Lời Than Trách (= Impropères) Trong tiếng La tinh, improperium có nghĩa là lời than trách. Bài thán ca là lời than trách thống thiết của Ðức Kitô đối với dân đã phụ bạc Người. Trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh



tải về 0.56 Mb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.56 Mb.
#30023
1   2   3   4   5   6

Nghi Lễ


(= Cérémonie)

Tiếng La tinh caeremonia hay caerimonia có nghĩa là nghi thức thánh, sự biểu lộ có tính cách thờ phượng. Từ ngữ này bắt nguồn từ tiếng Phạn Kar (làm) với tiếp vĩ ngữ môn: có nghĩa là một việc đã hoàn thành tức là một việc linh thánh. Ðàng khác, về mặt từ nguyên, các tác giả La tinh còn cho biết xưa có thành Caere thuộc xứ Etrurie, là nơi người Rôma cất giữ các vật thánh thuộc các đền thờ của họ, khi thành Rôma thất thủ vào tay người Gaulois. Người ta còn cho rằng thành ngữ cereris munia như là nguyên gốc, có nghĩa là những vật dâng cúng cho nữ thần Cérès (thần nông nghiệp), vì những bó lúa được dâng cúng cho vị thần này chính là những vật dâng cúng theo một nghi lễ rất long trọng.

Trong ngôn ngữ phụng vụ thông thường, từ ngữ nghi lễ biểu thị một cử hành có tính cách trang trọng đặc biệt. Những từ ngữ cử hành, nghi lễ nhấn mạnh đến khía cạnh bên ngoài của các chức năng trong việc phượng tự, nổi bật tính cách trang trọng oai nghiêm. Nếu chỉ chú ý hoặc quá đề cao khía cạnh này tức là không hiểu đúng bản chất đích thực của phụng vụ, ngược lại, khi thi hành việc linh thánh mà loại bỏ khía cạnh tôn nghiêm và trang trọng tức là làm biến dạng những tác động đưa con người vào hiệp thông với Thiên Chúa, và khiến những tác động đó trở thành tầm thường, trái ngược với những gì là linh thánh.
Nghi Lễ (Sách)

(= Cérémonial)

Sách chỉ dẫn hay sách ghi các tập tục qui định các nghi thức phụng vụ. Chữ đỏ trong sách lễ và các sách nghi thức khác chỉ dẫn cách thức cử hành chung cho toàn thể Hội Thánh, nên dĩ nhiên các qui luật ấy rất tổng quát. Bởi vậy, các hội đồng giám mục hay các tu hội và các cộng đoàn địa phương đối với cộng đoàn riêng của mình, cần phải xác định những qui định thực hành cần thiết, để các cuộc cử hành được có trật tự và xứng đáng. Sách nghi thức có thể được viết thành bản văn, hoặc được truyền tụng và được ghi nhớ qua chính việc cử hành các nghi lễ phụng vụ.
Nghi Thức

(= Rit / Rite)

Tiếng Phạn Riti có nghĩa là cử điệu, sự sắp xếp, cách sử dụng. Từ ngữ đó phát xuất bởi động từ ri, có nghĩa là đi. Tiếng Việt gọi là nghi thức. Theo quan niệm thông thường, nghi thức là một hành vi có tính cách văn hóa, hơn kém đã được cố định, cũng là một hành vi có tính cách tôn giáo, hơn kém đã thành thói quen. ban đầu, từ ngữ này có nghĩa là "những thói quen đã được chấp nhận để duy trì trật tự thế giới" (xc. Tôn giáo). Nghi thức không phải là một hành vi máy móc, nhưng là một hành vi nhân linh có tính cách cộng đoàn, mang dấu ấn thần linh, vì thế gọi là "chấp nhận" để diễn tả tác động của thần linh. Trong hầu hết các tôn giáo, việc thực hành một nghi thức chính là hành động như Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Vì được sống trong nghi thức trước khi được thể hiện thành suy tư trong huyền thoại (xc. Huyền thoại) đời sống tôn giáo thiết yếu là sự tháp nhập của cộng đồng nhân loại vào trong tác động của thần linh. Như vậy, chiều kích thần linh của phụng tự phải được xếp hàng đầu. Trong phụng vụ, toàn thể vũ trụ được liên kết trong cùng một hành động - ít là một cách tượng trưng - và qui hướng về tác động của thần linh. Thiên Chúa tự trao ban và con người trong mọi chiều kích - cá nhân, cộng đoàn, ngoại giới, nội tại, vũ trụ - tự hiến cho Thiên Chúa và ký thác mình cho hành động cứu độ của Thiên Chúa.

Trong Kitô giáo, các nghi thức cốt yếu (như Hy Lễ Tạ Ơn, các Bí Tích) chính là những hành động của Thiên Chúa mà Hội Thánh được sát nhập vào. Vượt lên trên các nghi thức cốt yếu đó, toàn bộ phụng vụ là một hành vi chung của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh, cũng như của Hội Thánh là dân của Giao Ước (xc. Phụng Vụ, Hy Lễ, Cộng Tác). Người ta cũng gọi nghi thức là toàn bộ những nét đặc trưng của riêng một nền phụng vụ nào đó, chẳng hạn nghi thức bizantin, nghi thức cope hay nghi thức malabar (xc. Phung vụ).


Nghi Thức (Sách)

(= Rituel)

Tiếng La tinh rituales libri có nghĩa là sách nghi thức. Sách nghi thức là một cuốn sách phụng vụ ghi chép các nghi thức cử hành phụng vụ. Từ Công Ðồng Vaticanô II, phần lớn các bí tích và các phụ tích quan trọng đều đã có sách nghi thức canh tân. Sách nghi thức Rôma, tuyển tập hầu hết các nghi thức mà linh mục cần dùng khi cử hành phụng vụ, cũng đã được xuất bản. Sách Nghi Thức Giám Mục cũng đã có những nghi thức mới.
Nghi Thức Thánh Lễ (Sách)

(= Ordo missae)

Từ ngữ La tinh có nghĩa là trật tự thánh lễ. Sách Nghi Thức Thánh Lễ chỉ dẫn cách thức dâng lễ được công bố bằng một tài liệu chính của Tòa Thánh. Sách này xác định cách thức thích hợp để đem lại cho mỗi nghi thức một vị trí đích thực. Sách nghi thức thánh lễ hiện hành trong Hội Thánh La tinh được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI công bố tháng Tư năm 1969. Lịch sử thánh lễ cho thấy có nhiều sách nghi thức thánh lễ qua các thời đại; hiện nay, nếu kể cả những cách thức cử hành thánh lễ, chẳng hạn trong các nghi lễ Ðông Phương, thì những sách ấy còn nhiều nữa (xc. Phụng vụ; Thánh lễ; Phần thường lễ; Ðức Thánh Cha).
Nghĩa Trang

(= Cimetière)

Tiếng Hy Lạp koimeterion là nơi người ta ngủ, do động từ koiman ở dạng trung gian và thể thụ động, có nghĩa là nghỉ ngơi, ngủ. Nghĩa trang là nơi người quá cố an nghỉ. Nghi thức an táng tại nghĩa trang có các lời nguyện riêng.
Ngồi

(= Assis)

Ngồi và đứng là những tư thế chính của người tín hữu trong khi cử hành phụng vụ. Ngồi là tư thế để lắng nghe, tiếp thu và chiêm niệm, tư thế mà cô Maria, em cô Mátta và ông Ladarô, đã ưa thích, để lãnh nhận trọn vẹn giáo huấn của Chúa Giêsu: "Cô Mátta có người em tên là Maria, cô này ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người" (Lc 10,39).

Trong thánh lễ, người ta ngồi để nghe các bài đọc, để hát thánh vịnh hay một bài hát suy niệm xen giữa các bài đọc; khi đọc Tin Mừng thì cộng đoàn đứng; còn khi nghe giảng cũng như khi chuẩn bị lễ phẩm thì ngồi. Sau phần hiệp lễ, người ta có thói quen ngồi giây lát trong tình thân mật thầm lặng với Ðấng mà ta vừa đón nhận.

Những nguyên tắc này cũng được áp dụng cho các cuộc cử hành khác.
Ngôn Ngữ

(= Langue)

Tiếng La tinh lingua có nghĩa là lời nói, ngôn ngữ, tiếng địa phương, tiếng bản quốc. Ðây là những chỉ dẫn của Công Ðồng Vaticanô II liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong phụng vụ.

1. Việc dùng tiếng La tinh, trừ luật riêng, phải được duy trì trong các nghi lễ la tinh.

2. Tuy nhiên, có thể sinh lợi rất nhiều cho dân chúng nếu dùng tiếng bản quốc hoặc trong thánh lễ, hoặc trong việc cử hành các bí tích, hay trong những phần khác của phụng vụ, cho nên tiếng bản quốc dễ được chấp thuận, được sử dụng nhiều hơn, nhất là trong các bài đọc và các bài giáo huấn, một số lời nguyện và bài hát (PV số 36) (xc. La tinh).

Các bản dịch đã được hội đồng giám mục quyết định và thực hiện phải được Rôma phê chuẩn.


Ngũ Tuần (Lễ)

(= Pentecôte)

Tiếng Hy Lạp pentecoste (hêmêra) nghĩa là ngày thứ 50.trong Cựu Ước, lễ Mùa Gặt (Xh 23,16; 34,22) hoặc lễ các Tuần (Lv 23,15-22) là lễ tiến dâng những sản phẩm đầu tiên của mùa gặt, cử hành vào tuần thứ bảy sau lễ Vượt Qua. Do đó, gọi là ngày thứ 50 sau lễ hội Mùa Xuân (xc. Tb 2,1). Con số 50, con số kết thúc tuần lễ cao điểm trong bảy tuần, gợi lên sự sung mãn hay sự tốt lành, tương tự như trong thể chế năm toàn xá của Israel. Cứ bảy tuần năm thì có một năm Toàn Xá (năm thứ 50) (xc. Xh 21,2; 23,10tt; Lv 15,3tt), con số đó cũng gợi lên sự đổi mới hoàn toàn. Dân Israel ra khỏi Ai Cập - cuộc Vượt Qua - chỉ là để hướng về Giao Ước Xinai. Và vì thế, lễ ngũ tuần đã trở thành lễ kỷ niệm của "Ngày Ðại Hội" (Ðnl 9,10; 10,4; 18,16), diễn ra khoảng 50 ngày sau khi ra khỏi Ai Cập (xc. Xh 19,1): "Tháng thứ ba"). Dù đã được sinh ra trong cuộc Vượt Qua, Dân - Hiền Thê chỉ đạt tới ý nghĩa trọn vẹn của mình và sự giải phóng hoàn toàn khi kết hiệp với Chúa Chúa, trong Giao Ước.

Trong Tân Ước, Ðức Giêsu thanh tẩy và cứu chuộc Hội Thánh của Người nhờ hiến tế trên núi Canvê; ở đó, Người đã trao ban trọn vẹn Thánh Thần của Người cho Hội Thánh (Ga 19,30); vào ngày Phục Sinh, Ðức Giêsu thông ban Thánh Thần cho các Tông Ðồ, để các ông tiếp nối sứ vụ của chính Người (Ga 20,22-23). Nhưng chỉ 50 ngày sau cái chết của Ðức Giêsu - Ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2) - Thánh Thần mới đến canh tân toàn thể Hội Thánh khi tẩy rửa Hội Thánh trong "Dòng sông có nước trường sinh" (Kh 22,1) là chính Người. Mầu nhiệm vượt qua chỉ đạt được chiều kích trọn vẹn trong sự viên mãn của lễ Ngũ Tuần, là ngày Hội Thánh nhận được những hoa trái đầu tiên làm bảo chứng do phần gia nghiệp (Ep 1,13-14) là thực thi chức năng tư tế của mình khi ca tụng "những kỳ công của Thiên Chúa" (Cv 2,11), nhờ ơn Thánh Thần tác động.

Lễ Ngũ Tuần là lễ trọng, kết thúc mùa Phục Sinh, chiều hôm đó người ta tắt nến phục sinh. Trước đây còn có Tuần Bát Nhật của Lễ Ngũ Tuần, nhưng nay được bãi bỏ để ngày thứ 50 đóng trọn vai trò hoàn tất của mình. Thay vào đó thời gian 10 ngày giữa lễ thăng thiên và lễ Ngũ Tuần được cử hành như một sự chuẩn bị long trọng để đón Chúa Thánh Thần đến, trong chuyên chăm cầu nguyện với Ðức Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu (Cv 1,14). (xc. Chúa Thánh Thần).
Nguyện Ðường

(= Chapelle)

Tiếng La tinh capella có nghĩa là áo choàng nhỏ. Nguyên thủy, từ này chỉ nơi lưu giữ áo choàng của thánh Martin. Sau đó được dùng để chỉ bất kỳ ngôi nhà nào dành cho việc phượng tự: các nguyện đường đứng độc lập như một thánh đường nhỏ, hay là một công trình phụ thuộc của một ngôi thánh đường trong kiến trúc tổng thể, bởi đó người ta cũng dùng từ này để gọi các nơi đặt bàn thờ ở hậu đường, hay nhà chầu Thánh Thể.

Trong nghi lễ đại trào, từ này chỉ đoàn giúp lễ, nghĩa là những người hầu cận gần nhất quanh vị chủ tế: phó tế hoặc thầy giúp lễ, chưởng nghi, những người cầm gậy, mũ, sách.



Nh


Nhà Tạm

(= Tabernacle)

Trong tiếng La tinh, tabernaculum nghĩa là lều. Chúng ta biết rằng sau khi ký kết giao ước Sinai, Lều Hội Ngộ hay Trướng Tao Phùng (kiểu nói thường thấy trong sách Xuất Hành, Lêvi và Dân Số) là nơi linh thánh mà Giavê và Dân Người gặp nhau qua trung gian là ông Môsê. Trong Tân Ước, Lều đích thực, không do tay người phàm làm ra (xc. Dt 9,11.24), là nhân tính mà Con Thiên Chúa đã mặc lấy; bản văn Ga 1,14 bằng tiếng Hy lạp đã chẳng viết: "Và Ngôi Lời đã làm người, và cắm lều ở giữa chúng ta" đó sao?

Trong các nhà thờ, nhà tạm là một cái hộp được trang trí, hoặc những tủ nhỏ có khóa, dùng để lưu giữ Mình Thánh Chúa. Ðó là nơi "cắm lều" của Chúa Kitô Thánh Thể giữa chúng ta; khăn phủ nhà tạm hay áo nhà tạm cũng làm nổi bật ý nghĩa của cái lều.

Trong các nhà thờ tương đối rộng, không nên đặt nhà tạm ở giữa cung thánh, nhưng đặt trong một nhà nguyện riêng để tôn kính Chúa hiện diện trong Thánh Thể. Ðối với các nhà thờ nhỏ, nhà tạm có thể được đặt trên bàn thờ hoặc gắn vào tường. Phải có một ngọn đèn chầu để nói lên sự hiện diện của Chúa. Các tín hữu được mời gọi đến viếng Thánh Thể, để cảm nhận được niềm hân hoan của ông Môsê trong "Lều Hội Ngộ", nơi đây "Ðức Giavê đã trò chuyện với ông Môsê diện đối diện, như bạn với bạn" (Xh 33,11).
Nhà Thờ Chánh Tòa

(= Cathédrale)

Cathédrale là tính từ dùng như danh từ để chỉ nhà thờ chánh tòa. Nhà thờ chánh tòa là nhà thờ có đặt ngai của đức giám mục, nghĩa là ngai tòa để thực hiện quyền bính và quyền giáo huấn của giám mục, và tượng trưng quyền chủ tọa của giám mục trong các cử hành phụng vụ. Nhà thờ chánh tòa thường tọa lạc ở khu vực tỉnh lỵ.
Nhẫn

(= Anneau)

Từ rất xa xưa đã có tục lệ đeo nhẫn để tượng trưng một giao kết tự nguyện. Phụng vụ Kitô giáo đã thánh hóa tục lệ này trong nhiều trường hợp. Có lẽ ý nghĩa nền tảng của việc đeo nhẫn là sự trung tín đối với mối dây hiệp nhất hôn nhân: những "chiếc nhẫn cưới" là biểu tượng của giao ước hôn nhân; trong bí tích hôn phối, giao ước này đạt đến ý nghĩa trọn vẹn trong tương quan với mầu nhiệm giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Người trong Ðức Kitô. Linh mục làm phép nhẫn cưới theo công thức sau đây: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chính Ngài đã giao ước với chúng con qua Ðức Giêsu Kitô, giờ đây xin Chúa chúc phúc cho những chiếc nhẫn này và ban cho những ai đeo nhẫn này luôn giữ được lòng trung tín toàn vẹn".

Trong nghi lễ tấn phong giám mục, vị tân giám mục nhận một chiếc nhẫn tượng trưng cho dây ràng buộc mà Người ký kết với Hội Thánh; đối với Hội Thánh, vị giám mục là dấu chỉ sung mãn và có tính bí tích nói lên sự hiện diện của Ðức Kitô, hôn phu của Hội Thánh. Khi đeo nhẫn cho tân giám mục, vị chủ phong đọc: "Hiền huynh hãy lãnh nhận chiếc nhẫn, ấn tín đức tin. Với đức tin nguyên tuyền làm trang sức, hiền huynh hãy giữ Hiền Thê của Chúa, là Hội Thánh, được vẹn toàn". Ý nghĩa tượng trưng đó cũng được áp dụng cho các đan viện phụ, là những vị, theo luật thánh Biển Ðức, "giữ địa vị của Ðức Kitô trong đan viện của các ngài" (chương 2).

Theo lời thánh Âu Tinh, các trinh nữ được thánh hiến không phải không có hôn lễ; trái lại, họ được đưa vào trung tâm của mầu nhiệm giao ước. Bởi vậy, khi thánh hiến các trinh nữ, đức giám mục trao nhẫn cho họ và nói: "Con hãy lãnh nhận chiếc nhẫn của hôn lễ thánh với Chúa Kitô; và hãy giữ lòng trung tín với vị Hôn Phu của con, để xứng đáng được đón vào dự tiệc cưới hoan lạc vĩnh cửu".
Nhập Lễ

(= Introit)

Trong tiếng La tinh, introitus nghĩa là việc tiến vào. Nhập lễ trước hết gợi lên một cuộc rước tiến vào thánh lễ. Trong hệ từ vựng của bình ca Ghê-gô-ri-ô, từ này dùng để chỉ một bài hát ngắn dùng trong cuộc rước đó. Bài hát này chủ yếu gồm một điệp ca, và một câu thánh vịnh; khi hát câu thánh vịnh, người ta lập lại điệp ca. Ðôi khi có nhiều câu thánh vịnh, và dù trong trường hợp nào, vẫn luôn luôn có thể thêm Vinh Tụng Ca (Gloria Patri).
Như Trẻ Sơ Sinh (Bài Ca)

(= Quasimodo)

Từ la tinh bắt đầu bài ca nhập lễ Chúa Nhật II Phục Sinh: Quasimodo getini infantes..., nghĩa là Như trẻ sơ sinh... Trong ngày Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Phục Sinh, những người mới lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy trong đêm Vọng Phục Sinh không còn mặc những áo dài trắng mà họ đã mặc suốt tuần trước đó. Vì vậy, Chúa Nhật này được gọi là Chúa Nhật đã bỏ áo trắng (in albis: hiểu ngầm depositis: Chúa nhật bỏ áo trắng). Các người tân tòng này đã tham dự nghi thức cởi bỏ áo trắng từ chiều hôm trước, tức thứ Bảy in albis (hiểu ngầm deponendis: thứ bảy cởi bỏ áo trắng) (xc. Áo trắng dài).

O


Ô-Mê-Ga

(= Oméga)

Tiếng Hy Lạp Ômêga. Ðây là mẫu tự thứ 24 và cũng là mẫu tự cuối cùng trong bản mẫu tự Hy Lạp. Chữ Ô này là Ô âm dài và mở, phân biệt với ô nhỏ (omicron), mẫu tự thứ 15 trong bản mẫu tự. Về ý nghĩa của chữ này trong phụng vụ, xem Alpha.
Ơn Ban

(= Don)


Trong tiếng La tinh donum có nghĩa là quà tặng, việc thiện. Những quà tặng hay lễ vật chúng ta dâng lên Thiên Chúa chỉ là cách bày tỏ lòng biết ơn vì Người đã tự hiến mình và ban Giao Ước cho chúng ta. Chúa Thánh Thần, nguồn Tình Yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, được gọi là ơn ban (xc. 2,38; 8,20; 10,45; 11,17 và Lc 11,9-13), vì tình yêu luôn là ơn ban đầu tiên trong các ơn ban. Mọi ơn ban là biểu lộ của tình yêu, nguồn mạch phát sinh chúng. Chúa Cha và Chúa Con chuyển thông Chúa Thánh Thần cho nhau, và Thánh Thần chính là giây liên kết sâu giữa hai Ngôi đó, Chúa Cha và Chúa Con lai ban Thánh Thần cho chúng ta. Chúa Thánh Thần là Ðấng ta lãnh nhận qua các bí tích và là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta (Ep 1,14). Thánh Thi Lạy Thánh Thần Sáng Tạo, xin hãy đến của Kinh Chiều lễ Ngũ Tuần, ca tụng Thánh Thần như Ơn Ban của Thiên Chúa tối cao (Donum Dei Altissimi). trong cuộc trao đổi kỳ diệu, tức là phụng vụ, Chúa Thánh Thần chính là Ðấng chúng ta đón nhận và dâng tiến (xc. Chúa Thánh Thần, Bí Tích).

P


Pháp Thuật

(= Magie)

Trong tiếng Hy Lạp magueia có nghĩa là tôn giáo của các thầy phù thủy. Pháp thuật là một hình thức tế tự đã biến chất. Sở dĩ ta nói được như vậy là vì pháp thuật đã không đón nhận từ Thiên Chúa hồng ân Giao Ước, lại còn ra sức để tranh thủ, để đoạt các ân huệ hay các đặc quyền của Người. Pháp thuật tự hào là mình tạo ra được các ân thiêng, bằng cách thiết lập tương quan sống động và thân thiết với Thiên Chúa. Các nghi thức phụng vụ phải thường xuyên được nuôi dưỡng trong đức tin hầu khỏi bị lây nhiễm óc bùa chú hoặc thuần túy có tính cách máy móc.
Phát Hiện

(= Invention)

Trong tiếng La tinh, inventio có nghĩa là việc tìm ra, khám phá ra. Trong một số niên lịch, người ta mừng lễ Phát Hiện, tức là việc tìm thấy di hài hoặc di tích của một vị thánh. Xưa vào ngày 3 tháng 5, người ta mừng lễ tìm thấy Thánh Giá, kỷ niệm việc thánh nữ Hélene, thân mẫu vua Constantin, đã tìm ra Thánh Giá của Ðức Kitô chịu chết trên núi Canvê.
Phẩm Phục / Trang Phục

(= Ornement / Vêtement)

1. Trong tiếng La tinh, ornamentum có nghĩa là sự trang hoàng, do động từ ornare: trang hoàng, trang sức. Những đồ trang hoàng trong phụng vụ tức là phẩm phục các vị hành lễ mặc khi cử hành nghi lễ: dây các phép và áo phó tế dành cho thầy phó tế; dây các phép và áo lễ - hoặc áo choàng - dành cho linh mục; còn giám mục thì thêm mũ giám mục, nếu là tổng giám mục thì thêm phù hiệu Tổng Giám Mục (dây Pallium).

2. Trong tiếng La tinh vestimentum có nghĩa là cái đang mặc (vestire). Trang phục chính trong phụng vụ là khăn vai, áo trắng dài, dây các phép, áo lễ hoặc áo phó tế, áo choàng.


Phẩm Trật

(= Hiérarchie)

Trong tiếng Hy Lạp héros có nghĩa là thánh, thiêng và archè có nghĩa là khởi đầu, nguyên ủy, ông hoàng. Phẩm trật là cái khởi phát hoặc có căn nguyên từ lãnh vực thiêng thánh. Phẩm trật chỉ những người, khi thi hành các chức năng phụng vụ, là những trung gian của thế giới thiêng thánh. Phẩm trật trong Hội Thánh gồm có các giám mục, linh mục và phó tế, những người phân phát các mầu nhiệm: các vị này lãnh nhận thừa tác vụ thánh trong bí tích truyền chức. Trái với cách hiểu thông thường, theo đó thì từ ngữ "phẩm trật" gợi lên thứ bậc trên dưới, cần nhấn mạnh điều này, mọi chức thánh trong phẩm trật Hội Thánh là "một công việc phục vụ" trổi vượt, nối dài việc phục vụ của Ðức Kitô, "Ðấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ" (Mt 20,28). Ðể chu toàn sứ vụ riêng đã được ủy thác, phâm trật nhận được quyền thiêng thánh. Quyền này cần được mọi người tôn trọng trong tinh thần đức tin (xc. Truyền Chức).
Phần Chung

(= Commun)

Ðể cử hành thánh lễ cũng như kinh nguyện phụng vụ kính các thánh mà không có một công thức riêng hoặc không đầy đủ, người ta sử dụng toàn bộ hoặc một phần các bản văn đã được soạn thành những phần chung khác nhau: phần chung về Ðức Maria, các thánh Tông Ðồ, các thánh Tử Ðạo, các thánh Chủ Chăn, các thánh Tiến Sĩ Hội Thánh, các thánh Trinh Nữ, các thánh Nam và các thánh Nữ. thêm vào phần chung các thánh này, còn có phần chung về lễ Cung HIến Thánh Ðường: đây là phần được đặt lên hàng đầu, bởi vì việc mừng lễ cung hiến là mừng việc Ðức Kitô kết hợp với Hội Thánh. Bất kỳ sự thành thiện nào khác đều thông dự vào sự kết hợp đó.
Phần Phụng Vụ Theo Mùa

(= Temporal)

Là một phần chính yếu của năm phụng vụ, phần phụng vụ theo mùa là tiến trình của Mầu Nhiệm Ðức Kitô trải dài trong suốt một năm, đưa Hội Thánh đi vào các chiều sâu của Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Phần này chỉ gồm có các chu kỳ Giáng Sinh và Phục Sinh, không kể đến 34 tuần của Mùa Thường Niên. Cần phân biệt phần phụng vụ theo mùa với phần phụng vụ chư thánh: Phần phụng vụ theo mùa gồm các giai đoạn đặc biệt của năm phụng vụ; phần phụng vụ chư thánh gồm các lễ mừng các thánh, được cử hành vào những ngày cố định. Trừ một vài trường hợp đặc biệt, phần phụng vụ theo mùa phải được cử hành ưu tiên hơn phần phụng vụ chư thánh (xc. Mùa Phụng Vụ, Chu Kỳ).
Phép Lành

(= Bénédiction)

Từ ngữ benediction trong La ngữ hợp bởi bene (tốt lành) và dicereldictio (nói) có nghĩa là nói lời lành, hay nói về sự tốt lành, thường được dịch sang tiếng Việt là chúc lành, phép lành hay chúc tụng. Trong Thánh Kinh, phép lành trước hết là hành động của Thiên Chúa, Ðấng nói, muốn và làm điều tốt lành cho chúng ta. Ðối với Thiên Chúa, lời nói và việc làm đồng nhất với nhau (cùng một động từ dâbâr trong tiếng Hípri). Phép lành của Thiên Chúa khởi đầu bằng công cuộc sáng tạo nhờ Ngôi Lời (xc. Ga 1,1-3; St 1,3.6.9tt); phép lành đó đạt tới mức thành toàn trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, chịu chết và sống lại vì chúng ta: "Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Ðức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần" (Ep 1,3).

Ðáp lại phúc lành của Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta qua Ðức Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng phải dùng chính những lời hay ý đẹp của mình để chúc tụng Thiên Chúa, tức là tạ ơn Thiên Chúa về tất cả những "ơn lành" của Người. Mầu nhiệm phụng vụ được kết cấu bởi sự trao đổi giữa phúc lành của Thiên Chúa và lời chúc tụng của chúng ta trong Ðức Kitô. Những lời chúc tụng của người Do Thái (berakôth) đặc biệt là trong bữa ăn vượt qua, chính là nguồn gốc các kinh Tạ Ơn của chúng ta ngày nay. Cùng với các thánh vịnh là những lời chúc tụng được linh hứng, các lời chúc tụng của người Do Thái tạo nên cốt lõi của phụng vụ Do Thái giáo, là tác động nối kết công trình của Thiên Chúa và lời cảm tạ của Dân Người.

Trong ngôn ngữ thông thường, "phép lành" đã mất đi ý nghĩa phong phú vừa được gợi ra, và thường chỉ còn được hiểu về việc làm phép hay thánh hóa các loại đồ vật khác nhau. Tuy nhiên, Phụng Vụ Công Giáo nhấn mạnh đến các loại phụ tích khác nhau: đó không phải chỉ là những lời chúc tụng hiểu theo nghĩa tạ ơn trong Do Thái giáo, nhưng còn là những nghi lễ, qua đó con người kêu cầu Thiên Chúa chúc phúc. Như vậy, Hội thánh chứng tỏ rằng mọi hiện hữu đều chỉ có thể và phải đón nhận ý nghĩa sung mãn của mình từ nơi Thiên Chúa. Phép lành mà linh mục ban cho cộng đoàn trong nghi thức giải tán kết thúc thánh lễ hoặc kết thúc giờ kinh sáng và kinh chiều, biểu lộ sự ban ơn phù trợ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dấu thánh giá cho thấy rằng những hồng ân bởi trời luôn đến từ thập giá của Ðức Kitô. Trong một số hoàn cảnh đặc biệt, Sách lễ có dự liệu sẵn những công thức ban phép lành trọng thể với hai hoặc ba lời cầu phúc đi trước công thức ban phép lành thông thường. Khi đọc những lời cầu phúc này, chủ tế giơ tay, còn cộng đồng cúi đầu và thưa Amen. Linh mục cũng có thể đọc một lời nguyện trên dân chúng trước khi ban phép lành. Sau khi mời gọi cộng đoàn cúi đầu, linh mục giơ tay trên cộng đoàn và đọc lời nguyện đó (xc. Thánh Thể, Phép Lành).
Phép Rửa (Lễ Chúa Chịu Phép Rửa)

(= Baptême du Seigneur)

Lễ này kết thúc mùa Giáng Sinh, và được cử hành vào Chúa Nhật sau ngày 6 tháng Giêng. Lễ Hiển Linh bao hàm ba mầu nhiệm: các đạo sĩ đến thờ lạy Chúa; Chúa Chịu Phép Rửa; và tiệc cưới Cana. Như vậy, lễ Chúa Chịu Phép Rửa là sự "thu hẹp" lại của Lễ Hiển Linh.

Ðối với bốn tác giả Tin Mừng, việc Ðức Giêsu chịu phép rửa trong sông Giođan, chính là sự tỏ hiện - "cuộc thần hiện" - quan trọng nhất vào lúc khởi đầu cuộc đời công khai của Ðức Kitô (Mt 1,13-17; Mc 1,9-11; Lc 3,21-22; Ga 1,29-34). Ngoài ra, xét như một khởi điểm cốt yếu (xc. Cv 1,22), biến cố này trong cuộc đời Ðức Giêsu hàm chứa một sự sung mãn lớn lao; không những biến cố ấy gợi lên cái chết của Chiên Thiên Chúa (xc. Lc 12,50) và sự "dìm mình" của chúng ta trong cái chết của Người, nhờ bí tích Thánh Tẩy, nhưng biến cố ấy còn đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn mạch và "chiều kích Ba Ngôi" của sứ vụ Người Tôi Tớ đau khổ, các tầng trời mở ra, Chúa Cha bày tỏ lòng ưu ái của Người đối với Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, nguồn mạch tình yêu, bày tỏ sự hài lòng đó một cách cụ thể. Có thể nói, lễ Chúa chịu Thánh Tẩy là lễ Ngũ Tuần của Mùa Giáng Sinh.


Phó Tế

(= Diacre)

Tiếng Hy Lạp diakonos có nghĩa là người phục vụ, chuyển dịch sang tiếng Việt là Phó Tế. Phó Tế là một Kitô hữu đã được rửa tội cũng như thêm sức, và qua việc phong chức phó tế, được tham dự một cách bí tích vào sứ vụ của giám mục về phương diện phục vụ (diakonia). Mọi Kitô hữu đều được mời gọi bước theo Ðức Kitô để trở nên con Thiên Chúa nhờ ơn thánh, như Ðức Kitô là Con Thiên Chúa theo bản tính. Ðể làm cho chúng ta có thể trở nên con Thiên Chúa, chính Chúa Con đã trở thành người tôi tớ, thực hiện việc cưu độ chúng ta bằng cách chu toàn sứ vụ cứu thế của Người. Như vậy Người đã làm ứng nghiệm những bài ca về Người Tôi Tớ trong sách ngôn sứ Isaia (42,1-9; 49,1-6; 50,4-11; 52,13-53,12), đặc biệt là bài ca cuối cùng về Người Tôi Tớ đau khổ. Thực vậy, "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,28). Mọi Kitô hữu, với tư cách là Kitô hữu, phải có khả năng "hiến dâng mạng sống để phục vụ mọi người".

Tuy nhiên, để việc phục vụ sinh ơn cứu độ của Ðức Kitô được bảo đảm mưu ích cho hết mọi người, chính Ðức Giêsu đã lo liệu để Hội Thánh có được những thừa tác viên thích hợp cho công cuộc tiếp nối sứ vụ của Người, như Tông Ðồ Phêrô, các vị Tông Ðồ khác, các vị kế nghiệp và các cộng sự viên của các ngài. Khi Ðức Giáo Hoàng xưng là "Tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa", đó không chỉ đơn thuần là một kiểu nói, mà là người tôi tớ đích thực - một phó tế đích thực - trong Hội Thánh, tức là vị giám mục, với sự trợ giúp của các linh mục, trong công tác phục vụ cao cả đối với những người đã được rửa tội.

Tuy nhiên, trong việc thực thi sứ vụ tư tế, mục tử và thầy dạy, bản thân vị giám mục và những người tham dự vào chức vụ tư tế của giám mục chưa hẳn là những dấu chỉ đầy đủ để trình bày một Ðức Kitô - Người Tôi Tớ: quyền bính của các vị có nguy cơ làm lu mờ khía cạnh phục vụ trong nhiệm vụ của các ngài. Như vậy, phó tế được đặc cách để trở thành dấu chỉ bí tích của Ðức Kitô - Người Tôi Tớ, trở thành sự tỏ hiện của mọi thừa tác vụ thánh xét như là một công tác phục vụ. Không chỉ dừng lại ở trình thuật về việc cắt cử 7 phó tế nhằm phục vụ bàn ăn (Cv 6,1-6), nền tảng Thánh Kinh của chức phó tế cần phải được tìm kiếm trong chính lời giảng và hành động của Chúa Kitô, Ðấng đã trình bày quyền bính trong Hội Thánh như là một công tác phục vụ (Mt 10,24-28 và việc rửa chân trong Ga 13,8-17).

Là những người tham dự vào sứ mạng phục vụ của các giám mục, những người kế vị các Tông Ðồ, nên các phó tế được tấn phong do giám mục. Việc truyền chức này hệ tại việc một mình đức giám mục đặt tay, trong thinh lặng, và kế đó là lời nguyện phong chức: "Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa trên tôi tớ Chúa đây, để người này được củng cố nhờ mọi hồng ân của Chúa, và để người này có thể chu toàn sứ vụ của mình". Sau đó, tân chức lãnh dây các phép và áo phó tế, rồi đức giám mục long trọng trao sách Tin Mừng cho thầy để thầy trở nên người công bố Tin Mừng.

Từ đây, phó tế trợ giúp giám mục và các linh mục trong việc phục vụ Lời, phục vụ bàn thờ và việc bác ái. Trách vụ của các phó tế bao gồm việc huấn giáo, giảng thuyết, hướng dẫn việc cầu nguyện của cộng đoàn, cử hành bí tích rửa tội và nghi lễ an táng, chứng hôn, trao của ăn đàng, nói chung là mọi hình thức phục vụ người nghèo, bệnh nhân, giới trẻ.

Ðối với các linh mục tương lai, việc "phục vụ" trong tư cách phó tế được coi như một khởi đầu cần thiết cho việc "phục vụ" trong chức linh mục. Qua việc tái lập chức phó tế vĩnh viễn, đội ngũ các phó tế hiện diện trong Hội Thánh như một lời nhắc nhở sống động và có đầy năng lực bí tích đối với các giám mục, linh mục và tín hữu - một lời nhắc nhở về việc "phục vụ" sáng ngời, vốn là và vẫn mãi phải là một "tác vụ" được truyền ban.


Phòng Thánh

(= Sacristre)

Gốc La tinh sacristra có nghĩa một nơi trong nhà thờ, gần cung thánh, tại đó cất giữ tất cả những gì cần thiết cho việc cử hành phụng vụ: phẩm phục, bình thánh, sách, v.v...
Phù Hiệu Giám Mục

(= Insignes pontificaux)

Phù hiệu giám mục là những biểu hiệu bên ngoài và đặc trưng của chức vị giám mục: thông thường là nhẫn và Thánh Giá trên ngực; trong các nghi lễ đại triều, phù hiệu chính là mũ và gậy. Ngoài các đức giám mục, các giám chức sau đây có thể sử dụng phù hiệu giám mục: các đại sứ của đức giáo hoàng, các viện phụ hay các giám chức có quyền tài phán trên một vùng riêng biệt trong giáo phận, các giám quản tông tòa, các đan viện phụ, sau khi được chúc phong.
Phù Hiệu Tổng Giám Mục

(= Pallium)

Pallium trong tiếng La tinh có nghĩa là áo khoác, áo dài, áo mặc ngoài. Ban đầu, Pallium là loại hàng dệt bằng dạ mô phỏng loại áo dài của người Rôma, mà các quan chức dân sự cao cấp thường mặc, nhất là các quan chấp chính. Khoảng thế kỷ IV, sau thời Công-tăng-ti-nô, loại trang phục này trở thành huy hiệu danh dự của một số giám mục, và do đức giáo hoàng ban phép sử dụng. Hiện nay, loại trang phục này là huy hiệu của đức giáo hoàng, giáo trưởng hay tổng giám mục. Phù hiệu hiện nay có hình dáng như sau: một dải len trắng choàng quanh vai, một đầu phía trước ngực, một đầu phía sau lưng, trên phần vòng quanh cổ có bốn hình Thánh Giá màu đen và hai hình Thánh Giá khác ở hai đầu dải len. Ðể gắn phù hiệu vào áo lễ, người ta dùng ba cây kim bằng vàng, đầu có nạm đá quí.
Phụ Tích

(= Sacramental)

Các phụ tích là những tác động hay những thực tại thánh thuộc về lãnh vực bí tích hiểu theo nghĩa rộng, nhưng không phải là bí tích đúng nghĩa. Trong thực tế, cho đến thế kỷ XII, con số bảy bí tích chưa được ấn định, và từ ngữ "bí tích" dùng để chỉ mọi tác vụ thánh. Các phụ tích chủ yếu bao gồm việc thánh hiến người, các phép lành trên đồ vật, hoặc các nghi thức kèm theo bí tích. Một số phụ tích có thể được coi là gần với các bí tích, như việc thánh hiến các trinh nữ, việc khấn dòng, nghi lễ chúc phong viện phụ, cung hiến thánh đường và bàn thờ.

Các bí tích hoạt động "do sự" (ex opere operato: việc sinh công hiệu cốt ở việc hoàn thành nghi thức), trong khi các phụ tích hoạt động nhờ tác động của Hội Thánh (ex opere operantis Ecclesiae): tức là các phụ tích sinh công hiệu nhờ vào hoạt động và lời cầu nguyện của Hội Thánh. Nhưng không nên hiểu rằng Thiên Chúa chỉ hoạt động trong các bí tích, và nhường cho Hội Thánh quyền can thiệp trong các phụ tích. Thực vậy, toàn thể phụng vụ là công trình chung của Thiên Chúa và Hội Thánh, và dù một phụ tích nhỏ nhất cũng cần đến hành động thánh hóa của Thiên Chúa (xc. Phụng vụ). Tốt hơn, nên lưu ý rằng các bí tích là do Thiên Chúa lập, trong khi các phụ tích là do Hội Thánh lập, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.



Phủ Phục (Tư Thế)

(= Prostration)

Tiếng La tinh prostratio có nghĩa hành vi nằm sấp phía trước (pro: phía trước, sternere: nằm xuống đất). Hành vi phủ phục ít khi sử dụng trong phụng vụ, nhưng có ý nghĩa đặc biệt: trong khi cộng đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh, thì những người sắp được truyền chức (giám mục, linh mục, phó tế), các tu sĩ sắp tuyên khấn trọn đời, nằm phủ phục trên đất: hành vi này không chủ ý nói lên việc tự xóa mình trước Thiên Chúa, nhưng đúng hơn nhằm diễn tả thái độ hoàn toàn sẵn sàng trước lời mời gọi của Thiên Chúa.

Khởi đầu nghi thức cử hành chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, vị chủ tế cùng các thừa tác viên phủ phục trước bàn thờ để bày tỏ tâm tình khiêm tốn thờ lạy trước mầu nhiệm Cứu Chuộc nhờ Thập Giá, như phụng vụ chiều hôm đó sắp cử hành; các ngài cũng có thể phủ phục khi ngừng đọc hay hát Trình Thuật Thương Khó trong giây lát (sau câu "Chúa Giêsu gục đầu xuống tắt thở" - Chúa nhật lễ Lá cũng có hát bài Thương Khó). Cũng có thể phủ phục bằng cách quì gối rồi cúi gập mình sát đất.


Phục Sinh (Lễ)

(= Résurrection)

Lễ Phục Sinh là đích điểm của Tam Nhật Vượt Qua. Lễ Phục Sinh được mừng đặc biệt trong đêm Vọng Phục Sinh và ngày Chúa Nhật Phục Sinh, cũng như trong suốt cả mùa Phục Sinh, và trong mọi nghi lễ phụng vụ Kitô giáo. Tất cả mọi Chúa Nhật hàng tuần đều được dành để mừng Lễ Phục Sinh, lễ mừng đầu tiên trong lịch sử Kitô giáo.
Phục Vụ

(= Service)

Việc "phục vụ Thiên Chúa" là nghĩa vụ chính của cộng đoàn nhân loại; nhân loại chu toàn nghĩa vụ này, chủ yếu là trong công việc phụng tự. Phải nhớ rằng dân Israel đã trở thành Dân của Thiên Chúa trên núi Xinai, khi họ đồng ý chấp nhận Giáo Ước và vượt qua từ tình trạng nô lệ bên Ai Cập để đạt đến việc phục vụ cao cả đối với Giavê (trong tiếng Hípri, hai từ nô lệ và phục vụ là một: abôdâh); Dân Chúa được giải phóng khỏi Ai Cập chỉ là để phục vụ (xc. Xh 3,12; 7,16.26; 8,16; 9,1.13; 10,3.7.11.26). Sự phục vụ của Dân chỉ là lời tạ ơn đáp lại công cuộc "phục vụ" sinh ơn cứu độ của Giavê.

Cũng vậy, trong Giao Ước mới, Ðức Giêsu giải thoát Hội Thánh khỏi ách nô lệ Satan, để trong Chúa Thánh Thần. Hội Thánh trở thành lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa Cha (xc. Ep 1,13-14; 1P 2,9); Ðức Giêsu đã lớn tiếng tuyên bố rằng Người tự nhận mình là Tôi Tớ của Giavê, Người đã lấy máu mình để chuộc lấy nhiều người (Mt 20,28; Is 53,10-12). (xc. Giám mục; Phó tế).

Vì thế, phụng vụ hay "thần vụ" là một sự phục vụ qua lại giữa Thiên Chúa và Dân Người cho đến đời đời, khi mà Ðức Kitô hứa chính Người sẽ phục vụ các tôi tớ của Người (Lc 12,37). Ðể khỏi rơi vào các cạm bẫy của thứ biện chứng "chủ tớ", điều quan trọng là phải luôn ghi nhớ rằng việc "phục vụ Thiên Chúa" không chỉ nâng chúng ta lên tầm mức Thiên Chúa, nhưng trước hết đó còn là việc "phục vụ" sinh ơn cứu độ mà Thiên Chúa không ngừng tặng ban cho chúng ta. Trong viễn tượng này, người ta hiểu được tất cả sự phong phú liên quan đến Thiên Chúa, gồm chứa trong từ ngữ "phục vụ", khi từ ngữ này chỉ một lễ nghi phụng vụ, hoặc một "thần vụ" (xc. Phụng vụ; Tôn kính; Phận vụ; Thừa tác vụ; Thừa tác viên).
Phụng Tự

(= Culte)

Tiếng La tinh cultus, do động từ colere, có nghĩa là trồng cấy, săn sóc, rồi mang thêm ý nghĩa tôn kính, gặp gỡ. Phụng tự là toàn bộ những tác động mà một cộng đồng nhân loại dùng để tôn thờ các thần linh của mình, và tiếp xúc với các ngài. Người ta vun đắp mối liên hệ với Thiên Chúa như nâng niu một tình bạn: họ "săn đón" thần linh vì chính thần linh, và để mong nhận được các ơn lành của thần linh.

Hành vi phụng tự là phần việc của con người trong phụng vụ, giúp xã hội con người duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa. Nếu hành vi phụng tự quá vụ lợi, hoặc rơi vào não trạng phù phép, khi đó nó nhấn mạnh quá đáng về phía con người. Nhưng khi phụng tự thực sự trở thành lời "xin vâng" của những người sẵn sáng gặp gỡ Thiên Chúa, thì phụng tự khi đó mới có được tính cách đích thực và chính đáng.

Phụng vụ thành hình do việc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giáo Ước. Phần tiên quyết và sự khởi xướng là do Thiên Chúa, Ðấng không ngừng thi thố tác động cứu độ nơi chúng ta, với chúng ta và vì chúng ta, đặc biệt qua các bí tích là những thực tại nối dài ơn cứu độ do Ðức Kitô mang lại. Phần còn lại là của chúng ta, tuy là thứ yếu, nhưng thật cần thiết để có được cuộc gặp gỡ, và để Giao Ước được ký kết, được thực thi cũng như được kiện toàn.

Vì thế, trong mối tương quan hai chiều, phụng vụ bao gồm cả tác động của Thiên Chúa lẫn tác động của Dân Người: việc thánh hóa và việc phụng tự, theo đúng trật tự đó. Cần hiểu định nghĩa của Công Ðồng Vaticanô II theo chiều hướng đó: "Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người (chiều đi xuống) được biểu tượng nhờ những dấu khả giác, và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ (bí tích và phụ tích), và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn (chiều đi lên) được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là Ðầu cùng các chi thể của Người" (HCPV số 7).

Thật là một sự việc đầy ý nghĩa khi Thánh Bộ đặc trách phụng tự tại Giáo Triều Rôma không còn được gọi là Thánh Bộ Lễ Nghi, mà gọi là Thánh Bộ các Bí Tích và Phụng Tự; người ta thường hay quên các bí tích, mà chỉ còn nhớ đến phụng tự: rõ ràng điều đó cho thấy một nhận thức sai lạc về chính bản chất toàn vẹn của phụng vụ.
Phụng Vụ

(= Liturgie)

Gốc tính từ Hy Lạp lèitos nghĩa là công cộng, bởi từ léos (trong thổ ngữ ionie là laos) và danh từ ergon nghĩa là phục vụ, công trình, công việc. Vậy theo từ nguyên, phụng vụ là việc phục vụ công cộng, một công trình đem lại ích lợi cho dân chúng. Trong các nền dân chủ Hy Lạp, liturgia ám chỉ mọi việc phục vụ do các công dân thực hiện nhằm lợi ích chung, nhưng nhất là các trách vụ công cộng mà người ta phải kham nổi các khoản chi phí thì mới đủ tư cách nhận; và các trách vụ này là tổ chức các ban ca nhạc, các trận thi đấu thể thao, và trang bị các chiến thuyền, v.v...

Khi sử dụng từ liturge - người phục vụ - (Rm 13,6; 15,16; Pl 2,25), hay từ liturgie - việc phục vụ (2Cr 9,12; xc. Rm 15,27), thánh Phaolô thường hiểu theo nghĩa là một việc được thực hiện vì lích lợi của cộng đoàn.

Vào thế kỷ thứ III trước Công Nguyên, bản LXX dùng Leitourgia thay cho từ Hípri Abodah, từ ngữ này không còn được hiểu là một công việc mà dân chúng được hưởng lợi, nhưng là một công việc mà chính dân chúng phải thi hành. Liturgie trở thành việc phục vụ có tính tôn giáo và theo nghi thức dâng lên Thiên Chúa, do cộng đoàn được qui tụ nhân danh Người.

Không được bỏ qua một trong hai ý nghĩa này: "Công trình Thiên Chúa" vừa là công trình mà Thiên Chúa thực hiện nơi Dân Người, đồng thời gắn liền với công trình mà Dân thực hiện vì Thiên Chúa của mình. Như thế, "thần vụ", vừa có nghĩa là ơn cứu độ do Thiên Chúa thực hiện nơi Hội Thánh, đồng thời cũng là việc thờ phượng do Hội Thánh dâng lên Thiên Chúa. Do đó, một quan niệm đầy đủ về phụng vụ phải bao hàm cả hành động của Thiên Chúa vì con người lẫn hành động của cộng đoàn chính thức hướng lên Thiên Chúa.

Phụng vụ là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Người để cử hành Giao Ước. Trong cuộc gặp gỡ này, tác động của Thiên Chúa là tác động khởi đầu (chiều đi xuống), bởi vì chính Thiên Chúa có sáng kiến lập Giao Ước và khơi dậy sự đáp ứng của Dân (chiều đi lên). Nhờ sự trung gian của Ðức Kitô, đặc biệt là nhờ cuộc hiến tế cứu độ của Người, các tác động phụng vụ của chúng ta, những tác động làm nên việc phụng thờ Thiên Chúa, sẽ nối kết với công trình thánh hóa của Thiên Chúa, là công trình đưa chúng ta vào Giao Ước của Người.

Như vậy, ta có thể hiểu được định nghĩa về phụng vụ của Công Ðồng Vaticanô II: "Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người (chiều đi xuống) được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác, và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ (bí tích và phụ tích), và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn (chiều đi lên) được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là Ðầu cùng các chi thể của Người" (HCPV số 7).

Hai "chiều hướng" này hội nhập vào phụng vụ, và nhờ Ðức Kitô, tạo nên cộng đoàn của Thiên Chúa và Dân Người, và biến thành dòng chảy giao lưu hai chiều với đời sống Ba Ngôi: sự trao hiến của Chúa Cha cho Chúa Con, sự qui hướng của Chúa Con về Chúa Cha, trong nguồn sinh lực của Chúa Thánh Thần. Phụng vụ thiên quốc đưa nhưữg người được tuyển chọn vào "dòng sông có nước sự sống trào vọt lên từ ngai Thiên Chúa và Con Chiên" (Kh 22,1).

Phụng vụ thiên quốc là sự sống vĩnh cửu trong cung lòng Ba Ngôi: như thế sẽ không có kết thúc. Thật vậy, sách Khải Huyền cho chúng ta thấy cuộc sống mai sau là một cuộc phụng vụ vĩ đại và uy hùng. Nói cho đúng, trong cuộc sống tại thế, phụng vụ không phải là một đích điểm; hiện nay, người ta không thể ngày đêm chỉ lo việc phụng vụ vì một sự dầy khít quá mức như thế sẽ là một gánh nặng đối với sự yếu đuối của chúng ta - điều này hoàn toàn đi ngược với những người chủ trương duy phụng vụ. Phụng vụ không phải là tất cả hoạt động của Hội Thánh (PV số 9), nhưng là tuyệt đỉnh và nguồn mạch cho các hoạt động đó (PV số 10). Tất cả cuộc sống của Kitô hữu đều có chiều kích phụng vụ: được sinh ra trong phụng vụ, cuộc sống đó không ngừng tiến từ phụng vụ này sang phụng vụ khác, nhưng cuộc sống đó vẫn còn nhiều bất toàn đến nỗi chưa thể là một phụng vụ thuần túy.

Xc. Chiêm niệm; Kinh nguyện; Sự sống; Công trình Thiên Chúa; Thần vụ; Trung gian; Chúa Thánh Thần; Bí tích; Á phụng vụ; Các giờ kinh Phụng Vụ; Tôn giáo; Dấu chỉ; Biểu tượng; Phụ tích; Giáo dân; Phụng tự.
Phụng Vụ (Các Nghi Thức)

(= Liturgies)

Chỉ có một phụng vụ duy nhất, hiểu theo nghĩa mọi việc cử hành giúp chúng ta hội nhập vào kế hoạch cứu độ duy nhất, vào công trình duy nhất của Giáo Ước, đến nỗi Hội thánh, khi hiệp nhất với Ðức Kitô, được tham dự vào đời sống Ba Ngôi với tư cách Người Con (xc. Phụng vụ).

Tuy nhiên, có những phương thức khác nhau, qua đó những cộng đoàn Hội Thánh khác nhau để cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần đưa vào trong cung lòng của Chúa Cha để cử hành Giao Ước; sự đa dạng này tùy thuộc vào những cách diễn tả và năng khiếu riêng của từng cộng đoàn. Cơ cấu phụng vụ, tức là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và Dân Ngài, vốn mang tính cách phổ quát; những hành vi nền tảng để cử hành Giao Ước cũng có tính cách phổ quát (xc. Tạ ơn; Bí tích; Phụ tích; Phụng vụ các Giờ Kinh), nhưng các bản văn, cử chỉ và nghi thức lại mang dấu vết văn hóa cũng như lịch sử của những gia đình phụng vụ lớn.

Tại Ðông phương, chiếc nôi của Kitô giáo, các nhóm phụng vụ chia thành hai ngành chính, gắn liền với hai tòa thượng phụ cổ xưa: Antiôkia và Alêxandria.

1. Ngành Antiôkia:


a) Khối Xyria Tây Phương:

- Nghi lễ Xyria tại Antiôkia (gồm các nhóm Giacôbít, Xyria liên hiệp, Malankares). Nghi thức này chủ yếu sử dụng kinh Anaphora (Kinh Tạ Ơn) của thánh Giacôbê, ngôn ngữ chính thức là ngôn ngữ Xyria.

- Nghi lễ Marônít: nghi lễ riêng của các cộng đoàn ở Libăng còn liên hệ với Rôma. Ðây là một biến thể của nghi lễ Xyria tại Antiôkia cộng thêm những yếu tố riêng.

- Nghi lễ Lidăngtin: nền phụng vụ tại Công-tăng-ti-nốp, thành phố trung tâm của đế quốc. Phụng vụ này chính yếu sử dụng kinh Anaphora của thánh Gioan Kim Khẩu và sử dụng kinh của thánh Baxiliô trong một số ngày.

Nghệ thuật sáng tác thánh thi đạt đến trình độ cao, việc tôn kính ảnh tượng thánh và nền thần học phong phú, đó là những nét tiêu biểu của nền phụng vụ khá phổ biến này. Ngôn ngữ nguyên thủy của nền phụng vụ này là tiếng Hy Lạp, tuy nhiên, phụng vụ này cũng còn được cử hành bằng tiếng Xơ-la-vơ, tiếng Goóc-gi, tiếng Ả rập, v.v...



- Nghi lễ Ác-mê-mi-a: nét nổi bật của nghi lễ này là ảnh hưởng của các nghi lễ Pa-lét-tin, Bi-dăng-tin và Rôma: đây là một trong những nghi lễ Ðông Phương đã bị La tinh hóa rõ nét nhất. Ngôn ngữ sủ dụng là tiếng Ác-mê-mi-a cổ.

b) Khối Xyria Ðông Phương:

Gồm các giáo đoàn nằm trong vùng Lưỡng Hà Ðịa, các giáo đoàn này không chấp nhận các quyết nghị của công đồng Êphêxô và Kan-xê-đô-ni-a.



- Nghi lễ Nét-tô-ri-ô: ngôn ngữ là tiếng Xyria, nghi lễ này sử dụng kinh Anaphora của các Tông Ðồ (các kinh Addai và Mari), kinh của Thê-ô-đô-rê thành Mopsueste và của Nét-tô-ri-ô.

- Nghi lễ Kanđê: hợp nhất với Rôma, nhưng vẫn giữ các kinh Anaphore của người Nestôriô, với một vài sửa đổi.

- Nghi lễ Malabar: phần còn rơi rớt lại của nghi lễ Nestôriô được phổ biến sang Ấn Ðộ và Viễn Ðông, nhưng đã được La tinh hóa.

2. Ngành Alêxandria:



- Nghi lễ Cốp được cử hành bằng tiếng Hy Lạp tại Alêxandria và Ai Cập Hạ, bằng tiếng địa phương sahidique và bohairique tại Ai Cập Thượng. Các nghi lễ Cốp sử dụng kinh Anaphora của thánh Xyrilô, tức là bản dịch kinh Anaphora bằng tiếng Hy Lạp của thánh Máccô, và có sửa đổi cho phù hợp. Họ còn sử dụng một hình thức kinh Anaphora cổ của thánh Ba-xi-li-ô và một kinh khác được cho là của thánh Ghê-gô-ri-ô.Nghi lễ Xyria có ảnh hưởng đáng kể tại Ai Cập.

- Nghi lễ Êthiôpia: nghi lễ của một giáo đoàn theo chủ thuyết một bản tính (cho rằng Ðức Giêsu có một bản tính duy nhất, không chấp nhận công đồng Kan-xê-đô-ni-a), giống như phần lớn các giáo đoàn tại Ai Cập; nền phụng vụ này được chuyển dịch từ nền phụng vụ Cốp, nhưng vẫn giữ được tính thi ca độc đáo và một tập khoảng 18 kinh Anaphora, trong đó có kinh Anaphora của thánh Híppôlitô, nguồn gốc của kinh Tạ Ơn II hiện nay, nền phụng vụ này được gọi là "phụng vụ các Tông Ðồ". Ngôn ngữ được sử dụng trong nghi lễ Êthiôpia là tiếng géez, ngày nay đã trở thành tử ngữ.
- Nghi lễ Rôma: Tây phương chủ yếu sử dụng phụng vụ của Rôma, một thành phố trung tâm của đế quốc và còn hơn thế, đó là tòa của Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị Thánh Phêrô.

Nghi lễ Rôma được phổ biến rất nhanh tại Ý và đã thống lĩnh khắp vùng Bắc Âu do ảnh hưởng của các cuộc truyền giáo, và nhờ nỗ lực thống nhất của vua Sác-lơ-mai, nghi lễ này đã trở thành gần như bó buộc. Phụng vụ Rôma có tính cách ngắn gọn và hòa điệu, sử dụng tiếng La tinh, ít là từ cuối thế kỷ IV. Các thánh vịnh và các thánh ca lấy từ Thánh Kinh là những bài hát chính yếu trong thánh lễ và kinh phụng vụ. Lễ qui Rôma là Kinh Tạ Ơn duy nhất của nghi lễ này; phần chính yếu của lễ quy đã được thành hình vào giữa thế kỷ III-V. Việc in ấn các sách phụng vụ, cuộc canh tân do công đồng Trentô, phong trào do Dom Guéranger khởi xướng (thế kỷ XIX), đã lần lượt góp phần vào việc thống nhất nghi lễ Rôma. Các giáo đoàn Lyon và Baga vẫn giữ những tập tục địa phương, và dòng Ða Minh, dòng Prémontré, dòng Chartreux được phép dùng phần thường lễ riêng. Ngày nay, phần thường lễ do Ðức Phaolô VI ban hành và nền phụng vụ canh tân theo tinh thần Công Ðồng Vaticanô II đã được áp dụng cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo Rôma, trừ một vài trường hợp đặc biệt.


- Nghi lễ Amrôxiô: chính là nghi lễ Rôma, nhưng được thánh Am-rô-xi-ô sửa chữa và cho sử dụng tại Milan. Cũng cần ghi nhận là có phần ảnh hưởng của phụng vụ Galican.
- Nghi lễ Mozarabe hay Wysigothique: Tây Ban Nha trong một thời gian dài, vẫn ở ngoài tầmảnh hưởng của Rôma: phần chính yếu của nghi lễ này đã thành hình rồi khi quân man di Wysigoth bắt đầu xâm chiếm lãnh thổ, tức là trước cuộc chiếm đóng của người Ả Rập. Phụng vụ này không có lễ qui cố định, nhưng có phần thay đổi xoay quanh trình thuật về việc thiết lập Thánh Thể.
- Nghi lễ Galican và Xentô: các nghi lễ này không còn tồn tại sau khi Sác-lơ-mai tiến hành việc thống nhất, chịu ảnh hưởng Rôma, nhất là Tây Ban Nha, đặc điểm của các nghi lễ này là hơi rườm rà.
Phương Du

(= Dais)


Trong tiếng La tinh discus nghĩa là cái đĩa. Phương du là cái khung vải được trương ra để che phía bên trên vị chủ sự đang cầm Mình Thánh, trong những cuộc rước trọng thể. Người ta dùng nhiều cây cọc để đỡ phương du, còn lọng thì chỉ có một cây đỡ giống như cái dù. Việc dùng phương du và lọng nhằm nói lên phẩm vị của Ðức Kitô đang hiện diện trong Thánh Thể.

Q


Quá Cố

(= Défunt)

De-functus là người đã rời khỏi nhiệm vụ, người đã chấm dứt và đã rút lui. Trong nhiều tôn giáo, người ta quan niệm người chết tuy đã rời khỏi vị trí trong cuộc sống này, nhưng họ cần có sự "trự giúp" của người sống, để đạt tới lãnh vực của thần linh một cách chắc chắn hơn.

Ngay khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu đã được kết hiệp với Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ðức Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, nên các tín hữu quá cố vẫn hiện diện trong phụng vụ tại thế. Ðể giúp cho người quá cố được mau tham dự vào phụng vụ thiên quốc, Hội Thánh không ngừng phó thác họ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, trong niềm hy vọng về cuộc phục sinh của hết mọi người, khơi mào cho phụng vụ vĩnh cửu. Người quá cố được nhắc đến trong kinh Tạ Ơn, trong lời nguyện cộng đồng của thánh lễ, giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều.

Phụng vụ đã qui định các nghi thức an táng người tín hữu: canh thức, thánh lễ, nghi thức từ biệt, đưa tiễn ra nghĩa trang, và cầu nguyện trước khi hạ huyệt. Trong nhà thờ, ngươì ta đặt cây nến Phục Sinh bên cạnh linh cữu, tượng trưng Ðức Kitô Phục Sinh, Ðấng mà người Kitô hữu quá cố được kêu mời kết hiệp. Ngày 2 tháng 11, Hội Thánh nhớ đến mọi người quá cố trong các cử hành phụng vụ. Trong các cử hành khác liên quan đến người quá cố, có thể tùy nghi lựa chọn trong số những công thức thánh lễ và các Giờ Kinh Phụng Vụ cầu cho tín hữu quá cố.
Quì (Tư Thế)

(= Agenouillement)

Ðây là thái độ tự phát của con người khi muốn biểu lộ sự thờ lạy, van xin hay thống hối. Tin Mừng và Công Vụ Sứ Ðồ đã mô tả nhiều lần người ta quì gối để cầu nguyện (Mt 17,14; Mc 1,40; 10,17; Cv 7,60; 9,40; 20,36; 21,5). Chính Chúa Giêsu, trong lúc hấp hối ở vườn Cây Dầu, cũng quì gối cầu nguyện cùng Chúa Cha (Lc 22,4). Trong truyền thống Kinh Thánh, nơi mà ta có thể gặp thấy âm vang của những cử chỉ nhân loại hết sức tự nhiên, người ta thường đứng để cầu nguyện (xc. 1V 8,22; Mt 6,5; Lc 18,11), nhưng cũng quì gối khi lời cầu nguyện trở nên khẩn thiết, hoặc cung kính hơn (Tv 94,6; Is 45,23; Ðn 6,11).

Phụng vụ đôi khi cũng mời gọi các tín hữu quì gối: lời kêu mời "Chúng ta hãy quì gối" (Flestamus genna) có thể được cất lên đều đặn tương ứng với từng lời cầu của lời nguyện cộng đồng ngày thứ Sáu Tuần Thánh; trong các dịp lễ lớn như lễ phong chức, thầy phó tế cũng đọc lời kêu mời tương tự trước những lời nguyện. Ngoài ra, trong lễ Giáng Sinh và lễ Truyền Tin, để tỏ lòng tôn kính sâu xa trước mầu nhiệm Nhập Thể, các bản văn phụng vụ lưu ý mọi người phải quì gối khi đọc Kinh Tin Kính từ chỗ: "Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần..." tới chỗ "và đã làm người". Còn trong thánh lễ, chúng ta cũng phải quì gối khi linh mục truyền phép Thánh Thể; cũng phải quì gối khi chầu Thánh Thể và khi lãnh nhận bí tích sám hối (ít là trong phần xá giải).



R


Rôma (Ngai Tòa)

(= Rome)


(Về quyền của Giám Mục Rôma đối với vấn đề phụng vụ, xc. Ðức Thánh Cha). Trong lãnh vực phụng vụ, Ðức Thánh Cha có "Thánh Bộ các Bí Tích và Phụng Tự" trợ giúp. Cần để ý tên gọi chính xác này: ngày xưa người ta gọi là "Thánh Bộ các Nghi Lễ", ngày nay, tên gọi "Thánh Bộ các Bí Tích và Phụng Tự" phù hợp với định nghĩa về phụng vụ của Công Ðồng Vaticanô II (xc. Phụng vụ), trước tiên phải kể đến công trình của phụng vụ (các bí tích) rồi đến công trình đáp ứng của Hội Thánh (phụng tự). Ngoài quyền tối cao của giám mục Rôma và Thánh Bộ trợ giúp người trong vấn đề phụng vụ, các Hội Ðồng Giám Mục có quyền đưa ra những cách áp dụng thích nghi với lãnh thổ của mình, phù hợp với những quyết định hoặc những chỉ dẫn của Rôma.
Rôma (Nghi Thức)

(= Romain)

xc. Phụng vụ (Các nghi thức)
Rửa Chân (Nghi Thức)

(= Lavement des pieds)

Ðây là nghi thức không có tính cách bó buộc, được cử hành sau bài giảng thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh. Chủ tế làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu: rửa chân cho các Tông Ðồ. Nghĩa cử tượng trưng này có nghĩa rõ rệt là Chúa muốn làm người Tôi Tớ phục vụ các môn đệ để cứu độ họ. Ðến lượt các ông, các ông cũng phải phục vụ để đem lại ơn cứu độ đến cho mọi người (Ga 13,12-16). Trong khi chủ tế rửa chân cho 12 người (hoặc ít hơn), tượng trưng cho 12 Tông Ðồ, cộng đoàn hát những điệp ca đề cao tình huynh đệ (xc. Phụng vụ; Giám mục; Phó tế).
Rửa Tay

(= Lavabo)

Lavabo trong tiếng La tinh có nghĩa là tôi sẽ rửa. Từ này chỉ nghi thức rửa tay trong Thánh Lễ, sau phần chuẩn bị lễ phẩm, trước lời nguyện tiến lễ. Từ Lavabo mượn trong Thánh Vịnh 25, từ câu 6. Trong khi rửa tay, linh mục đọc: "Lạy Chúa, con rửa tay nói lên lòng vô tội, và con đi vòng quanh bàn thờ Chúa..." (Sách lễ Ðức Giáo Hoàng Piô V). Ý nghĩa của cử chỉ này là: lúc sắp dâng lễ hy tế Thánh Thể, linh mục xin Thiên Chúa thanh tẩy mình: "Lạy Chúa, xin rửa con sạch mọi lỗi lầm và thanh tẩy con sạch mọi tội lỗi". Sau khi chuẩn bị lễ vật và nhất là sau khi xông hương, việc rửa tay hẳn cũng là một việc cần thiết.
Rước Kiệu

(= Procession)

Trong tiếng La tinh processio có nghĩa là việc tiến bước (procedere), đi ra một cách long trọng. Phụng vụ huy động tất cả con người để tôn vinh Thiên Chúa. Vì vậy, những hoạt động của thân xác cũng là một phần không thể thiếu trong việc tôn vinh này. Việc xếp hàng đi rước không chỉ là hoạt động thuần túy con người, nhưng còn là biểu tượng cho việc con người đang tiến về Thiên Chúa. Ðối với các Tổ Phụ, việc "Cùng đi với Thiên Chúa" (St 5,24; 6,9; xc. Lc 24,15-32) hay "Bước đi trước nhan Người" (St 17,1), đó không phải là cách nói để chỉ tình trạng hoàn hảo đó sao? Cuộc xuất hành lại không phải là một kinh nghiệm tiêu biểu của Israel sao? Trong Tin Mừng, đối với Ðức Kitô, "đi theo Người" là thái độ của người môn đệ hoàn hảo. Trong các cuộc rước phụng vụ, tất cả cộng đoàn, hoặc ít nữa là một số người rước phụng vụ, tất cả cộng đoàn, hoặc ít nữa là một số người trong cộng đoàn, cùng nhau lên đường gặp gỡ Thiên Chúa: có thể rước ở đầu thánh lễ, khi dâng lễ phẩm (xc. Lễ vật; Tế phẩm) và nhất là khi rước lễ. Việc rước nến ngày 2 tháng 2 (xc. Dâng Chúa vào Ðền Thánh) rõ ràng gợi lại việc lên đường gặp Ðức Kitô.

Trong đa số các tôn giáo, các cuộc rước nhằm qui định một không gian linh thánh, khử trừ việc chiếm hữu của các thế lực sự dữ và xin Thiên Chúa che chở (xc. Gs 6). Cuộc rước cầu mùa, rước trong nghi thức rước rảy nước thánh những nơi luật định tại các đan viện (đặc biệt là vào Chúa Nhật 1 Mùa Vọng), và cả những cuộc cung nghinh Thánh Thể (xc. Lễ Mình Thánh Chúa; Than1h Thể) cũng phải được hiểu theo chiều hướng đã được trình bày trên.


Rượu Nho

(= Vin)


Trong tiếng La tinh, vinum có nghĩa là thành quả của cây nho và lao công của con người, theo những lời nguyện chuẩn bị lễ vật trong phần Thường lễ. Ðể được dùng trong cử hành Thánh Thể, rượu phải được làm từ nước cốt lên men một cách tự nhiên và phải tinh chất (xc. Hình, Thánh Thể).

S


Sách Lễ

(= Missel)

Tiếng La tinh missale chuyển dịch sang tiếng Việt là Sách lễ, tức là cuốn sách để cử hành hay tham dự thánh lễ. Sách lễ của chủ tế không có các bài đọc trong thánh lễ.

Có lẽ giáo dân chưa được khích lệ đủ để sử dụng sách lễ theo tinh thần canh tân phụng vụ của Công Ðồng Vaticanô II. Sách lễ gồm phần lớn là Kinh Thánh. Ngoài ra, Sách lễ còn có lời cầu nguyện và thánh ca của Hội Thánh, nên sách lễ là một thứ lương thực đặc biệt cho đời sống Kitô hữu.

Khi không thể tham dự thánh lễ mỗi ngày, tín hữu có thể đọc và suy niệm "phần lương thực" mỗi ngày mà Hội Thánh đã dọn sẵn: mỗi tín hữu tìm thấy trong sách lễ của ăn phù hợp với đời sống đức tin của mình và thấy mình được hướng dẫn trong việc cầu nguyện nhờ Hội Thánh là Mẹ các tín hữu. Người ta cảm thấy đơn độc khi đặt mình trước bộ Kinh Thánh. Nhưng với sách lễ, người ta nhận được từ Hội Thánh lương thực hàng ngày cho đời sống kitô hữu, vì sách lễ từng bước giúp ta hiểu Kinh Thánh và biết cầu nguyện.
Sách Nguyện

(= Bréviaire)

Tiếng La tinh bréviarium nghĩa là tóm tắt, rút gọn. Việc hát kinh thần vụ trong cung nguyện đòi hỏi phải dùng nhiều sách: sách điệp ca, sách thánh vịnh, sách xướng đáp, sách hát khi rước kiệu, sách các lời nguyện, sách bài đọc, sách thánh thi, sách bài giảng... Từ thế kỷ thứ IX, xuất hiện các "Sách nguyện rút gọn" hoặc sách tóm tắt các giờ kinh Phụng Vụ của các kinh sĩ, để cho giáo dân sử dụng. Có lẽ người ta cũng soạn một vài tập sách gồm các phần chính của kinh thần vụ để tiện dùng cho các đan sĩ không thể đến cung nguyện được.

Chương 50 trong tu luật Biển Ðức có ghi: "Các anh em bận rộn làm việc trong một thời gian khá dài không thể đến nguyện đường theo giờ ấn định, và khi viện phụ xác nhận đúng như vậy, thì những anh em đó sẽ chu toàn "Công trình Thiên Chúa" (Thần vụ) ngay tại nơi làm việc, với lòng tôn kính Thiên Chúa và trong tư thế quì gối. Cũng vậy, những người lữ hành cũng không bỏ các giờ kinh phụng vụ đã qui định, nhưng phải chu toàn theo mức độ có thể trong hoàn cảnh đặc biệt của mình, đừng chểnh mảng trách vụ này".

Sách nguyện, theo như cách gọi hiện nay, chỉ xuất hiện khi có luật buộc các giáo sĩ phải đọc kinh Thần Vụ (thế kỷ XI-XII), loại sách nguyện này trở nên phổ biến đồng thời với sự phát triển của các dòng hành khất ở thế kỷ XIII. Là những người sống nay đây mai đó, các tu sĩ Ða Minh và Phan Sinh phải mang theo các bản văn kinh Thần Vụ để đọc. Khi đó, các sách nguyện trở thành một cuốn sách thu tóm tất cả các yếu tố của giờ kinh phụng vụ, không cần ghi nốt nhạc. Qua các thế kỷ, kinh Thần Vụ dần dần mất đi ý nghĩa toàn vẹn, vốn được soạn ra để hát trong các cộng đoàn tu trì và các thánh đường. Phần lớn các linh mục và tu sĩ quen dần với việc thi hành nghĩa vụ ca tụng Thiên Chúa bằng cách đọc sách nguyện một mình. Ngay từ đầu, có lẽ anh em Dòng Tên đã được chuẩn miễn khỏi mọi cử hành thần vụ trong cung nguyện. Chỉ còn các nhà thờ chính tòa và nhà thờ có Kinh Sĩ Hội cũng như các tu viện tiếp tụ cử hành các giờ kinh công cộng và có những phần được hát.

Công đồng Vaticanô II cải tổ phụng vụ và kêu gọi tôn trọng việc đọc kinh nguyện đúng theo giờ giấc - nghĩa là không đọc tất cả các giờ kinh liền một lúc - và phải cố trù liệu để cử hành trong bầu khí cộng đoàn, bằng cách cho các tín hữu tham dự. Ngày nay người ta hay dùng cách gọi "các giờ kinh phụng vụ", thay vì "sách nguyện", đó là một dấu hiệu đáng mừng.


Sám Hối (Bí Tích)

(= Pénitence)

Con người luôn ý thức một cách tương đối rõ rệt về sự dữ trong thế giới và nơi bản thân mình: các nghi thức sám hối hay hòa giải đóng một vai trò khá quan trọng trong các tôn giáo, điều này được chứng tỏ qua các bản văn cầu xin ơn tha thứ. Mặc khải Cựu Ước nói đến nhiều khuôn mặt nổi bật đã thực hành sám hối - đặc biệt là vua Ða vít (2V 12,13; Tv 50; xc. 2S 24,10) - và cũng có nhiều công thức tự thú nổi tiếng (Nkn 9; Ðn 9,4-19; và rải rác trong các thánh vịnh). Duy Ðức Giavê mới có thể tha thứ. Người biểu lộ việc tha thứ tội lỗi qua lời các tiên tri, nhưng cũng qua hành động của Người nơi mỗi tâm hồn và qua các việc kỳ diệu Người thực hiện cho Dân tỏ lòng sám hối.

Tội lỗi của Dân cứ kéo dài, bất chấp cả Giao Ước, khiến cho niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế ngày càng trở nên mãnh liệt, vì chỉ có Ðấng ấy mới thực sự có thể ban cho dân một quả tim mới (xc. Ez 36,26). Khi Ðức Giêsu, Ðấng Cứu Thế, xuất hiện, Người đã nhận mình là chính Ðấng tha thứ tội lỗi, và Ngài đến để trao ban quyền tha thứ cho những kẻ Người tuyển chọn (Mt 9,1-8). Quả thế, thánh Phêrô và các Tông Ðồ đã được quyền cầm buộc và tha tội (Mt 16,19; 18,18; Ga 20,23).

Lịch sử việc thực hành bí tích Sám Hối hay Hòa Giải trong Hội Thánh thật phức tạp. Ban đầu, bí tích này chỉ dành cho những tội nặng và công khai, bao gồm việc thú tội và hòa giải được thực hiện trước cộng đoàn, bí tích này chỉ được lãnh nhận một lần. Dần dần, việc sám hối lại áp dụng cho những tội hoàn toàn kín, và được nhận thường xuyên. Năm 1215, công đồng Latran IV ấn định phải xưng tội hằng năm. Nếu bí tích Sám Hối cần thiết để phục hồi ân sủng sau khi người tín hữu cắt đứt tình thân với Thiên Chúa do việc phạm tội nặng, thì cũng rất nên lãnh bí tích Sám Hối ngay cả khi không phạm tội "chết" (tội trọng) chống lại Tình Yêu; việc thực hành Sám Hối trong trường hợp này cốt để nuôi dưỡng sự tinh tế trong tình bằng hữu. Trong tinh thần đó, các tu sĩ phải lo xưng tội thường xuyên theo như Hội Thánh nhắc nhở.

Là sự nối lại tình thân, việc sám hối phục hồi mối dây liên kết hối nhân với Thiên Chúa và Hội Thánh. Nhưng hành vi của hối nhân là: ăn năn tội cách trọn, tức là những tâm tình đau đớn vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, việc xưng tội, việc đền tội do linh mục đề nghị. Hiển nhiên việc ăn năn tội cách trọn là quan trọng nhất và giúp thông hiệp vào ân sủng của Thiên Chúa. Tha tội là hành vi của linh mục, đại diện Thiên Chúa và Hội Thánh. Vì thế, phụng vụ sám hối hàm chứa sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và một phần tử của Dân Người (xc. Phụng vụ) nhằm phục hồi và củng cố Giao Ước vì lợi ích của hối nhân, và như thế cũng là lợi ích của cả Hội Thánh.

Qui luật hiện hành về việc sám hối đã dự liệu 3 hình thức để cử hành bí tích sám hối: cử hành sám hối cá nhân được thực hiện giữa hối nhân và linh mục; cử hành sám hối cộng đồng với việc xưng tội và tha tội cho từng cá nhân; và việc cử hành sám hối cộng đồng với việc xưng tội và tha tội tập thể trong những trường hợp do luật định. Khi áp dụng hình thức thứ ba, các hối nhân nên nhớ rằng sau đó, họ phải xưng tội nặng với một linh mục. Các tín hữu nên thực hành bí tích Sám Hối cá nhân xen kẽ với sám hối cộng đồng theo một nhịp độ thích hợp, vì cả hai hình thức này bổ túc lẫn nhau.
Sáng Lập (Vị)

(= Fondateur)

Tiếng La tinh fundator nghĩa là người đặt nền tảng. Lễ mừng vị thánh sáng lập Hội Thánh địa phương (thường là giáo phận) hay một gia đình tu trì được cử hành như lễ trọng. Ngoài khu vực chính tòa của giáo phận, lễ này mừng theo bậc lễ kính (xc. Lịch phụng vụ; Lễ riêng).
Sát Hạch

(= Serutin)

Tiếng La tinh scrutinium, nghĩa là việc lục lọi, truy tìm, tra xét (scrutari). Trong Kitô giáo cổ thời, vào Mùa Chay, việc chuẩn bị lãnh bí tích Thánh Tẩy có một vài lễ nghi chuẩn bị, được gọi là sát hạch nghĩa là thẩm xét ý hướng của những người dự tòng để xem tâm hồn đã sẵn sàng chưa và cử hành các nghi thức trừ tà cho họ. Luật hiện hành về việc ban bí tích Thánh Tẩy cho người lớn còn giữ lại ba lần sát hạch, thường được ấn định vào các Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay. Các lần sát hạch được tiến hành trong thánh lễ Chúa Nhật, sau bài giảng và gồm một lời nguyện thầm, một lời nguyện cộng đồng cho các người dự tòng và nghi thức trừ tà.
Sinh Nhật (Lễ)

(= Nativité)

Trong năm phụng vụ, Hội Thánh cử hành ba lễ sinh nhật: sinh nhật Ðức Giêsu (25/12), sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả (24/06), và sinh nhật Ðức Mẹ (8/09). Hai lễ sinh nhật sau qui chiếu về lễ sinh nhật thứ nhất (xc. Giáng sinh).
Sống (Sự)

(= Vie)


Theo giáo huấn của thánh Phaolô (Rm 1,9; 12,1; Pl 3,3), toàn bộ cuộc sống Kitô hữu là một cuộc cử hành phụng vụ, hiểu theo nghĩa đó là một cuộc dâng tiến lên Thiên Chúa tất cả cuộc đời của mình trong sự kết hợp với Ðức Kitô. Một cuộc sống mang chiều kích phụng vụ như thế không thể thực hiện được nếu không có những tác động phụng vụ đúng nghĩa, tức là những hành động cô đọng đời sống của Hội Thánh trong mọi chiều kích: người Kitô hữu được sinh ra trong bí tích Thánh Tẩy, trưởng thành trong bí tích Thêm Sức, được nuôi dưỡng trong bí tích Thánh Thể, được tẩy luyện trong bí tích Sám Hối; bí tích Truyền Chức đem lại cho Hội Thánh những vị đại diện xứng đáng của Ðức Kitô, còn bí tích Hôn Phối thánh hóa đời sống gia đình, bí tích Xức Dầu chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ chung cuộc với Chúa. Như vậy, cách này khay cách khác, đời sống Kitô hữu không ngừng đi từ việc cử hành phụng vụ này đến việc cử hành phụng vụ khác. Theo giáo huấn của công đồng Vaticanô II: "Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh" (PV số 10).

Chính sự phong phú của các tác động phụng vụ đã khiến các tác động này không thể làm nên toàn bộ cuộc sống Kitô hữu trên trần gian. Mọi nỗ lực để cất lời ca tụng vĩnh cửu (laus perennis) đều đã thất bại, vì như thế là rơi vào cơn cám dỗ muốn tạo lập phụng vụ thiên quốc ngay tại trần gian này mà thực ra bây giờ mới chỉ là bước khai mào. Cá nhân và cộng đoàn cùng hoạt động một lúc, ở mức độ cao nhất, trong mối tương quan sống động với Thiên Chúa, là một điều hầu như không tưởng đối với tâm lý hữu hạn của chúng ta. Vì vậy, thật là xứng hợp khi việc cầu nguyện cá nhân và việc chiêm niệm chuẩn bị hay tiếp nối việc cử hành phụng vụ dưới mọi hình thức. Chỉ trong Giêrusalem thiên quốc thì phụng vụ mới là tất cả cuộc sống của những người được chọn, là những người nhờ sự kết hiệp với Ðức Kitô và ân huệ của Thánh Thần, được tham dự vào dòng chảy đối lưu hai chiều của tình yêu Ba Ngôi.


Suy Tôn Thánh Giá

(= Exaltation De La Sainte Croix)

Ðây là việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ, và tôn vinh Ðức Kitô: "Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi" (Ga 12,32). Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày cử hành cuộc thương khó và cái chết của Ðức Kitô trên Thập Giá, còn ngày 14 tháng 9 là lễ Suy Tôn cây Thánh Giá, trên đó Ðức Kitô đã chịu khổ hình và chịu chết vì chúng ta.

Theo lịch sử, lễ này có liên hệ với việc cung hiến vương cung thánh đường Ngôi Mộ Thánh mà hoàng đế Constantin cho xây cất ở Giêrusalem năm 335. Thánh dường này xây trên đồi Canvê, trên Mộ Ðức Kitô để tôn kính cái chết và sự phục sinh của Chúa. Lễ này cũng nhắc lại biến cố năm 630 hoàng đế Héraclius, chiếm lại được Thánh Giá trước đó đã bị người Ba Tư giữ làm chiến lợi phẩm ở Giêrusalem: Thánh Giá đó được chính hoàng đế Héraclius long trọng rước về mộ thánh.

Cuối giờ Kinh Chiều của ngày lễ này, người ta có thói quen tôn thờ Thánh Giá và ban phép lành bằng di tích Thánh Giá đó.



tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương