Lời Than Trách (= Impropères) Trong tiếng La tinh, improperium có nghĩa là lời than trách. Bài thán ca là lời than trách thống thiết của Ðức Kitô đối với dân đã phụ bạc Người. Trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh



tải về 0.56 Mb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.56 Mb.
#30023
1   2   3   4   5   6

Trung Gian (Người)

(= Pontife)

Trong tiếng La tinh pontifex có nghĩa là người bắc cầu. Trong lãnh vực tôn giáo, người trung gian là một linh mục, thi hành vai trò nối kết giữa cộng đoàn nhân loại với Thiên Chúa, Phụng Vụ là môi trường chính yếu để thi hành vai trò trung gian này (xc. Tư Tế). Ðức Giáo Hoàng, vị đại diện Chúa Kitô và thủ lãnh của toàn thể Phẩm Trật Hội Thánh, cũng được gọi bằng danh hiệu này (xc. Ðức Thánh Cha). Ðức Giám Mục là người trung gian của phụng vụ Kitô giáo (xc. Giám Mục).


Trung Gian (Vai Trò)

(= Médiation)

Trong tiếng La tinh medius có nghĩa là người ở giữa, người trung gian. Ðây là hành vi hay tình trạng của người đứng ở giữa nhiều người, nhiều bên để làm cho họ hòa giải với nhau. Phụng vụ là cách thực thi hoàn hảo nhất vai trò trung gian tư tế của Ðức Kitô giữa Thiên Chúa. Thân Phụ của Người, và nhân loại do Người đã dựng nên, là anh em của Người, qua hiến lễ Người đã dâng (xc. Tư Tế). Vai trò trung gian của Ðức Maria, hoàn toàn tùy thuộc sự trung gian nơi Con của Người, được liên kết với việc Mẹ luôn gắn bó với công trình của Thiên Chúa và công trình của Con Mẹ, và với việc Mẹ được đưa lên hưởng phúc vinh quang bên cạnh Ðức Giêsu, Ðấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta (Dt 7,25). Ðức Maria là Omnipotentia supplex nghĩa là Ðấng khẩn cầu toàn năng (xc. Vô nhiễm nguyên tội).


Truyền Chức (Bí Tích)

(= Ordre)

Từ La tinh Ordo có nghĩa là hàng, sự kế tục. Mọi cộng đoàn hân vị, mọi xã hội, đều gồm có một cấu trúc nội tại, ngay cả cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần cũng vậy (xc. 1Ga 1,3: Societas trong bản Phổ Thông). Cũng như Chúa Cha sai Chúa Con - chứ không phải ngược lại, Ðức Kitô cũng sai các Tông Ðồ để tiếp nối sứ vụ của Người qua trung gian và thời gian, bằng cách ban cho các vị những thẩm quyền cần thiết để thi hành chức vụ: các Tông Ðồ cũng tiếp nhận Thánh Thần trong Ðức Kitô (Ga 20,21-22; xc. Mt 3,16). Bí tích Truyền Chức làm cho Hội Thánh có một cấu trúc và một trật tự nội tại, với những dấu chỉ sống động và hữu hiệu về sự hiện diện của Ðức Kitô. Giám Mục có chức tư tế trọn hảo.trong giáo đoàn của mình, giám mục là nguyên ủy của mọi chức thánh. Tùy theo cách thức khác nhau, linh mục và phó tế tham dự vào sứ vụ thẩm quyền viên mãn của giám mục: linh mục trong chức năng tư tế còn phó tế trong chức năng phục vụ. Như vậy, để hiểu được bí tích Truyền Chức, không phải là tìm xem chức linh mục thêm gì vào chức phó tế hoặc chức giám mục thêm gì vào chức linh mục, nhưng phải bắt đầu từ chức giám mục mà tìm xem các linh mục và phó tế, tùy theo cách thức khác nhau, đã tham dự vào sứ vụ và thẩm quyền của giám mục như thế nào. Bí tích Truyền Chức tác động nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần để mưu ích cho tín hữu. Nghi thức cốt yếu của Bí Tích Truyền Chức là việc đặt tay, cùng với lời cầu nguyện thánh hiến (xc. Giám Mục; Linh Mục; Phó Tế; Phẩm Trật; Giáo Sĩ).


Truyền Chức (Nghi Thức)

(= Ordination)

Tiếng La tinh ordinatio nghĩa là sắp xếp theo trật tự, tổ chức phân phối nhiệm vụ. Ðây là nghi lễ long trọng ban bí tích Truyền Chức. Hành vi chính yếu trong nghi lễ truyền chức giám mục, linh mục và phó tế là việc đặt tay khi đọc lời nguyện thánh hiến. Phải là giám mục mới ban các bí tích Truyền Chức thành sự (xc. Giám mục; Linh mục; Phó tế).


Truyền Tin (Lễ)

(= Annonciation)

Vào ngày 25 tháng 3 cử hành lễ trọng mừng kính biến cố loan báo cho Ðức Maria việc Chúa Nhập Thể. Các sách phụng vụ đều ghi là lễ Báo Tin Chúa, hiểu ngầm cho Ðức Maria. Ai cũng biết là trình thuật về biến cố đầ tiên này đã được thánh Luca trình bày trong phần đầu sách Tin Mừng của người (1,26-38). Lễ này được công nhận vào khoảng thế kỷ thứ IV, mặc dù Mầu Nhiệm Nhập Thể đã được đề cập đến ngay từ đầu kỷ nguyên Kitô giáo trong các tác phẩm của các giáo phụ và các tác phẩm nghệ thuật thánh.

Ðối tượng cốt yếu của lễ này là việc Nhập Thể làm người của Ngôi Lời trong cung lòng Ðức Maria, trong đó có lời loan báo cho Ðức Trinh Nữ và sự ưng thuận của Người. Thiên Chúa là Ðấng khởi xướng, nhưng muốn có sự ưng thuận chính thức của Ðức Trinh Nữ để Người thụ thai do tác động của Chúa Thánh Thần. Nhờ tiếng Xin Vâng - Fiat - của Ðức Maria, thái độ biểu lộ sự cộng tác hoàn hảo nhất của con người vào công trình Thiên Chúa, Ngôi Lời đã thành xác phàm (Ga 1,14). Giao Ước chung cuộc giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thiết lập. Ỏ đây, Ðức Maria là khuôn mẫu của Hội Thánh, một Hội Thánh, trong mọi sinh hoạt của mình, nhất là trong phụng vụ, vẫn ưng thuận một cách tích cực và năng động trước công trình Thiên Chúa, qua trung gian Ðức Kitô, Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là người, và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.

Cần bết rằng Lễ Truyền Tin được cử hành đúng chín tháng trước lễ Giáng Sinh, điều này tương ứng với thời gian thai nghén của con người.


Trừ Tà (Nghi Thức)

(= Exorcisme)

Tiếng Hy Lạp exorkidzéin nghĩa là xua đuổi. Trừ tà là cầu xin (orkidzéin) để trục xuất (ex). Nghi lễ trừ tà là xua đuổi ma quỉ để giải thoát cho con người hay các đồ vật. nghi lễ này gồm các lời nguyện, cử chỉ như hà hơi, đặt tay, làm dấu thánh giá, rảy nước thánh. Trừ tà nằm trong các nghi thức thời dự tòng là các nghi thức chuẩn bị lãnh bí tích Thánh Tẩy. Một số nghi thức chúc lành cũng được bắt đầu bằng việc trừ tà.

Việc thực hành trừ quỉ đã có từ xa xưa trong Hội Thánh, mặc dù thường bị pha trộn một số yếu tố dị đoan. Nghi thức trừ tà có cơ sở là gương Ðức Kitô: các Tin Mừng kể lại cách thức Người trừ quỉ (Mt 8,28tt; 15,21-28; Mc 1,23-28; Lc 8,12; xc. Ga 12,31).
Trừ Tà (Tác Viên)

(= Exorciste)

Thầy trừ tà là thừa tác viên để thi hành việc trừ tà. Các lần trừ tà trong thời gian dự tòng có thể được thực hiện do linh mục, phó tế hay ngay cả giáo lý viên. Những lần trừ tà khi cử hành bí tích Thánh Tẩy được dành cho linh mục hoặc phó tế. Việc trừ tà trong một số nghi thức chúc lành được dành cho linh mục. Ðể thực hiện việc trừ quỉ trong những trường hợp tà ma ám ảnh, bùa ếm... Ðức Giám Mục chỉ định một hay nhiều linh mục trong giáo phận của người để thi hành việc này.


Trưng Bày Thánh Thể

(= Exposition)

Ðó là việc trưng bày Thánh Thể cho tín hữu tôn thờ. Thông thường, Mình Thánh được đặt trong mặt nguyệt, rồi đặt trong mặt nhật và đặt trên bàn thờ, có nến xung quanh. Không được phép trưng bày Thánh Thể trong thánh lễ. Cũng có thể trưng bày di tích các thánh để giáo dân tôn kính tại một nơi xứng hợp (xc. Tranh thánh).


V

Việc Ðạo Ðức

(= Exercices)

Từ exercitium tiếng La tinh xuất phát bởi động từ Exercere nghĩa là không để cho ngơi nghỉ, động từ này có lẽ ghép bởi Ex: ngoài, và Arcere: gồm chứa, nhốt trong một đô thị (Arx). Như vậy, Exercitium là làm cho sinh lực hoạt động. Người ta dùng từ này để gọi các việc đạo đức, tức là những cách thực hành không phải là hành vi phụng vụ của cộng đoàn Kitô hữu (xc. Á Phụng Vụ).


Vinh Danh (Kinh)

(= Gloria)

Vinh tụng ca trong tiếng Hy Lạp, doxologia được dịch sang tiếng La tinh, bắt đầu bằng chữ Gloria (Vinh danh). Nguyên nó là một bài thánh thi buổi sáng. Kinh này là tổng hợp nhiều bản văn Kinh Thánh, đặc biệt từ lời ca ngợi do các thiên thần hát lên trong đêm Chúa Giáng Sinh (Lc 2,13-14). Vì vậy, nó có tên gọi là thánh ca thiên thần (xc. Ga 1,29; Tv 109,1; Cv 2,34-36). Bài ca này xuất hiện sớm nhất cũng là vào thế kỷ thứ IV, nhưng chỉ được đưa vào thánh lễ Rôma vào đầu thế kỷ thứ VI, sau đó trong tất cả các Chúa Nhật và các ngày lễ kính thánh tử đạo. Sau cùng, được dành cho lễ các thánh giáo hoàng, rồi đến lễ các thánh giám mục.

Ngày nay, người ta đọc đối đáp hay hát kinh Vinh Danh trong mọi Chúa Nhật, trừ Mùa Vọng và Mùa Chay. Tất cả lễ trọng và lễ kính đều hát Kinh Vinh Danh.

Một Kinh Vinh Danh khác ca tụng Chúa Ba Ngôi cũng bắt đầu bằng chữ gloria, thì ngắn gọn hơn: Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa. Trong các giờ kinh phụng vụ và đôi khi trong thánh lễ, câu vinh danh này là câu kết thông thường cuối một thánh vịnh hoặc một phần thánh vịnh, cũng như của phần lớn những bài thánh ca. Trong phụng vụ, cộng đoàn hiệp thông với và quanh Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần. Cũng như Chúa Con và nhờ Thánh Thần của các nghĩa tử, cộng đoàn tôn vinh Thiên Chúa, khi lặp lại: Vinh Danh.


Vinh Quang

(= Gloire)

Doxa trong tiếng Hy Lạp là ý kiến về một người nào đó (dokéin nghĩa là đánh giá, thẩm định), là sự thẩm định về một người có danh tiếng. Trong tiếng Hy Lạp, vinh quanh được kể như ánh sáng, vẻ rạng rỡ. Trước hết, vinh quang hàm chứa một sự chiếu tỏa ra điều danh tiếng khởi từ nguồn của nó, và khi trở về, lại hàm chứa sự phản ánh vinh quang. Ðiểm phát phải chiếu tỏa và điểm phản chiếu phải tái tạo một thứ ánh sáng không phải là ảo ảnh.

Duy chỉ Cha của ánh sáng (Gc 1,17) là nguồn mạch hoàn hảo của Vinh Quang (chữ viết hoa muốn nói đó chính là sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi); người chiếu tỏa toàn thể vinh quang của Người nơi Chúa Con, sự rực rỡ vinh quang của Người, ấn dấu của bản thể Người, chính Ngôi Lời tôn vinh Cha trong tất cả sự thật. Thần Khí vinh hiển (1Pr 4,14) là trung gian sự phát tỏa và phản hồi của Vinh Quang trong đời sống Ba Ngôi. Nhờ mầu nhiệm nhập thể, chúng ta đã nhìn thấy Vinh Quang nầy, Vinh Quang đến từ Chúa Cha, làm vinh hiển Chúa Con (Ga 1,14), và rạng ngời trên dung mạo Chúa Kitô (2Cr 4,6). Nhờ Người, tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một tấm gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí" (2Cr 3,18). Sự trao đổi Vinh Quang này ngay trong Ba Ngôi đã tạo nên cơ cấu phụng vụ: trước khi tôn vinh, phải đón nhận Vinh Quang; Vinh Quang đến với chúng ta từ Chúa Cha, nhờ đó Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, và tùy mức độ chiếm hữu Thánh Thần của Chúa Con, chúng ta có thể trả lại Vinh Quang cho Chúa Cha. Khi cầu xin trong lời nguyện tư tế: Lạy Cha, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha (Ga 17,1), Chúa Giêsu đã xác định tất cả hữu thể và cuộc sống làm Con của Người, như cuộc hiến mình để thông ban Vinh Quang của Chúa Cha như Người không ngừng đón nhận và phản chiếu (7,19-22). Bí tích Thánh Thể đặt chúng ta vào trung tâm của Vinh Quang này, cũng như tất cả mọi cử hành phụng vụ có Thánh Thể là trung tâm, trong khi chờ ngày dẫn đưa chúng ta tới phụng vụ trên trời, nơi chúng ta hy vọng sẽ được tháp nhập hoàn toàn vào việc ngợi khen Vinh Quang (xc. Ep 1,6.12.14). Ðối với người Do Thái, vinh quang không cất đi sự rạng rỡ, nhưng cất đi sức nặng. Cũng chính ở đó, độ dày hay sức nặng của hữu thể thuộc về một mình Thiên Chúa, đến nỗi những sự tỏ hiện của Thiên Chúa, theo nghĩa đen, là một sự đè bẹp. Mặc khải dần dần cho thấy độ dày của sự sống Thiên Chúa được kết thành bởi sức nặng tình yêu; Tân Ước mặc khải rằng nơi Thiên Chúa có Ba Ngôi để trao hiến và đón nhận tình yêu, và sức ép của tình yêu Ba Ngôi không nhằm đè bẹp nhưng là để thắt chặt. Trong phụng vụ, tất cả những bất ổn hoặc hời hợt phải biến đi, các tín hữu được đặt ở trung tâm trọng lực của sự sống Ba Ngôi, Ðấng là Tình Yêu được thông ban và tái tạo trong Thánh Linh (xc. Biến hình; Ba Ngôi; Ca tụng; Vinh tụng ca).
Vinh Tụng Ca

(= Doxologie)

Theo tiếng Hy Lạp, doxa có nghĩa là vinh quang, và logos nghĩa là lời. Như vậy, doxologia là lời về vinh quang, tức là một công thức cử hành vinh quang Thiên Chúa. Những công thức loại này có nhiều trong Kinh Thánh. Trong phụng vụ, các vinh tụng ca chính là:

- "Chính nhờ Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô và trong Ðức Kitô..." kết thúc kinh Tạ ơn của Thánh lễ,

- "Vì Chúa là vua uy quyền và vinh hiển muôn đời" sau kinh Khấn xin của Kinh Lạy Cha,

- "Vinh danh Chúa Cha..." kết thúc các thánh vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ,

- Ðoạn cuối cùng trong các thánh thi.

Ngoài ra, người ta cũng gọi kinh Vinh Danh trong Thánh Lễ và Kinh Te Deum là những vinh tụng ca (xc. Ca tụng).
Vô Nhiễm Nguyên Tội

(= Immaculation)

Lễ trọng vào ngày 8 tháng 12, kính Ðức Mẹ Maria thụ thai mà không vương tội, nhờ hồng ân độc nhất, tức là ân sủng phát xuất từ cuộc tử nạn của Chúa Con trên thập giá. Ðức Maria được hoài thai trong cung lòng bà thánh Anna, mà không vướng mắc tội nguyên tổ. Thực vậy, việc Con Thiên Chúa chuẩn bị cho mình một người mẹ xứng đáng thật hợp lý. Ðược ơn vô nhiễm nguyên tội, Ðức Mẹ cũng được tràn đầy ơn sủng (Lc 1,18) phù hợp với thiên chức làm Thiên Chúa Thánh Mẫu. Tuy nhiên, không như Chúa Con, Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là người, Ðấng không hề phạm tội, Ðức Maria không phải là không thể mắc tội: Mẹ có thể phạm tội, nhưng Mẹ đã hoàn toàn tuân theo ân sủng của Thiên Chúa không ngừng đổ tràn nơi mình. Trong chương trình của Thiên Chúa, chính vì con người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta mà Ðức Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội, theo như tín điều được Ðức Giáo Hoàng Piô IX công bố năm 1854 và như chính lời Mẹ nói với chị Bernadette tại Lộ Ðức năm 1858. Ðược tuyển chọn riêng để trở thành Ðức Mẹ Thiên Chúa, thì chính Mẹ, do sự trung thành hoàn toàn với Thánh Ý Thiên Chúa, thi hành một chức năng trung gian với tư cách làm mẹ, để nối dài sự trung gian của Chúa Con, vì lợi ích của tất cả mọi người. Tất cả những ai trung tín và gắn bó với Chúa Con, sẽ đến với Mẹ, trong vinh quang Thiên Chúa, cùng với Mẹ, trở thành Hiền Thê của Ðức Kitô, xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền (Ep 5,27).


Vương Cung Thánh Ðường

(= Basilique)

Trong tiếng Hy Lạp, basilikè có nghĩa là (cổng) hoàng cung. Ðối với dân Rôma, basilica là một kiến trúc dân sự, chia thành nhiều dãy song song, làm nên một thứ quảng trường (forum) có mái che, tại đây người ta bàn bạc công việc hoặc gặp gỡ nhau. Khi được bình an dưới thời hoàng đế Con-tăng-ti-nô, những kiến trúc đầu tiên của Kitô giáo là các đền thờ Rôma được cải tạo, hoặc các thánh đường được xây dựng dựa theo họa đồ các đền thờ Rôma. Ðền thờ thánh Phêrô, đền thờ Ðức Bà Cả, đền thờ thánh Phaolô ngoại thành là những vương cung thánh đường. Nhà thờ Chúa Giáng Sinh ở Bêlem là một vương cung thánh đường rất cổ xưa.

Trong ngôn ngữ thông thường, vương cung thánh đường là tước hiệu do đức giáo hoàng đặt cho một số đền thờ, đặc biệt tại các nơi hành hương (Lộ Ðức, Lisieux, Montmatre, v.v...)
Vượt Qua (Lễ)

(= Pâque)

Cách gọi Chúa Nhật mừng trọng thể Chúa Phúc Sinh. Không rõ từ nguyên thế nào. Thường người ta ghép nó với Pâsah trong tiếng Hípri có nghĩa là nhảy, đi qua, miễn xá (xc. Xh 12,11.23.27): Ðức Chúa miễn xá không sát hại các con đầu lòng của người Israel, nhờ máu của con chiên Vượt Qua. Thực tế, có lẽ phải đưa từ vượt qua trở về với một từ gốc Sêmít cổ: pashahu, có nghĩa là làm nguôi.

Nghi thức giết chiên Vượt Qua nguyên thủy là một hy tế của các người chăn chiên du mục, nhằm xin cho bầy súc vật sinh sôi nẩy nở vào mùa xuân. Ngược lại, việc dâng tiến lúa mì đầu vụ lại là nghi lễ của các nông gia đã sống nếp sống định cư. Những nghi lễ này, khi liên kết với việc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, đã trở thành lễ vượt qua của người Hípri, tưởng niệm việc Ðức Chúa ra tay hành động để cứu thoát Dân Người.

Bằng toàn thể Mầu Nhiệm Vượt Qua - Thương Khó, Tử Nạn, Phục Sinh - Ðức Kitô, Con Chiên đích thực (Ga 1,29.36; 18,28; Lc 22,7-16) và Bánh hằng sống (Ga 6,35) đã hòa giải con người tội lỗi với Chúa Cha và niêm ấn Giao Ước. Như vậy, lễ Vượt Qua do Ðức Giêsu thiết lập đón nhận và kiện toàn vừa việc cử hành sự đổi mới của mùa xuân - một thứ phục sinh trong thiên nhiên cây cỏ và sinh vật, được nhiều tôn giáo coi là linh thánh, vừa việc cử hành tưởng niệm việc giải phóng có tính cách lịch sử Ðức Chúa đã thực hiện để cứu thoát Dân Người.

Lễ Vượt Qua, theo nghĩa chặt, là lễ trọng bậc nhất, mừng Chúa Phục Sinh, là trọng tâm của toàn thể năm phụng vụ; lễ ấy bắt đầu với đêm canh thức Vượt Qua, chiều thứ Bảy Tuần Thánh, và kéo dài hết ngày Chúa Nhật. Năm mươi ngày trong mùa Phục Sinh chỉ là một cách mở rộng "Ngày Chúa đã làm ra" (Tv 117,23).

Người Do Thái giết chiên Vượt Qua và ăn mừng lễ Vượt Qua vào chiều ngày 14 tháng Ni-san, ngày trăng đầy vào mùa xuân. Chúa Kitô, khi chịu chết trên thánh giá vào ngày thứ Sáu 14 tháng Ni-san và phục sinh "Ngày thứ nhất trong tuần" (Ga 20,1), nghĩa là ngày áp ngày sabát. Ðối với người Kitô hữu, có ba cách giải quyết để định ngày mừng lễ Phục Sinh: hoặc xác định ngày đó vào ngày Chúa Nhật tiếp sau ngày trăng tròn mùa xuân; hoặc sau cùng, như "Nhóm 14" (vào thế kỷ thứ II, ở Tiểu Á), giữ ngày lễ đúng ngày 14 tháng Ni-san. Tại công đồng Ni-xê-a (325), ngày lễ này được xác định vào ngày Chúa nhật sau ngày trăng tròn lúc xuân phân. Tuy nhiên, vì những cách tính khác nhau, các Hội Thánh Ðông Phương và Tây Phương không mừng lễ cùng một ngày. Bình thường đó là vấn đề xác định ngày lễ vào một ngày Chúa Nhật cố định (Chúa Nhật thứ nhất hoặc thứ hai của tháng Tư) và phải ghi nhận rằng công đồng Vaticanô II không chống đối cách tính này (xc. Phụ trương Hiến Chế Phụng Vụ Thánh). Nhưng anh em Chính Thống chống đối mạnh mẽ.


X

Xá Giải

(= Absolution)

Hành vi linh mục nhân danh Thiên Chúa thứ tha (absolvere: tẩy xóa, tháo gỡ) các tội lỗi của hối nhân. Ðây chính là sự áp dụng quyền Chúa Giêsu đã trao cho thánh Phêrô: "Ðiều gì anh cầm buộc ở dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì anh tháo cởi dưới đất, trên trời cũng tháo cởi" (Mt 16,19) và cho các Tông đồ vào ngày Phục Sinh: "Hãy nhận lấy Thánh Thần, anh em tha tội cho ai, thì tội họ được tha; anh em cầm buộc tội ai, thì tội họ bị cầm buộc" (Ga 20,22-23).

Ðây là công thức xá giải: "Thiên Chúa là Cha thương xót, đã dùng sự sống, sự chết, và sống lại của Con Chúa mà giao hòa thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Người dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho anh ơn tha thứ và bình an. Vậy tôi tha tội cho anh nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần".

Khi đọc công thức trên, linh mục giang tay về phía hối nhân, đến đoạn cuối, tức là phần quan trọng nhất, linh mục vẽ hình thánh giá trên hối nhân. (xc. Sám hối).

Cũng cần lưu ý là cuối phần sám hối ở đầu thánh lễ, linh mục cũng đọc một công thức xá giải, tuy nhiên không có tính cách bí tích: "in Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống muôn đời."

Khi cử hành sám hối tập thể, cần nhắc cho các tín hữu nhớ rằng họ buộc phải xưng những tội trọng mà họ đã xét thấy.


Xanh (Màu)

(= Vert)

Màu xanh là màu dùng trong mùa Thường Niên, nhắc đến việc Hội Thánh lớn lên nhờ nhựa sống Thiên Chúa ban.


Xin Cũng Cho Chúng Con (Kinh)

(= Nobis quoque)

Ðây là những chữ La tinh đầu tiên của lời nguyện cuối kinh Tạ Ơn I (lễ qui Rôma): "Cả chúng con nữa, là những người tội lỗi..." Lời nguyện này xin Chúa cho cộng đoàn phụng vụ được tham dự vào cộng đoàn các thánh Tông Ðồ và tử đạo; trong lời nguyện có nêu tên một vài vị (xc. Bìa xếp, Kinh "Cùng hiệp thông...").


Xin Nhớ Ðến (Kinh)

(= Memento)

Từ La tinh memento có nghĩa là kinh Xin hãy nhớ đến. Ðây là những tiếng đầu tiên của lời nguyện trong kinh Tạ Ơn Rôma, đọc trước lời thánh hiến, với mục đích trao phó mọi người sống cho Thiên Chúa. Cuối kinh Tạ Ơn này, cũng có một lời nguyện khác, bắt đầu bằng tiếng Memento, để trao phó cho Thiên Chúa những người đã qua đời. Việc nài xin Chúa tưởng nhớ là một yếu tố chính của phụng vụ (xc. Tưởng nhớ).



Xức Dầu

(= Onction)

Tiếng La tinh là unctio, ungere. Việc xức dầu thánh là một trong những dấu chỉ chính yếu của các hành vi phụng vụ. Chủ yếu trong các cuộc cử hành bí tích Thêm Sức và bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân; còn trong nghi thức Thánh Tẩy, Truyền Chức cũng như Cung Hiến Ðền Thờ và Bàn Thờ, xức dầu có tính cách phụ tích.


Xức Dầu Bệnh Nhân (Bí Tích)

(= Sacrement des malades)

Bí tích Xức Dần Bệnh Nhân nhằm tiếp tục trong Hội Thánh công việc từ bi bác ái Chúa đã thực hiện. Người đã đặt tay trên những bệnh nhân để chữa họ (Mt 8,3.15; Mc 6,5; xc. Cv 4,30). Ngay khi còn sống trên trần gian, Ðức Giêsu đã phái các môn đệ đi truyền giáo: Các ông trừ được nhiều quỉ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh (Mc 6,13). Ðến lúc xa các môn đệ. Ðức Giêsu cho thấy những dấu lạ sẽ đi kèm theo những người tin (Mc 16,17), trong số đó họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được an lành mạnh khỏe (c. 18). Thế nên, ta không ngạc nhiên khi đọc thấy trong thư Giacôbê: "Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Cúa nâng dậy, và nếu đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha" (5,14-16).

Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân chủ yếu gồm: phần sám hối và kinh cầu (xc. Kinh cầu). Tiếp theo, linh mục thinh lặng đặt tay trên đầu bệnh nhân, rồi xức dầu bệnh nhân (dầu đã được đức giám mục làm phép trong ngày thứ Năm Tuần Thánh) trên trán và trên hai tay bệnh nhân. rong khi xức dầu, linh mục đọc: "T..., nhờ việc xức dầu thánh này, xin Chúa tỏ lòng nhân từ vô biên đối với con và xin Người tha mọi sự dữ con đã phạm". Sau đó là lời nguyện,kinh Lạy Cha và phép lành kết thúc nghi thức.

Cũng tương tự như đối với một số bệnh, người ta xức một thứ dầu nào đó để cho dịu cơn bệnh, thì việc xức dầu này cũng làm cho dịu cơn bệnh một cách siêu nhiên, nhưng nhất là làm cho linh hồn được bình an, cũng như tha thứ tội lỗi và hậu quả của tội. Việc xức dầu không chuẩn miễn bí tích Sám Hối, nhưng đó là một cách hoàn tất bí tích Sám Hối. Bí tích Xức Dầu bệnh nhân không phải là bí tích Xức Dầu sau hết, dành cho những người sắp chết. Bất cứ ai bệnh nặng đều có đủ lý do để đón nhận ân sủng riêng, thuộc hoàn cảnh riêng trong đời của người Kitô hữu, hoặc đơn giản chỉ vì tuổi già sức yếu.


Xướng Cung

(Intonation)

Là cất tiếng hát, cất giọng, bắt giọng (intonare trong tiếng La tinh có nghĩa là làm vàng dội). Ðây là việc cất lên những chữ đầu hoạc những nốt nhạc đầu của một bản văn phụng vụ. Có thể là do chủ tế, các ca xướng viên, hoặc những người tham dự nghi lễ. Kinh Vinh Danh, Kinh Tin Kính, Kinh Te Deum, điệp ca, một thánh vịnh, một thánh thi... là những chỗ thường có người bắt những câu đầu (xc. Ðặt tay).


Xướng Ðáp

(= Responsorial)

Sách hát Ghê-gô-ri-a-nô dùng trong phụng vụ, gồm những đáp ca có ghi nốt nhạc dùng trong giờ kinh Ðêm, cũng như các điệp ca các giờ kinh Ðêm và bản văn Giáo đầu có ghi nốt nhạc.

tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương