Lâm Ngữ Đường


NGẠO ĐỜI, TỰA NHƯ NGU ĐỘN VÀ ẨN DẬT: LÃO TỬ



tải về 1.38 Mb.
trang7/21
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích1.38 Mb.
#4040
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   21

3. NGẠO ĐỜI, TỰA NHƯ NGU ĐỘN VÀ ẨN DẬT: LÃO TỬ
 
Thực là ngược đời, cái triết học “giảo hoạt” của Lão Tử lại sản sinh ra cái lí tưởng cao thượng nhất về hoà bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tính tình nên giản phác. Ngay đến nghệ thuật Trung Hoa, từ thi ý, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình dị của tiều phu, ngư phủ, cũng không thể thoát li triết học đó mà tồn tại. Nguồn gốc chủ nghĩa hoà bình của Trung Hoa là do cái quan niệm chịu nhận sự thất bại tạm thời để đợi thời cơ thuận tiện, và do lòng tin rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân cái luật vận hành phản phục; do đó không một kẻ nào vĩnh viễn chiếm được ưu thế, mà cũng không có kẻ nào vĩnh viễn “u mê” bao giờ.
 
---- Người rất khéo thì như vụng,
---- Người nói giỏi thì như lắp bắp,
---- Cử động thì thắng được lạnh;
---- Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng.
 
Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi việc sẽ đâu vào đấy.
 
Biết như vậy rồi thì còn cạnh tranh làm gì nữa. Cho nên Lão Tử bảo bậc thánh nhân “không tranh với ai nên không ai tranh được với mình”, lại bảo: “Kẻ hùng hổ nào mà không bất đắc kì tử, thì ta xin nhận kẻ đó làm thầy”. Một nhà văn ngày nay có thể thêm vào câu đó: “Kẻ độc tài nào mà không dùng mật thám để hộ vệ thì tôi xin tôn làm thủ lãnh”. Cho nên Lão Tử nói: “Thiên hạ có đạo thì người ta dùng ngựa để kéo và lấy phân; thiên hạ vô đạo thì người ta nuôi ngựa chiến ở ngoài thành”.
 
---- Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước 69 [9] ,
---- Người chiến đấu giỏi không giận dữ.
---- Kẻ khéo thắng dịch là không tranh với địch,
---- Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người.
---- Đó là cái đức của sự không tranh,
---- Đó là cái khéo của sự dùng người.
---- Đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo trời.
 
Có cái qui luật động lực và phản động lực rồi, mới sản sinh ra cái cục thế bạo lực với bạo lực.
 
---- Ai lấy Đạo mà phò vua,
---- Thì không dùng binh mà bức thiên hạ,
---- Vì việc như vậy thường hay trở về (nghĩa là dùng binh bức thiên hạ thì lại bị thiên hạ dùng binh bức lại mình) 70 [10] .
---- Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy,
---- Sau cuộc chinh chiến tất mất mùa.
---- Vậy khéo thắng rồi (khéo đạt mục đích cứu dân) thì thôi đi, mà không lợi dụng thắng lợi để bức người 71 [11] .
---- Thắng mà không khoe khoang,
---- Thắng mà không tự khen,
---- Thắng mà không kiêu căng,
---- Thắng vì bất đắc dĩ.
---- Thắng mà không bức người,
---- Vì vật mạnh thì có lúc suy,
---- (Nếu không) như vậy (thì) là trái Đạo.
---- Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt.
 
Tôi có cảm tưởng rằng nếu Lão Tử được làm chủ tịch hội nghị Verseilles 72 [12] thì ngày nay không có Hitler 73 [13] . Hitler tuyên bố rằng ông và sự nghiệp chính trị của ông tất được “Chúa phù hộ” (nên ông mới thành công mau như vậy). Tôi cho rằng việc đó giản dị hơn nhiều: chẳng có Chúa nào phù hộ cả, chỉ có Clémenceau phù hộ thôi 74 [14] . Chủ nghĩa hoà bình của Trung Hoa không phải là chủ nghĩa nhân đạo mà là chủ nghĩa “giảo hoạt”, cơ sở không phải là bác ái mà là một thứ minh triết vi diệu, cận nhân tình.
 
---- Sắp muốn rút lại, tất phải mở ra đã;
---- Sắp muốn làm yếu đi, tất phải làm mạnh lên đã;
---- Sắp muốn vứt bỏ đi, tất phải làm dấy lên đã;
---- Sắp muốn cướp lấy, tất phải cho đã;
---- Thế gọi là làm mờ ánh sáng đi 75 [15] .
---- Nhu nhược thắng cương cường.
---- Cá không nên ra khỏi vực;
---- Lợi khí của quốc gia, không nên cho dân biết.
 
Thuyết về sức mạnh của nhu nhược, về lẽ hiếu hoà sẽ thắng, và lẽ ẩn dật bao giờ cũng có lợi, thì tôi chưa thấy ai có giọng mạnh mẽ, sâu sắc bằng Lão Tử trong đoạn đó. Ông cho nước tượng trưng sức mạnh của nhu nhược – nó cứ nhè nhẹ nhỏ từng giọt xuống mà đục được đá, nó có cái “trí” vĩ đại của Lão Tử là luôn luôn tìm chỗ thấp mà ở:
 
---- Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang
---- Vì nó khéo ở chỗ thắp hơn cả;
---- Nhờ vậy nó làm vua được trăm hang.
 
(Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kì thiên hạ chi, cố năng vi bách cốc vương).
 
Chữ “cốc” (hang) trong học thuyết Lão Tử còn trỏ cái gì rỗng, tượng trưng cái tử cung của mẹ vạn vật, tức tượng trưng khí âm hoặc giống cái:
 
---- Thần hang bất tử
---- Cho nên gọi là Huyền Tẫn 76 [16] .
---- Cửa của Huyền Tẫn
---- Là gốc của Trời, Đất.
---- Dằng dặc như còn hoài,
---- Dùng hoài mà không hết.
 
Lấy giống cái đại biểu cho văn hóa phương Đông và giống đực đại biểu cho văn hóa phương Tây có lẽ không phải là khiên cưỡng.
 
Jules César muốn được làm người thứ nhất trong làng, Lão Tử trái lại, “không dám ở trước thiên hạ” (bất cảm vi thiên hạ tiên). Trang Tử cho rằng nổi danh là một điều nguy hiểm, và diễn ý đó trong đoạn văn phúng thích dưới đây để chê Khổng Tử là hay khoe tri thức cùng hành vi của mình. Trong bộ Trang Tử có nhiều chỗ bịa đặt ra để bài xích Khổng Tử vì lúc đó Khổng Tử đã mất rồi mà ở Trung Quốc thời xưa cũng không có luật pháp trị tội huỷ hoại danh dự của người khác.
 
“Khổng Tử bị vây ở giữa nước Trần và nước Sái 77 [17] , bảy ngày không có cơm ăn 78 [18] .
 
Quan đại công tên là Nhiệm lại chia buồn, hỏi:
 
- Ông đã suýt chết?
 
Khổng Tử đáp:
 
- Phải.
 
- Ông sợ chết không?
 
- Sợ.
 
Nhiệm bảo:
 
- Vậy tôi xin giảng cái đạo bất tử. “Ở Đông Hải có loài chim tên là Ý Đãi. Loài đó chậm chạp, từ tốn nhưng vụng về; bay cùng đoàn với nhau, con trước con sau, chen lấn nhau mà đậu. Khi tiến không con nào tranh bay trước, khi lui không con nào ở lại sau; khi ăn không con nào dám ăn trước, đợi những đồ thừa. Cho nên loài đó được sống yên ổn ở trong hàng, người ngoài không hại được nó, mà nó tránh được hoạ.
 
Cây thẳng thì bị đốn trước. Giếng nước ngọt thì bị cạn trước. Ông có ý trang điểm tri thức để làm cho bọn ngu phải sợ, sửa cái thân để làm rõ kẻ xấu xa. Ông rực rỡ như giơ cao mặt trời mặt trăng mà đi, cho nên không tránh được hoạ…”.
 
Khổng Tử đáp:
 
“Lời ông dạy thật hay!”. Rồi từ chối sự giao du, bỏ cả đệ tử, trốn trong một cái chằm lớn (chỗ hoang vu), làm lấy áo cừu áo cát mà bận, hái hột cây thữ, cây lật mà ăn, nhập bầy với đàn thú, đàn chim mà thú chim không để ý tới”.
 
Tôi đã làm một bài thơ tóm tắt tư tưởng Đạo gia như sau:
 
---- Có cái sáng suốt của sự ngu muội.
---- Có cái thanh nhã của sự hoà hoãn.
---- Có cái cơ xảo của sự trì độn.
---- Có cái hữu ích của sự ẩn cư.
 
Mấy câu đó chắc làm cho những độc giả theo đạo Ki Tô nhớ lại lời “Thuyết giáo trên núi”. Và chắc họ cũng cho rằng đều vô hiệu lực như nhau. Lão Tử còn bảo kẻ ngu được phúc vì họ là những kẻ sung sướng nhất đời. Trang tử theo cái thuyết “Người rất khéo thì như vụng, người nói giỏi thì như lắp bắp” và khuyên ta phải “liệng bỏ cái trí” (khí trí). Thế kỉ thứ tám, Liễu Tôn Nguyên đặt tên cho một ngọn núi gần chỗ ông ở là “Núi Ngu” (Ngu Sơn) và dòng suối nơi đó là “Suối Ngu” (Ngu Khê). Thế kỉ mười tám, Trịnh Bản Kiều có một câu danh ngôn: “Thông minh khó, hồ đồ khó, do thông minh mà đạt được hồ đồ lại càng khó”. Trong văn học Trung Hoa có nhiều câu tán tụng sự ngu độn như câu đó. Người Mĩ có câu: “Đừng nên tinh ranh quá” (Don’t be too smart), cũng là cái nghĩa: người đại trí thường có vẻ như ngu.
 
Vì vậy mà trong văn hóa Trung Hoa ta thấy hiện tượng lạ lùng này là bậc đại trí phát sinh lòng hoài nghi đối với mình cho rằng vũ khí tốt nhất trong cuộc tranh đấu trên đời là tôn sùng sự ngu độn và sự ẩn dật. Từ cái thuyết “khí trí” của Trang Tử đến sự tôn sùng kẻ ngu chỉ có một bước ngắn, và trong văn chương cùng hội hoạ của Trung Hoa ta thấy hình ảnh của nhiều người hành khất, nhiều nhà ẩn dật bất hủ, nhiều nhà sư điên, hoặc những đạo sĩ kì dị, như trong tập “Minh Liêu tử du”; đó toàn là phản ảnh quan niệm tôn sùng kẻ ngu độn cả. Khi một nhà sư điên lam lũ được coi là tượng trưng cho cái trí tuệ rất cao, cái tư cách rất quí, thì trong cái bến mê là cõi đời này, ta bỗng tỉnh ngộ; trong sự tỉnh ngộ đó có cái ý vị lãng mạn hoặc tôn giáo nó đưa ta vào cảnh giới ảo tưởng của thơ.
 
Kẻ ngu được hoan nghênh, đó là một sự thực không chối cãi được. Tôi tin rằng ở phương Đông cũng như phương Tây, người ta ghét những kẻ tinh ranh quá trong sự giao thiệp. Viên Trung Lang đã kể lí do tại sao mấy anh em ông đều thích giữ bốn tên gia bộc cực ngu nhưng trung tín. Chúng ta cứ nhớ lại tên bạn bè của mình rồi kiểm soát xem có phải những bạn ta mến không phải là những người ta trọng vì tài khôn lanh, và những bạn ta trọng vì tài khôn lanh không phải là những người mà ta mến. Chúng ta thích một tên gia bộc ngu độn vì hắn đáng tin hơn, đối với hắn ta không cần phải đề phòng. Nhiều người đàn ông khôn không muốn cưới người vợ tinh lanh quá mà nhiều thiếu nữ khôn cũng vậy, không muốn có người chồng tinh lanh quá.
 
Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều người điên, hoặc điên thật hoặc giả điên mà được nổi danh, được người ta kính yêu. Như hoạ sĩ Mễ Phí, có lần bận lễ phục tới lạy một phiến đá, gọi phiến đá đó là “ông Nhạc”, vì vậy mà có danh hiệu là ông Mễ Điên. Ông ta với Nghê Vân Lâm 79 [19] , một họa sĩ danh tiếng đời Nguyên đều mê sự sạch sẽ. Lại như thi sĩ điên nổi danh, hòa thượng Hàn Sơn, đầu bù, chân không, đi lại các ngôi chùa, làm mọi việc lặt vặt trong cái nhà khói (nhà bếp của chùa), xin cơm thừa canh cặn mà ăn và làm được những bài thơ bất hủ viết lên tường các nhà khói. Vị hòa thượng điên được người Trung Hoa ái mộ nhất là hòa thượng Tế Điên 80 [20] , cũng gọi là Tế Công (ông Tế); đời ông sau được người ta chép thành một chuyện dài gấp ba bộ Don Quichotte mà vẫn chưa hết. Ông sống một đời ma thuật, làm thuốc, say rượu, và như có thần lực, có thể cùng một lúc xuất hiện ở hai nơi cách nhau cả trăm dặm. Miếu thờ ông hiện nay ở Hổ Bào, trên bờ Tây Tử Hồ ở Hàng Châu. Những thiên tài lãng mạn, vĩ đại, thế kỷ mười sáu và mười bảy, như Từ Văn Trường, Lý Trác Ngô, Kim Thánh Thán (ông này tự đặt tên hiệu là Thánh Thán 81 [21] là vì, theo ông, đúng lúc ông sanh ra đời, ở miếu thờ Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài bí mật). Tuy các vị đó cũng là những người bình thường như chúng ta nhưng bề ngoài có những cử chỉ trái hẳn thói thường, cho nên người đời gọi là cuồng.
 
4. TRIẾT HỌC TRUNG DUNG: TỬ TƯ
 
Tôi biết rằng một triết lí chủ trương vô ưu nhất định làm cho ta muốn tránh một đời sống quá phiền phức, tránh những trách nhiệm quá lớn lao và do đó làm giảm cái lòng ham hoạt động của ta đi. Nhưng mặt khác, tôi cũng nghĩ rằng con người ở thời đại này cần cái luồng gió mát mẻ của một triết lí ngạo nghễ, bỡn đời, nó chỉ có lợi cho chúng ta, chứ không có hại. Cái huyền thoại tấn bộ gây ra biết bao hoạt động phù phiếm, vô ích; mà trong bản chất chúng ta lại có quá nhiều xung đột sinh lí nó đẩy ta tới sự hoạt động thành thử dù có đề cao chủ nghĩa bỡn đời thì nó cũng không có thể lưu hành trong đại chúng được đâu, ta đừng lo điều đó. Ngay ở Trung Hoa, triết học của Đạo giáo hợp với bản năng con người như vậy, lại phát triển trong mấy ngàn năm rồi, mà đa số người Trung Hoa vẫn sống vui vẻ, vẫn ham danh, ham quyền, vẫn quyết tâm phụng sự Tổ quốc. Phải có vậy, đời sống mới duy trì được. Không, người Trung Hoa chỉ khi nào thất bại rồi mới có cái tinh thần bỡn đời, có tâm hồn thi sĩ; còn phần đông họ vẫn là những diễn viên rất đắc lực. Ảnh hưởng của đạo Lão chỉ để giảm cái mức khẩn trương trong đời sống thôi, và trong những thời gặp thiên tai, nhân hoạ, nó giúp cho ta tin tưởng rằng luật phản phục, luật tác động và phản động, rút cục sẽ đem lại sự công bằng cho mọi người.
 
Trong tư tưởng của Trung Hoa có một triết học tương phản với triết học vô ưu, triết học tự nhiên, phóng lãng đó. Đối lập với triết học của phái tự nhiên, có triết học của phái xã hội 82 [22] ; đối lập với Đạo giáo, có Khổng giáo. Nếu cho rằng Đạo giáo và Khổng giáo chỉ là hai quan niệm – một tiêu cực, một tích cực – về nhân sinh quan thì theo tôi, không phải chỉ dân tộc Trung Hoa là có hai triết học đó, vì bản tính của nhân loại đều có sẵn hai khuynh hướng đó. Chúng ta mới sinh ra đều có một phần hướng theo Đạo giáo, một phần hướng theo Khổng giáo.
 
Theo Đạo giáo thì kết luận hợp lí là phải vô núi ở ẩn, bắt chước lối sống vô ưu của tiều phu hay ngư phủ, mà làm chúa trong rừng xanh nước biếc, tâm hồn hoàn toàn an tĩnh. Nhưng triết học lánh đời đó không được phong phú.
 
Còn có một triết học phong phú hơn, triết học nhàn tĩnh, và con người lí tưởng của Trung Hoa là người không trốn đời, trốn xã hội mà vẫn giữ được bản tính, thiên chân của mình. Kẻ nào còn phải lánh nơi thành thị mà vào núi ở một mình, thì kẻ đó là một ẩn sĩ tầm thường. Bậc “đại ẩn sĩ” là ẩn sĩ ở giữa đô thị. Vì tự làm chủ được mình rồi, không sợ bị hoàn cảnh chi phối nữa. Cho nên nhà sư nào trở về xã hội, ăn thịt, uống rượu, giao thiệp với đàn bà mà linh hồn vẫn trong sạch thì mới thật là vị “Cao tăng”. Vậy có thể dung hoà được hai triết học trên. Sự tương phản của Khổng giáo và Đạo giáo chỉ là tương đối, vì cả hai đều là cực đoan, và ở giữa có giai đoạn trung gian.
 
Cái lối sống điển hình cao nhất là lối sống trung dung mà Tử Tư, cháu nội Khổng Tử đã dạy cho ta. Chưa có một triết học nào tìm được một chân lí thâm thuý như học thuyết Trung Dung, một học thuyết chỉ cho ta sống một cách điều hoà giữa hai cực đoan. Cái đạo lí nhẹ nhàng đó đạt tới một sự quân bình giữa động và tĩnh, tạo nên lí tưởng của một hạng người không khinh danh mà cũng trọng sự ẩn dật, hoạt động một cách vừa phải mà làm biếng cũng vừa phải, không nghèo đến nỗi không trả nổi tiền mướn phố, không giàu đến nỗi có thể ở không mà ăn hoặc có thể luôn luôn giúp bạn bè một cách vừa ý được, chơi đàn nhưng chỉ đủ để tiêu khiển hoặc để cho người thân nghe, chơi đồ cổ nhưng chỉ thu thập ít món đủ để trang hoàng trên một cái tủ, đọc sách nhưng không đọc quá nhiều, nghiên cứu nhưng không thành một chuyên gia, viết văn nhưng cứ hai bài thì nhà báo gởi trả lại một; tóm lại là lí tưởng của một lối sống trung bình, một lối sống kiện toàn nhất mà người Trung Hoa tìm ra được. Lí tưởng đó được Lí Mật Am tả rất khéo trong bài “Bán bán ca” (Bài ca Một nửa, một nửa) dưới đây:
 
---- Tôi đã thấy già nửa kiếp phù sinh này rồi.
---- Chữ “nửa”đó có công dụng vô biên.
---- Có hưởng nửa tuổi trời rồi mới cảm được hết cái vui nhàn nhã,
---- Trong một thế giới rộng rãi triển khai giữa trời và đất.
---- Sống ở nơi nửa thành thị nửa thôn quê,
---- Có vườn tược ở nửa đường lên núi, nửa đường xuống sông.
---- Nửa đọc sách, nửa làm ruộng, nửa buôn bán,
---- Nửa là kẻ sĩ, nửa là bà con với bình dân.
---- Có những đồ dùng nửa nhã nửa thô;
---- Có ngôi nhà nửa đẹp nửa xấu;
---- Quần áo nửa mới nửa cũ,
---- Thức ăn nửa phong nửa kiệm,
---- Người ở nửa khéo nửa vụng,
---- Vợ nửa chất phác nửa khôn lanh.
---- Tâm tình tôi nửa Phật nửa Thần tiên,
---- Tên tuổi nửa vinh hiển nửa tối tăm.
---- Một nửa nghĩ tới Trời,
---- Còn một nửa lo việc nhân gian,
---- Nửa tính việc để ruộng, lẫm lại cho đời sau,
---- Nửa nghĩ tới lúc thình lình chầu Diêm Vương.
---- Uống rượu nửa say mới thú,
---- Ngắm hoa thì bán khai mới đẹp.
---- Thuyền giương nửa buồm mới khỏi lật,
---- Ngựa ghì nửa cương mới yên ổn.
---- Có không đầy một nửa thì mới có thêm,
---- Có quá một nửa thì hoá chán và lo lắng.
---- Cuộc đời trăm năm nửa vui nửa khổ,
---- Thì hưởng một nửa là thích đáng hơn cả.
 
Đem cái triết học lánh đời của Đạo giáo dung hoà với cái triết học tích cực của Khổng giáo thì thành một triết học trung dung. Con người đã sinh ở giữa khoảng trần thế chân thực và thiên đường hư ảo, thì theo tôi, lối sống đó vẫn là hơn cả vì cận nhân tình hơn cả, mặc dầu người phương Tây có thể cho là bất mãn vì họ có một quan niệm rất tấn bộ. Chúng ta nhận rằng loài người cần có một số siêu nhân như các nhà thám hiểm, chinh phục, phát minh, các vị đại tổng thống, đại anh hùng để thay đổi tiến trình của lịch sử; nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng người sung sướng nhất là người được chút ít độc lập về kinh tế và làm được chút gì, một chút gì thôi, cho nhân loại, được xã hội biết tên tuổi một chút thôi, đừng nhiều quá. Chúng ta đã phải sống trên cõi trần thì cũng nên kéo triết học từ chín tầng mây xuống mặt đất này mới được .
 
5. MỘT NGƯỜI YÊU ĐỜI: ĐÀO UYÊN MINH
 
Như ta đã thấy , sự dung hoà hai quan niệm tiêu cực và tích cực về nhân sinh tạo được một triết học điều hoà, triết học Trung dung. Quí hơn nữa là nó còn tạo được một nhân cách điều hoà, mục đích của mọi nền văn hóa và giáo dục. Và chúng ta nên chú ý rằng một cá tính điều hoà thì yêu đời, coi đời là một cảnh hoan lạc.
 
Tôi thấy khó tả được tính chất của lòng yêu đời đó, vậy xin mượn một ví dụ, xin kể đời sống của một người thực là yêu đời. Và tôi nghĩ ngay tới Đào Uyên Minh 83 [23] mà ai cũng nhận là một thi hào bực nhất và nhân vật hoàn mĩ, điều hoà nhất trong truyền thống văn học Trung Hoa.
 
Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà ông chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quí nhất. Trong đời sống và trong phong độ của ông có một sự giản phác làm cho ta phải kính phục, rồi tự xét mình mà thấy thẹn.
 
Ngày nay người ta coi ông là một kiểu mẫu yêu đời hoàn toàn vì tuy ông phản kháng những dục vọng trần tục nhưng vẫn không lánh đời mà lại khiến cho thất tình điều hoà được. Gần hai thế kỉ, chủ nghĩa lãng mạn trong văn học và triết học nhàn tản của Đạo giáo phối hợp với triết học tích cực của Khổng giáo mới sản sinh được một nhân cách như vậy. Trong con người ông, ta thấy triết học tích cực mất tính cách tự mãn tự đại, triết học lánh đời mất tính cách chống đối chua chát, và lần đầu tiên, sự minh triết của loài người đạt tới mức thành thục hoàn toàn trong một tinh thần trào lộng mà khoan hoà.
 
Theo tôi, ông đại biểu cho cái đặc chất kì dị của văn hóa Trung Hoa, tức một tinh thần vừa trọng tình dục vừa ngạo nghễ, vừa trọng linh tính mà không khổ hạnh, trọng vật chất mà không say đắm nhục dục, điều hoà được thất tình và tâm linh. Vì triết gia lí tưởng là người biết ngắm cái đẹp của phụ nữ mà không thô tục, yêu đời nhưng không quá độ, coi sự thành công và thất bại chỉ là hư ảo, có thể thoát li được nhân sinh mà không cừu thị nó. Vì ông đã đạt được sự điều hoà tâm linh đó nên không có một chút gì xung đột nội tâm, và đời sống của ông tự nhiên như thơ của ông vậy.
 
Ông sinh vào khoảng cuối thế kỉ thứ tư, cháu bốn đời một học giả danh tiếng 84 [24] . Ông cố ông thường mỗi sáng khiêng một đóng gạch lại một nơi khác rồi chiều lại khiêng trở về chỗ cũ, để vận động cơ thể cho khỏi làm biếng. Hồi trẻ, nhà thì nghèo, cha mẹ thì già, ông làm một chức quan nhỏ ở châu quận, được ít lâu từ quan về cày ruộng, vất vả mà mang bệnh. Một hôm ông nói với thân thuộc bạn bè: “Nếu bây giờ tôi đi đàn ca dạo để có tiền sửa sang vườn tược thì có nên không?”. Một người bạn nghe được lời đó, tiến cử ông làm chức tri huyện Bành Trạch. Ông vì thích uống rượu, nên ra lệnh rằng ruộng trong huyện phải trồng lúa nếp hết, nhưng vợ ông thấy như vậy quá đáng, xin ông, ông mới bằng lòng cho một phần sáu số ruộng được trồng những giống lúa khác. Sau, nhân trên quận sai một viên đốc bưu 85 [25] đến huyện, nha lại trình với ông nên đeo đai ra đón, ông than: “Ta có thể nào vì năm đấu gạo (tức số lương) mà phải khom lưng như vậy”, rồi trả áo mão cho triều đình, viết bài phú danh tiếng “Qui khứ lai từ”. Từ đó ông sống đời nông phu, mấy lần người ta vời ra làm quan, ông đều cự tuyệt. Nhà ông vốn nghèo nên ông sống với dân nghèo; trong một bức thư gởi cho con, ông có lần ân hận rằng để con lam lũ, làm những công việc chân lấm tay bùn. Có lần ông cho mỗi đứa nhỏ con một nông phu lại giúp những việc lặt vặt như gánh nước kiếm củi cho con ông, ông dặn con ông “nên đối đãi với nó cho tử tế vì nó cũng là con cái của người ta”.
 
Ông chỉ có mỗi nhược điểm là ham uống rượu. Bình thường sống đời cô độc, rất ít giao du, nhưng nơi nào có bày rượu thì dù chẳng quen thuộc chủ nhân, ông cũng ngồi vào tiệc. Có lúc ông làm chủ nhân đãi khách, khi đã bắt đầu say, ông tạ khách: “Tôi say, buồn ngủ rôi, xin mời ông về”. Ông có một cây đàn cầm đứt hết dây. Thứ nhạc khí thời cổ đó, chỉ khi nào tâm tình thật bình tĩnh khoan thai, nắn nhẹ vài tiếng thì mới hợp. Trong tiệc rượu hoặc lúc nào cao hứng, ông ôm cây đàn không dây đó mà vỗ vỗ, vuốt ve, và nói: “Hiểu thú chơi đàn thì cần gì phải khó nhọc gẩy lên thành tiếng?”.
 
Ông khiêm tốn, giản phác, độc lập, rất thận trọng trong sự kén bạn. Khi Vương Hoằng làm chức phán quan 86 [26] , ngưỡng mộ ông lắm, muốn kết giao với ông, nhưng không biết làm cách nào được. Ông thường nói một cách rất tự nhiên: “Tính tôi không thiệp thế, vì đau nên không đi đâu, chứ không phải làm cao để cầu danh đâu”. Vương Hoằng phải lập mưu với một người bạn để được gặp ông; người bạn đó mời ông đi uống rượu, đi được nửa đường thì ngừng lại, vào nghỉ một ngôi nhà mát, bày rượu ta uống. Đào Uyên Minh vui vẻ ngồi uống; Vương Hoằng đã núp sẵn ở gần đó nên tiến ra chào ông. Ông cao hứng, chén thù chén tạc tới hết ngày, quên hẳn cái việc lại chơi nhà bạn. Vương Hoằng thấy ông không có dép đi, kêu kẻ tả hữu làm cho ông một đôi; bọn này muốn biết dép dài ngắn to nhỏ cỡ nào, ông duỗi ngay chân cho họ đo. Từ đó Vương Hoằng mỗi lần muốn gặp ông thì phải đón ở bên bờ rừng hay bờ chằm, đợi ông đi qua. Một hôm bạn bè nấu rượu, ông lột ngay chiếc khăn trên đầu ra để lọc rượu, lọc xong lại quấn lên đầu.
 
Hồi ông ở chân núi Lư Sơn, tại núi có một nhóm nhà tu hành nổi danh trong phái Thiền tôn, lập một phái gọi là Bạch Liên Xã, mà người chủ trì là một vị học giả 87 [27] . Vị này muốn ông vô Bạch Liên Xã, một hôm mời ông lại dự tiệc; ông đưa điều kiện là trong tiệc phải có rượu. Điều kiện đó trái với giới điều của đạo Phật, chủ nhân nể ông đành phạm giới. Nhưng đến lúc ngỏ ý mời ông vô Xã thì ông “cau mày mà bỏ ra về”; trong khi đó một đại thi nhân là Tạ Linh Vận vận động đủ cách để được vô Xã mà vẫn bị từ chối. Nhưng vị chủ trì Bạch Liên Xã vẫn không giận ông, lần khác mời ông lại uống rượu với một đạo nhân, bạn thân của mình. Thế là đủ tam giáo. Đào Uyên Minh đại biểu Nho giáo, vị thiền sư có lời thề rằng không khi nào đi qua một chiếc cầu nọ nữa, nhưng một lần ông tiễn Đào Uyên Minh và đạo nhân, qua cầu lúc nào không hay. Khi hay rồi thì cả ba phá lên cười. Câu chuyện đó về sau làm đề tài cho nhiều hoạ sĩ. Vì nó tượng trương cho cái vui vẻ, cái hạnh phúc của ba vị trí giả vô tư vô lự, mà cũng tượng trưng cho sự hoà hợp của tam giáo nhờ tinh thần hài hước.
 
Đời ông như vậy, vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác, là nông phu mà là thi sĩ, minh triết mà vui vẻ. Trong tập thơ nhỏ của ông tả thú uống rượu và thú điền viên, trong ba bốn thiên tản văn ngẫu hứng mà viết, trong một bức thư gởi cho các con, trong ba bốn bài văn tế (một bài ông tự tế mình) và một lời di chúc cho con cháu, chúng ta thấy ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hoà, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa tới nay chưa ai đạt được. Bài phú “Qui khứ lai từ” dưới đây, viết vào tháng 11 năm 405, khi ông quyết định từ chức tri huyện, biểu hiện được tình cảm và thiên tài của ông.
 
------------- QUI KHỨ LAI TỪ
 
---- Đi về sao chẳng về đi?
---- Ruộng hoang vườn rậm, còn chi không về?
---- Đem tâm để hình kia sai khiến,
---- Còn ngậm ngùi than vãn với ai?
---- Ăn năn thì sự đã rồi,
---- Từ đây còn lại, biết thôi mới là.
---- Lối đi lạc chưa xa là mấy,
---- Nay khôn rồi chẳng dại như xưa,
---- Con thuyền thuận nẻo gió đưa,
---- Gió hây hẩy áo, thuyền lơ lửng chèo.
---- Hỏi hành khách lối nào đi tới,
---- Bóng mập mờ trời mới rạng đông;
---- Miền quê nẻo bước 88 [28] xa trông,
---- Chân hăm hở bước, đường mong tới nhà.
---- Chạy đón chủ năm ba đầy tớ,
---- Đứng chờ ông mấy đứa trẻ con;
---- Rậm rì bao xóm con con,
---- Mấy cây tùng cúc hãy còn như xưa.
---- Tay dắt trẻ vào nhà mừng rỡ,
---- Rượu đâu đà sẵn chứa đầy vò;
---- Thoạt ngồi tay đã nghiêng hồ,
---- Cười nom sân trước thấp tho mấy cành.
---- Ngồi giễu cợt một mình trước sổ,
---- Khéo cũng hay vừa chỗ rung đùi.
---- Thăm vườn dạo thú hôm mai,
---- Cửa dù có, vẫn then cài như không.
---- Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
---- Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên:
---- Mây đùn mấy đám tự nhiên,
---- Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
---- Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
---- Quanh gốc tùng tựa mát thảnh thơi;
---- Từ đây về thực về rồi,
---- Thôi xin từ tuyệt với người vãng lai.
---- Vì ta đã với đời chẳng hiệp,
---- Cần chi mà giao thiệp với ai?
---- Chuyện trò thân thích mấy người,
---- Bạn cùng đèn sách khi vui đỡ buồn.
---- Người làm ruộng ôn tồn hỏi chuyện,
---- Tới xuân rồi, sắp đến việc ta;
---- Hoặc truyền sắm sửa cân xa 89 [29] ,
---- Hoặc khi đủng đỉnh thuyền ra coi đồng.
---- Dưới khe nọ nước vòng uốn éo,
---- Bên đường kia gò kéo gập ghềnh;
---- Cỏ cây mơn mởn màu xanh,
---- Suối tuôn róc rách bên ghềnh chảy ra.
---- Ngắm muôn vật đương mùa tươi tốt,
---- Ngán cho ta thôi trót già rồi;
---- Thôi còn mấy nỗi ở đời,
---- Khứ lưu sao chẳng phóng hoài 90 [30] tự nhiên?
---- Cớ chi nghĩ thêm phiền tấc dạ,
---- Đi đâu mà tất tả vội chi?
---- Giàu sang đã chẳng thiết gì,
---- Cung tiên chưa dễ hẹn gì 91 [31] lên chơi!
---- Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
---- Việc điền viên vất vả mà vui,
---- Lên cao hát một tiếng dài,
---- Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
---- Hình thể này mặc dầu tạo hóa,
---- Tới lúc nào hết cả thì thôi,
---- Lòng ta phó với mệnh trời,
---- Đừng ngờ chi nữa, cứ vui vẻ hoài!
 
-------------------------------------- TỪ LONG dịch
 
Có người cho rằng Đào Uyên Minh chủ trương “lánh đời”, nhưng không phải vậy. Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Nếu ông là một nhà luân lí thì ông đã xuất gia làm hoà thượng rồi. Nhưng ông yêu đời lắm nên không muốn lánh đời. Ông coi tình vợ chồng, cha con không phải là hư ảo; những cành lá rủ trong vườn của ông, mấy gốc tùng mà ông thích kia, cũng không phải là những vật hư ảo; vì ông là người cận tình hợp lí cho nên ông quyến luyến với người và vật. Do thái độ yêu đời, thái độ tích cực mà hợp lí đó, ông mới cảm được một sự điều hoà đặc biệt nó biểu hiện trong thi ca của ông. Ông sinh trên cõi trần, thuộc về cõi trần, cho nên không lánh cõi trần mà muốn:
 
---- …lúc chiều trời êm ả,
---- Việc điền viên vất vả mà vui,
---- Lên cao hát một tiếng dài,
---- Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
 
Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hoà hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng .


Каталог: file
file -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
file -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
file -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
file -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 7790-5 : 2008 iso 2859-5 : 2005
file -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
file -> UỶ ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
file -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 1.38 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương