, giản dị nữa.
 
Bản năng đóng trò của ta thăm căn cố đế đến nỗi chúng ta thường quên rằng còn có một đời sống thực để sống ngoài cái đời trên sân khấu. Vì vậy chúng ta cặm cụi, hổn hển làm việc, không phải sống cho chúng ta, hợp với bản năng của ta mà để được xã hội tán thành; chúng ta y như những “cô gái già may áo cưới cho người” trong câu tục ngữ Trung Hoa ( Vị tha nhân tác giá y thường 68 [8] ).
 
Каталог: file
file -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
file -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
file -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 7790-5 : 2008 iso 2859-5 : 2005
file -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
file -> UỶ ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương