Lời Than Trách (= Impropères) Trong tiếng La tinh, improperium có nghĩa là lời than trách. Bài thán ca là lời than trách thống thiết của Ðức Kitô đối với dân đã phụ bạc Người. Trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh



tải về 0.56 Mb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.56 Mb.
#30023
1   2   3   4   5   6

Th


Tham Dự

(= Participation)

Tiếng La tinh participatio nghĩa là tham dự, bởi partem capere nghĩa là chia sẻ, tham gia. Vì toàn bộ phụng vụ nhằm liên kết Hội Thánh với Thiên Chúa để cử hành Giao Ước được đóng ấn trong máu Ðức Giêsu (xc. Phụng vụ; Công trình Thiên Chúa), nên phụng vụ đòi hỏi sự tham dự tích cực của các tín hữu qua việc thực thi chức tư tế hoàng vương trong mối liên kết với chức tư tế thừa tác. Công đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh đến đòi hỏi này: "Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong toàn thể tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Do chính bản tính phụng vụ đòi hỏi việc tham dự như thế; lại nữa, nhờ phép rửa tội, việc tham dự vào các cử hành phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, là dòng giống được lựa chọn, là tư tế hoàng vương, là chủng tộc thánh thiện, là dân được tuyển chọn" (1Pr 2,9; xc, 2,4-5) (PV số 14).
Thánh Ca

(= Cantique)

Trong các Giờ Kinh Phụng Vụ, các bài ca trích từ Kinh Thánh ngoài các thánh vịnh, được gọi là thánh ca. Các bài thánh ca Cựu Ước được đọc mỗi ngày trong giờ Kinh Sáng, chẳng hạn như thánh ca của ông Môsê (Ðnl 2,1-10), thánh ca Tôbia (Tb 13), và các bài thánh ca rút từ sách Isaia, Êzêkiel, Khôn ngoan.
Trong Kinh Sách phần thứ III của kinh Thần Vụ được các đan viện cử hành giờ canh thức hay kinh đêm, thì các bài thánh ca Cựu Ước được chỉ sẵn. Ngoài các bài ca Beneditus, Magnificat và Nunc dimittis, là những thánh ca Tin Mừng được hát mỗi ngày vào những lúc nhất định của các giờ Kinh Sáng, Kinh Chiều và Kinh Tối, còn có các bài thánh ca Tân Ước lấy từ sách Khải Huyền, thư Êphêsô, thư Philipphê, thư Côlôsê, thư 1 Timôthêu và thư 1 thánh Phêrô, được hát hằng ngày ở cuối phần thánh vịnh Kinh Chiều.
Thánh Giá

(= Croix)

Thập tự là dụng cụ hành hình Ðức Giêsu, sau trở thành biểu tượng của ơn Cứu Ðộ, một dấu chỉ hoàn hảo của Tình Yêu Thiên Chúa đối với chúng ta và Tình Yêu của Chúa Con Nhập Thể đối với Chúa Cha. Nghi thức tôn thờ thánh giá, trọng tâm của phụng vụ chiều thứ Sáu Tuần Thánh, cũng cho thấy ý nghĩa chiến thắng như được kể trong trình thuật Thương Khó của thánh Gioan: Ðức Kitô được nâng cao khỏi đất để lôi kéo mọi sự lên với Người. Toàn bộ phụng vụ dựa trên Mầu Nhiệm Thập Giá và Phục Sinh: vì thế, không lạ gì khi người ta thấy đâu đâu cũng có tượng Thánh Giá và dấu Thánh Giá trong các cử hành phụng vụ. Ðấy không phải là chủ trương của Hội Thánh nhằm đề cao đau khổ, nhưng là một cái nhìn có tính cách "vượt qua" một cái nhìn ngây ngất trước tính hiện thực của một tình yêu không ngừng cứu thoát chúng ta.

Thánh giá xuất hiện trên các tháp nhà thờ cũng như ở bên trên gian cung thánh. Dấu chứng tỏ rõ ràng các nhà thờ được thánh hiến là 12 hình Thánh Giá thánh hiến (xc. Thánh hiến); đối với bàn thờ được thánh hiến cũng vậy, trên đó cũng phải in rõ năm hình thánh giá. Trong các cuộc rước, Thánh Giá bao giờ cũng dẫn đầu. Y phục phụng vụ của linh mục cũng thường có hình thánh giá, đặc biệt là áo lễ. Các giám mục và đan viện phụ cũng mang Thánh Giá trên ngực.

Các cử điệu phụng vụ cũng ưu tiên cho dấu Thánh Giá. Dấu Thánh Giá dùng để mở đầu các cuộc cử hành. Khi đọc Tin Mừng, linh mục ghi dấu Thánh Giá trên sách Tin Mừng, rồi giáo dân cũng làm dấu Thánh Giá trên trán, trên miệng và trên ngực, có ý nói rằng Tin Mừng mà trung tâm là Thánh Giá và Phục Sinh, phải ảnh hưởng trên tư tưởng, lời nói và ý muốn của chúng ta. Trước khi truyền phép, linh mục làm dấu Thánh Giá trên bánh rồi trên rượu, ám chỉ rằng việc tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua một cách bí tích, gắn liên với mầu nhiệm Cứu Chuộc được thực hiện qua Thánh Giá. Tất cả những dấu thánh giá linh mục làm để thánh hiến hay chúc lành có cùng một ý nghĩa như vậy: phúc lành của Thiên Chúa gắn liền với việc Cứu Chuộc mà Thánh Giá là dấu chỉ thường hằng.

Vì thế, việc cử hành mầu nhiệm Thập Giá hòa nhập vào toàn thể phụng vụ. Tuy nhiên, việc cử hành ấy còn rõ ràng hơn vào Chúa Nhật Thương Khó, thứ Sáu Tuần Thánh, cũng như trong lễ Suy Tôn Thánh Giá ngày 14 tháng 9.


Thánh Kinh

(= Bible)

Giữa Thánh Kinh và phụng vụ có mối liên kết rất sâu xa: không phải ngẫu nhiên mà các bản văn phụng vụ chủ yếu được trích từ Kinh Thánh.

Trước hết, Thánh Kinh được khai sinh trong khung cảnh phụng vụ. Các truyền khẩu được phát triển và nhân các cuộc phụng tự nhằm phục vụ các cộng đoàn phượng tự. Thiên Chúa qui tụ dân Người để họ nghe Lời Người. Phụng vụ là đỉnh cao của lời ấy: trước khi thành văn, Lời ấy đã được loan báo, và một khi đã thành văn, Lời ấy chỉ gặp lại được trọn vẹn chiều kích của mình trong khung cảnh phụng vụ. Vì tất cả những lý do đó, phụng vụ vẫn là khung cảnh trọn vẹn để Kinh Thánh có thể được hiện thực.

Ngoài ra, cuốn Thánh Kinh mà chúng ta đang có trong tay là kết quả của sự hợp tác giữa Thiên Chúa, tác giả chân chính, và các tác giả được linh hứng. Vì thế, Kinh Thánh cho thấy một loại hình cộng tác hay hợp tác giữa Thiên Chúa và con người. Kinh Thánh cấu thành toàn bộ sinh hoạt của đức tin và đặc biệt là phụng vụ. Chẳng phải phụng vụ đã được định nghĩa như Công Trình Thiên Chúa, tức là tác động của Thiên Chúa đối với Dân Người, phối hợp với sự đáp ứng sống động của Dân được Thiên Chúa qui tụ lại đó sao?

Sau cùng, phụng vụ được soạn thảo chủ yếu từ các bản văn Kinh Thánh, đừng kể các bài đọc đúng nghĩa. Trong thánh lễ, mỗi người có thể nhận ra những gì mượn từ Kinh Thánh hay trực tiếp khởi hứng từ Kinh Thánh: ghi nhận ấy không có gì đáng ngạc nhiên. Sách lễ dường như được hình thành để chứa đựng Kinh Thánh, cùng với những lời đáp trả sống động của Hội Thánh. Sách lễ còn hơn cả Kinh Thánh, vì chính Thánh Kinh được đón nhận một cách sống động, là Thánh Kinh được cử hành, vừa bao gồm Lời của vị Hôn Phu, vừa bao gồm lời than thở đáp trả của vị Hôn Thê. Bởi đó, nếu phải chọn lựa giữa Kinh Thánh và Sách Lễ thì dứt khoát phải chọn Sách Lễ, vì Sách Lễ không chỉ chứa đựng những trang cốt yếu của Kinh Thánh, mà còn bao gồm cả cách thức đón nhận và hiểu Kinh Thánh. Ngay cả khi không tham dự thánh lễ được. sách Lễ cũng sẽ không để chúng ta phải một mình đối diện với Kinh Thánh: vì nhờ Sách Lễ, cùng với tất cả Hội Thánh, với tất cả truyền thống ngàn đời của Hội Thánh, ta sẽ khám phá ra ý định của Thiên Chúa để dấn bước theo thánh ý của Người.

Trong các Giờ Kinh Phụng Vụ, phần Kinh Thánh còn quan trọng hơn so với trong thánh lễ. Cốt lõi của Kinh Thần Vụ được cấu tạo do các thánh vịnh: thật là ý nghĩa khi chúng ta đáp lại lời Chúa bằng chính những lời của nhân loại được Thiên Chúa linh hứng. Một cách nào đó, phần sáng tác của Hội Thánh là một sự kéo dài một lời đáp trả được linh hứng qua Lời Thiên Chúa.
Thánh Lễ

(= Messe)

Tiếng La tinh missa nghĩa là hành động giải tán, gửi đi (động từ mittere: sai đi, gửi đi), cho nghỉ. Missa là hành động giải tán tín hữu khi kết thúc cử hành Thánh Thể. Công thức "ite, missa est" nghĩa là hãy đi, anh em được phép giải tán. Xưa kia, cuối phần cử hành Lời Chúa, những người dự tòng được cho về bằng một công thức giải tán (missa): vì chưa được thánh tẩy, nên họ không được tham dự vào Hiến Lễ Thánh Thể, và họ phải ra về sau bài giảng. Từ thế kỷ thứ VI, missa không những có nghĩa là giải tán, mà còn ám chỉ toàn bộ nghi lễ cử hành trước việc giải tán đó: vì vậy mà phụng vụ Lời Chúa trở thành một thứ "missa" (thánh lễ) đối với dự tòng. Tại Tây Phương, từ thế kỷ thứ VI, từ missa được dùng để chỉ phụng vụ Thánh Thể. Danh xưng nguyên thủy của cử hành thánh lễ là: "Bữa ăn của Chúa" (1Cr 11, 20.33); "Lễ Bẻ Bánh" (Cv 2,42-46; 20,7), "Lễ Tạ Ơn". Trong khi Tây Phương gọi là thánh lễ thì Ðông Phương lại dùng lại dùng danh từ "Phụng Vụ" (liturgia) để chỉ về cũng mặt thực tại.

Trong khi danh từ Tạ Ơn chủ yếu chỉ về mầu nhiệm được cử hành, với tất cả ý nghĩa sâu xa của nó, thì danh từ thánh lễ (missa) lại có nghĩa là toàn bộ các nghi thức mà người ta cử hành. Chỉ có một lễ Tạ Ơn, nhưng có nhiều cách cử hành thánh lễ, tùy theo hoàn cảnh không gian và thời gian, theo các nhóm phụng vụ: thánh lễ theo nghi thức Rôma, theo nghi thức Galliecan, theo nghi thức Amrôxiô theo nghi thức Ða Minh (xc. Các nhóm phụng vụ). Lễ Tạ Ơn không thể nào thay đổi được, vì mầu nhiệm đó do Thiên Chúa thiết lập, nhưng nghi thức thánh lễ hay cách thức cử hành thì có thể canh tân.

Các nghi thức chính yếu của thánh lễ Rôma hiện hành (nghi thức thánh lễ do Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố) diễn tiến như sau: ca nhập lễ (xc. Ca nhập lễ), lời chào của chủ tế, sám hối, kinh thương xót, kinh Vinh Danh, lời nguyện, bài đọc 1 (Cựu Ước), đáp ca hay ca tiến cấp, bài đọc 2 (thường trích từ thư thánh Phaolô), Hallêluia, bài Tin Mừng, bài giảng, kinh Tin Kính, lời nguyện cộng đồng, chuẩn bị lễ vật, lời nguyện trên lễ vật, kinh Tạ Ơn, kinh Lạy Cha đi kèm với lời nguyện và nghi thức chúc bình an, bẻ bánh, hiệp lễ, lời nguyện sau hiệp lễ, phép lành và giải tán cộng đoàn. Thứ tự này thích hợp cho các thánh lễ Chúa Nhật, lễ trọng, lễ kính; trong các lễ nhớ và ngày thường, không có kinh Vinh Danh, kinh Tin Kính, và chỉ có một bài đọc (Cựu Ước hay Tân Ước) trước bài Tin Mừng (xc. Sách lễ; Lễ nhớ tự do).
Thánh Nhân

(= Saints)

Các ngày lễ kính các thánh trong năm phụng vụ làm thành chu kỳ kính các thánh. Các thánh được "tôn phong" là những vĩ đã được Hội Thánh dùng quyền và dựa trên những thủ tục pháp định, công bố rằng các vị ấy đã tham dự vào vinh quang Thiên Chúa; tuy vậy, không có nghĩa là số đông các vị khác không tham dự vào vinh quang đó (xc. Sổ bộ các thánh; Lễ Chư Thánh; Bìa xếp).
Thánh Tâm

(= Sacré - Coeur)

Lễ trọng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu cử hành vào thứ Sáu sau Chúa Nhật thứ hai tính từ lễ Ngũ Tuần. Lễ này chú trọng đến biểu tượng tình yêu nhân loại của Ðức Kitô, dựa trên trình thuật của thánh Gioan về cạnh sườn bị đâm thâu: "Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Ðức Giêsu. Khi đến gần Ðức Giêsu và thấy Người đã tắt thở, họ không đánh giập ông chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra" (Ga 19,32-34). Ðối với các giáo phụ, nước và máu chảy từ Trái Tim rộng mở của Ðức Kitô. Thánh Gioan đã nói lên tầm quan trọng của sự việc này khi thêm: "Người xem thấy việc này đã làm chứng và lời chứng của người ấy xác thực, người đó biết mình nói sự thật để cho cả anh em cùng tin" (Ga 19,35). Lễ Thánh Tâm là một sự chiêm ngưỡng đầy tình yêu mến và có tính cách đền tạ Tình Yêu (xc. Dcr 12,10: "Họ sẽ ngước nhìn lên Ðấng họ đã đâm thâu", được trích lại trong Ga 19,37; xem thêm Ga 3,16; 13,1).
Thánh Tẩy (Bí Tích)

(= Baptême)

Tiếng Hy Lạp baptisma là việc được nhận xuống, hay dìm xuống. Trước hết, thánh tẩy có liên hệ với nhu cầu tự nhiên là tắm rửa: súc vật - thậm chí chim chóc - cũng có nhu cầu đó. Tôn giáo nào cũng luôn luôn có một nghi thức thanh tẩy hoặc tẩy rửa. Với phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả, nghi thức này mang một ý nghĩa nặng về luân lý hơn là về nghi tiết: "Người Do Thái được ông làm phép rửa trong dòng sông Giođan, khi họ xưng thú tội lỗi của mình" (Mt 6). Ðể đạt hiệu quả đầy đủ, thánh tẩy phải là một việc của Thiên Chúa, của Ðức Kitô và của Chúa Thánh Thần (xc. Mt 3,11).

Thật vậy, Ðức Giêsu, Chiên đích thực của Thiên Chúa, đã đến để hoàn tất thánh ý Chúa Cha khi Người mang lấy các tội lỗi của thế gian (Ga 1,29). Với trọng trách đó, Người để cho mình bị nhận chìm trong vực sâu của sự dữ và đau khổ. Về việc này, Người thổ lộ với các môn đệ: "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất!" (Lc 12,50). Qua cái chết cứu chuộc, Ðức Giêsu đã đi xuống tận âm phủ, để rồi đưa lên khỏi mặt nước tất cả những người chấp nhận để mình được cứu và đưa họ đến tận bến bờ của đời sống vĩnh cửu. Người hy sinh mạng sống chính là để lấy lại, hầu cho cái chết bị nhận chìm trong chiến thắng và để tất cả các bạn hữu của người được hưởng sự sống viên mãn (xc. Ga 10,17; 1Cr 15,54).

Muốn được tham dự vào sự sống của Ðức Kitô phục sinh, các tín hữu phải đi vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ thánh tẩy: "Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rm 6,4). Tất cả những cái chết nho nhỏ hoặc những thử thánh hằng ngày, chuẩn bị cho giờ chết của chúng ta, đều phải được liên kết với hiến tế của Ðức Kitô để có thể góp phần mang lại ơn cứu chuộc: như thế chúng ta đã được dìm trong cái chết của Người. Nhưng sự sống của Người đã hoạt động trong chúng ta: khi đã chịu Thánh Tẩy nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19), chúng ta đã được "dìm" trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, đã được uống Thánh Thần (1Cr 12,13), trong khi chờ đợi được dìm vào trong Vinh Quang.

Bí tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta nên những người "đã được tái sinh" vào trong sự sống của Thiên Chúa: đối với những người có thể được cứu độ (Ga 3,5; Mc 16,16); đối với những người khác, đời sống ngay chính, xả kỷ hy sinh, và ngay cả việc dâng hiến sự sống vào giây phút lìa đời - hoặc chỉ nguyên sự kiện chết như Ðức Kitô đã chết", trong trường hợp các em nhỏ chết mà chưa được thánh tẩy (xc. Rm 6,5) - đều là những danh nghĩa để đáng được hưởng một sự bổ khuyết nào đó, bởi vì theo một ngạn ngữ thần học. Thiên Chúa không bị ràng buộc với các bí tích. Như vậy, bình thường Thánh Tẩy cần thiết để được ơn cứu độ; Thánh Tẩy là "cửa ngõ dẫn vào các bí tích khác", tức là diều kiện để được chịu các bí tích khác; người ta không thể chịu phép Thêm Sức hoặc rước lễ nếu người ta chưa chịu Thánh Tẩy; để được nuôi dưỡng hoặc để đạt tới tầm vóc của người trưởng thành, cần phải sinh ra đời trước đã. Thánh Tẩy tái sinh khi ban mầm sự sống của Thiên Chúa; sau đó, phải để cho mầm sống ấy lớn lên bằng cách thực hành đời sống Kitô giáo, nhất là bằng việc thực hành đời sống phụng vụ và bí tích. Theo thánh Tôma, chức năng của "ấn tích" chúng ta được khi chịu Thánh Tẩy là làm cho chúng ta có đủ tư cách để thi hành việc thờ phượng. Sinh ra từ phụng vụ Thánh Tẩy, người Kitô hữu không muốn thành một thai nhi chết yểu, sẽ tìm được niềm vui và sức mạnh trong những việc cử hành phụng vụ.

Trong trường hợp cần thiết khẩn cấp (xc. Thánh Tẩy vắn tắt), ai cũng có thể cử hành Thánh Tẩy cho người khác, thậm chí người đó không cần phải là người đã được rửa tội; chỉ cần người đó muốn làm điều Hội Thánh làm. Khi đổ nước trên trán hoặc trên một phần thân thể của người xin Thánh Tẩy, người cử hành phải đọc: "Tôi rửa anh (chị, em), nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Thánh Tẩy bằng cách dìm tự nó có ý nghĩa nhất và cũng có tính cách nguyên thủy nhất; nhưng vì những lý do thực hành, nghi thức đổ nước là thông dụng nhất, và cũng thích hợp hơn đối với các trẻ nhỏ (xc. Mở ra; Trừ tà; Dầu; Ðặt tay).
Thánh Tẩy (Gian Nhà)

(= Baptistère)

Nơi dành để cử hành bí tích Thánh Tẩy, hoặc ở bên trong thánh đường hoặc trong một nhà bên cạnh, được dự liệu để cử hành nghi thức này (xc. Giếng Thánh Tẩy).
Thánh Tẩy Vắn Tắt

(= Ondoiement)

Phép rửa vắn tắt là nghi thức rửa tội đơn giản trong trường hợp nguy tử, cốt yếu là đổ nước trên đầu người muốn chịu thánh tẩy, đang khi đó thì đọc công thức rửa tội: "Tôi rửa anh (chị, em), nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (xc. Tẩy rửa; Rảy nước; Thánh Tẩy; Ðổ nước).
Thánh! Thánh! Thánh! (Kinh)

(= Sanctus)

Tiếng La tinh santus nghĩa là thánh. Kinh Thánh! Thánh! Thánh! là ba lần kêu cầu Thiên Chúa chí thánh, trở thành bài ca truyền thống liền sau bài Tiền Tụng của Kinh Tạ Ơn. Lời tung hô Thiên Chúa ba lần thánh lấy lại thị kiến khai mào của ngôn sứ Isaia, vị ngôn sứ đã nghe các thiên thần Xêraphim xướng đáp: "Thánh! Thánh! Thánh! Ðức Chúa các đạo binh, khắp cõi đất đầy tràn vinh quang Người" (Is 6,3). Tiếp theo là: "Hoan hô Chúa trên các tầng trời. Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô Chúa trên các tầng trời". Ðấy là lời tung hô của người Do thái ở Giêrusalem, khi Ðức Giêsu, Ðấng Mêsia, tiến vào Thành thánh vào ngày Lễ Lá (xc. Mt 21,9 và những chỗ song song). Về căn bản, công thức này mượn trong các câu 25 và 26 thánh vịnh 117, một thánh vịnh tiên báo việc Ðấng Mêsia sẽ đến trong vinh quang (xc. Ðạo thiên binh).
Thánh Thể (Bí Tích)

(= Saint Sacrement)

Thánh Thể được gọi là Bí Tích Thánh vì đó là bí tích tuyệt vời, trong đó chính tác giả của ân sủng hiện diện thực sự (xc. Thánh Thể; Bí tích). Khung cảnh tự nhiên và nguyên thủy của việc tôn thờ Thánh Thể là việc cử hành thánh lễ, bí tích hy tế trên đồi Canvê; các tín hữu tham dự vào đó bằng việc hiệp lòng hiệp ý và rước lễ. Thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh và lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô (xc. Mình Máu Thánh Chúa), đặc biệt dành để kính Thánh Thể.

Mặc dầu thánh lễ là hành vi qui chiếu của phụng vụ Thánh Thể, việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ đặc biệt hướng về sự hiện diện thực sự của Chúa dưới hình bánh, được thực hiện nhờ mầu nhiệm biến thể. Ðịa vị ưu việt của thánh lễ vẫn phải được duy trì, nhưng việc tôn thờ Thánh Thể ngoài thánh lễ vẫn là điều chính đáng, được thể hiện bằng nhiều cách.

Thánh Thể được cất giữ trong nhà tạm, với thái độ tôn kính Chúa đang hiện diện thực sự, để lúc nào cũng có thể cho rước lễ ngoài thánh lễ, nhất là cho những người bệnh và hấp hối (xc. Của ăn đàng); đã có những nghi thức dự liệu cho việc đó. Các tín hữu cũng có thể đến cầu nguyện một cách riêng tư hơn trước sự hiện diện của Chúa Kitô, như Hội Thánh vẫn hằng khuyến khích.

Ngoài ra, Thánh Thể còn là đối tượng được tôn thờ cách riêng khi chầu Thánh Thể: gồm việc trưng bày, thờ lạy và ban phép lành (xc. Thánh Thể). Trong Chúa hay nhân dịp các cuộc hành hương quan trọng, có thể sắp xếp một cuộc rước kiệu Mình Thánh. Ðại hội Thánh Thể là một cuộc biểu dương Ðức Tin một cách đặc biệt đối với Bí Tích Thánh.


Thánh Thể (Chầu)

(= Salut)

Chầu Thánh Thể là một nghi thức á phụng vụ (xc. Á phụng vụ) trong việc tôn thờ Thánh Thể. Thánh Thể đặt trong Mặt Nhật hoặc trong bình thánh được trưng bày cho mọi người thờ lạy. Kế đó là một thời gian dài hoặc ngắn dành cho các bài hát, bài đọc hay một khoảng thời gian thinh lặng thích hợp... Cũng có thể cử hành một giờ kinh trước Thánh Thể được trưng bày. Cuối phần thờ lạy, vị linh mục hay nếu không có linh mục thì phó tế sẽ xông hương trước Thánh Thể nếu như Thánh Thể được đặt trong Mặt Nhật, đang khi đó hát một bài kính Thánh Thể. Tiếp theo, vị chủ sự đọc một lời nguyện, rồi khoác khăn choàng và ban phép lành Thánh Thể, tức là cầm Mặt Nhật hay bình thánh vẽ hình thánh giá trên tín hữu. Sau đó, chủ sự cất Mình Thánh vào nhà tạm (xc. Hộp đựng Mình Thánh; Mặt Nhật).
Thánh Thể (Mình Thánh)

(= Présanctifiés)

Ðôi khi người ta gọi việc cử hành phụng vụ vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh là "thánh lễ với Thánh Thể đã truyền phép sẵn". Thực vậy, buổi cử hành này vẫn giữ nguyên cơ cấu của thánh lễ, nhưng vào ngày Ðức Kitô chịu chết, Hội Thánh không cử hành hy lễ Thánh Thể; trong phần hiệp lễ ở cuối nghi thức phụng vụ này, người ta dùng Mình Máu Thánh đã truyền phép từ ngày hôm trước, tức chiều thứ Năm Tuần Thánh.
Thánh Thể (Thiết Lập)

(= Institution)

Trình thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể làm nên khung cảnh thiết yếu cho những lời hiến thánh (truyền phép). Có lẽ, về phương diện thời gian, bản văn đầu tiên tường thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể là thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô (1Cr 11,23-26). Thánh Tông Ðồ đã chuyển đạt một truyền thống mà chính người tiếp nhận từ môi trường Antiôkia vào khoảng năm 40-45, đó là truyền thống cử hành phụng vụ tưởng niệm bí tích Thánh Thể. Ba Tin Mừng Nhất Lãm không thể không liên hệ tới những tập tục của Hội Thánh tại những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi (Mt 26,26-28; Mc 14,22-24; Lc 19-20). Các Kinh Tạ Ơn (Kinh Nguyện Thánh Thể) không nhất thiết lấy nguyên văn một trong bốn bản văn Tin Mừng tường thuật việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Ngay cả những lời hiến thánh cũng vậy. Tuy nhiên, sách lễ Rôma dưới triều đức Phaolô VI đã qui định rằng dù sử dụng Lễ Qui nào đi nữa, công thức hiến thánh vẫn không thay đổi. Còn bản văn tường thuật việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể có những khác biệt nho nhỏ tùy theo mỗi kinh Tạ Ơn.

Từ institutio cũng được dùng để chỉ nghi thức phụng vụ trao ban các tác vụ đọc sách và giúp lễ. Việc trao ban này được thực hiện trong thánh lễ, sau bài Tin Mừng và đó không phải là việc truyền chức.


Thánh Thi

(= Humne)

Ðộng từ Hy Lạp humnéin nghĩa là hát, tán dương, công bố. Như vậy, humnos là một bài ca tán dương các thần linh, các anh hùng hay thiên nhiên. Trong phụng vụ Kitô giáo, thánh thi là những bài ca do Hội Thánh biên soạn, theo thể thơ hoặc có âm vận, dùng để hát. Các thánh thi đều tán tụng Thiên Chúa, Ðức Kitô, Ðức Mẹ hay các thánh. Các thánh thi khác với thánh vịnh và thánh ca Kinh Thánh. Vì là một thể loại in đậm dấu ấn của nguồn cảm hứng và khuynh hướng thuộc nhiều thời đại khác nhau, các thánh thi thường vay mượn tiết tấu bình dân, hay ngược lại, được chuyển hóa sang lãnh vực đời thường. Các thánh thi thường được xếp vào đầu các Giờ Kinh Phụng Vụ, nên chúng mang lại cho mỗi giờ kinh một âm sắc đặc biệt, cả trong chu kỳ hằng ngày cũng như trong chu kỳ cả năm.
Thánh Thư

(= Epitre)

Từ epistolè trong tiếng Hy Lạp gợi lên việc gởi một sứ điệp do một người phu trạm chuyển đi. Thánh thư là thư gửi cho một hay nhiều người. Trong các bản văn Tân Ước, có rất nhiều thư: nhiều nhất là thư của thánh Phaolô - kể luôn cả thư gửi tín hữu Do Thái, thư của thánh Giacôbê, các thư của thánh Phêrô, thánh Gioan và thánh Giuđa. Vì thời xưa, bài đọc 1 trong thánh lễ thường trích từ các thư này, nên người ta đã dùng cụm từ "bài thánh thư"để chỉ bài đọc này. Ngày nay thì không còn đúng lắm, vì bài đọc 1 thường trích từ các sách Cựu Ước hơn là từ các thư.
Thánh Vịnh / Ca Vịnh

(= Psaume)

Từ ngữ Hy Lạp psalmos (do động từ psalléin) là hành động chạm vào một sợi dây để làm cho nó rung lên. Thoạt tiên, từ ngữ này có nghĩa là việc sử dụng các nhạc khí bằng dây, rồi đến các điệu nhạc được diễn tấu, sau cùng là các bản nhạc được hát có đệm nhạc khí. Trong Kinh Thánh, vua Ðavít là một tay đàn xita (cithare) điêu luyện (1S 16,16-23), ông có khả năng sáng tác những bài thơ đúng nghĩa (2S 1,17-27). Vì thế, ông trở thành người khai sáng loại thơ tôn giáo được hát có đệm đàn, tức là các bài thánh vịnh (xc. 1Sk 16,4-36). Cuốn sách 150 thánh vịnh được coi là của Ðavít, mặc dù chỉ có phân nửa là mang tên ông trong tựa đề. Ðúng ra, đây là vinh dự được qui tặng cho một nghệ sĩ thiên tài trong lãnh vực tôn giáo hơn là khẳng định tư cách tác giả thực sự của ông.

Dù đã được sáng tác ở Israel khoảng giữa thế kỷ X đến thế kỷ V trước Công Nguyên, tại sao 150 thánh vịnh vẫn là những kinh nguyện và những lời "chúc tụng" tuyệt vời nhất? Bởi vì những bài ca này chất chứa sự rung cảm của trọn vẹn con người để rồi trở thành những bài ca dâng lên Thiên Chúa tâm tình thờ lạy, sự mãn nguyện và sự bình an, kể cả thói ghen ghét mà nó muốn loại trừ, nỗi xao xuyến và sự sợ hãi, cả tâm trạng rã rời lẫn niềm hy vọng, những ước muốn và chờ mong trong niềm tín thác mới hồi sinh. Tất cả các tác giả thánh vịnh quả thực đã lặp lại dưới nhiều hình thức khác nhau lời nhắn nhủ này: "Hãy trút nhẹ gánh nặng ngươi vào tay Chúa, Người sẽ đỡ đần cho, chẳng bao giờ để chính nhân nghiêng ngửa" (Tv 54,23).

Không có cái gì của con người lại xa lạ đối với Thiên Chúa. Ðức Giêsu, Thiên Chúa làm người, đã nhận lấy cho đủ phần mình lại còn gánh thay chúng ta, mọi nỗi niềm trào lên từ một trái tim tan vỡ (Tv 50, 19), và theo gương Người, Hội Thánh cũng không ngừng nhận lấy tất cả những nỗi niềm đó làm của mình. Việc đọc thánh vịnh hay hát thánh vịnh làm nên phần chính yếu của các Giờ Kinh Phụng Vụ và hầu như trọn vẹn bộ thánh vịnh được đọc hết trong một chu kỳ bốn tuần lễ (các dòng tu chiêm niệm đọc hết bộ thánh vịnh trong khoảng thời gian một hay hai tuần).

Ða số các bài hát trong thánh lễ thường lấy từ thánh vịnh (xc. Ca tiến cấp), giữa bài đọc 1 và bài đọc 2 có một thánh vịnh (ngày thường thì giữa bài đọc và Tin Mừng). Khi cử hành các bí tích hay các phụ tích, hầu như luôn có cả bài hay một vài câu thánh vịnh. Thực sự, Hội Thánh rất cần những bài ca này để giúp Hội Thánh tiến bước trên hành trình gặp gỡ Thiên Chúa, và được thêm sức mạnh trong cuộc chiến chống các mãnh lực của sự dữ.



tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương