LỜi dẫN 1- khái niệm văn minh


Sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến



tải về 0.5 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.5 Mb.
#12280
1   2   3   4   5   6   7

2. Sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến

Xã hội Hy Lạp, La Mã là xã hội chiếm hữu nô lệ. Năm 476, đế quốc Tây La Mã diệt vong. Sự kiện đó đánh dấu chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc, từ đó, các vương quốc mới thành lập trên đất đai của Tây La Mã không tiếp tục duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ mà đi vào con đường phong kiến hóa.

Vậy chế độ phong kiến là gì? Đó là một hình thái kinh tế xã hội trong đó có hai giai cấp cơ bản là giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân. Giai cấp địa chủ phong kiến chiếm hầu hết ruộng đất trong xã hội, còn giai cấp nông dân thì bị mất ruộng đất nên phải cày cấy ruộng đất của địa chủ, do đó bị giai cấp địa chủ bóc lột bằng địa tô và các hình thức cưỡng bức siêu kinh tế khác.

Ở Tây Âu, quá trình phong kiến hóa ở vương quốc Phrăng diễn ra tương đối tiêu biểu.

Trong quá trình chinh phục, vua Phrăng đã đem những vùng đất rộng lớn phong cho những người thân cận của mình lập thành những lãnh địa. Đồng thời còn phong cho họ các tước hiệu quý tộc như Công, Hầu, Bá. Các lãnh địa và các tước hiệu quý tộc đều được truyền cho con cháu. Như vậy, chính sách phân phong ruộng đất của vương quốc Phrăng đã tạo nên một giai cấp mới là giai cấp lãnh chúa phong kiến, đồng thời cũng là giai cấp quý tộc.

Đây là giai cấp ít được học văn hóa nhưng lại có tinh thần thượng võ cao. Họ lấy việc chiến đấu làm nghề nghiệp, lấy săn bắn thi võ làm trò tiêu khiển, lấy việc đấu kiếm làm biện pháp đề giải quyết xích mích và mâu thuẫn. Sau khi hình thành, giai cấp quý tộc phong kiến ở phương Tây là một giai cấp đóng kín. Họ yêu cầu phải mãi mãi giữ gìn sự thuần khiết của dòng máu quý tộc, do đó những cuộc hôn nhân giữa quý tộc và những người thuộc các giai cấp khác đều bị cấm.

Xuất hiện đồng thời với giai cấp lãnh chúa phong kiến là giai cấp nông nô. Trừ một bộ phận nhỏ do nô lệ biến thành, phần lớn nông nô vốn là nông dân tự do có ruộng đất riêng.

Nhưng do việc chiếm đoạt ruộng đất của chúa phong kiến, họ bị mất ruộng đất và bị lệ thuộc vào các lãnh chúa và phải nộp địa tô cho lãnh chúa và phải chịu nhiều nghĩa vụ khác.

Ở Tây Âu, địa tô có ba hình thức: tô lao dịch, tô sản phẩm và tô tiền. Trong thời kì đầu, hình thức địa tô được áp dụng phổ biến là tô lao dịch. Với hình thức địa tô này, mỗi hộ nông nô đươc lãnh chúa giao cho một mảnh đất để làm ăn sinh sống. Vì nhận mảnh đất đó, họ có nghĩa vụ mỗi tuần phải đem theo súc vật và nông cụ đến làm việc trên ruộng đất của chủ từ 3 đến 4 ngày. Như vậy, cái mà lãnh chúa bóc lột nông nô chính là những ngày lao động không công trong tuần. Về sau, do sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tô lao dịch được thay dần bằng tô sản phẩm và tô tiền.

Sau khi trở thành nông nô, nông nô vĩnh viễn không được rời khỏi mảnh đất mà lãnh chúa giao cho mình, do vậy thân phận nông nô cũng cha truyền con nối cho đến khi chế độ nông nô tan rã mới chấm dứt.

Sự hình thành quan hệ lãnh chúa nông nô diễn ra từ thế kỉ V đến thế kỉ X. Vì vậy thời kì này gọi là thời kì hình thành chế độ phong kiến. Trong thời kì này, nền kinh tế ở phương Tây mang nặng tính tự cấp tự túc. Kinh tế hàng hóa không tồn tại.

Bắt đầu từ thế kỉ XI, thành thị công thương nghiệp ở Tây Âu ra đời. Từ đó, kinh tế hàng hóa phát triển nhanh chóng và trong xã hội xuất hiện một tầng lớp cư dân mới, đó là tầng lớp thị dân.



Khi mới ra đời, thành thị được xây dựng trên đất đai của chúa phong kiến, thị dân là những nông nô từ nông thôn trốn ra thành thị, vì vậy thành thị bị lệ thuộc vào lãnh chúa phong kiến. Sang thế kỉ XII, XIII, một khi kinh tế của thành thị đã giàu, thế lực của thị dân đã mạnh, các thành thị đã dùng nhiều biện pháp để đấu tranh với lãnh chúa nhằm giành quyền tự trị cho thành thị và quyền tự do cho thị dân. Kết quả là, tất cả các thị dân đều thoát khỏi sự lệ thuộc vào lãnh chúa cũ và các thành thị giành được quyền tự trị với những mức độ khác nhau. Đặc biệt do có nền công thương nghiệp phát triến và do chính quyền phong kiến suy yếu, các thành phố Vênêxia, Phirenxê, Giênôva, Milanô, Pida ở Italia được độc lập hoàn toàn và trở thành những nước cộng hòa thành thị.

Sự ra đời của thành thị vào thế kỉ XI đánh dấu chế độ phong kiến ở Tây Âu bước vào thời kì phát triển, nhưng trong đó đã tiềm ẩn những nhân tố làm tan rã chế độ phong kiến. Do có nền kinh tế hàng hóa phát tríển mạnh, ở một số thành thị Italia như Vênêxia. Phirenxê..., từ thế kỉ XIV, mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã ra đời. Đến thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện phổ biến ở Tây Âu. Cũng từ đó, chế độ phong kiến bước vào thời kì tan rã.



3. Vai trò và thế lực của giáo hội La Mã

Đạo Cơ Đốc ra đời vào thế kỉ I CN ở vùng Giêrudalem, thuộc đế quốc La Mã. Lúc đầu, đạo Cơ Đốc là tôn giáo của quần chúng nghèo khổ, do đó tôn giáo này đã công khai lên án sự giàu có, lên án đế quốc La Mã, do đó bị chính quyền La Mã đàn áp khốc liệt. Nhưng dần dần đạo Cơ Đốc trở thành một tôn giáo có lợi cho giai cấp chủ nô nên đến cuối thế kỉ IV được công nhận là quốc giáo của La Mã.

Để quản lí việc đạo trong toàn đế quốc, đạo Cơ Đốc đã thành lập 5 trung tâm giáo hội là Côngxtăngtinôplơ, Antiốt, Giêrudalem, Alêchxăngđri và La Mã. Ở mỗi trung tâm đều do một Tổng giám mục đứng đầu.

Tuy vậy, ở 4 trung tâm giáo hội phương Đông, Tổng giám mục ở Côngxtăngtinốplơ được giữ quyền lãnh đạo. Đồng thời, do Đông La Mã là một đế quốc thống nhất, ở đó chính quyền của hoàng đế rất vững mạnh nên giáo hội phải phục tùng hoàng đế.

Còn ở phương Tây, từ thế kỉ V đã thành lập nhiều vương quốc của người Giécmanh. Vua và quý tộc các nước này đã nhanh chóng tiếp thu đạo Cơ Đốc làm cho thế lực của giáo hội La Mã càng thêm mạnh. Trong khi đó, Tổng giám mục La Mã tự xưng là Giáo hoàng và có mưu đồ muốn chiếm quyền lãnh đạo toàn bộ giáo hội Cơ Đốc.

Để thần thánh hóa địa vị của mình, Giáo hoàng loan truyền rằng ngôi Tổng giám mục La Mã vốn do Thánh Pie, người cầm đầu các môn đồ của chúa Giêxu sáng lập. Do vậy, Giáo hoàng gọi lãnh địa của mình là “Lãnh địa kế thừa của thánh tông đồ Pie”.

Do mưu đồ của Giáo hoàng muốn ngư trị trên toàn bộ giáo hội, đồng thời do sự bất đồng về cách giải thích thuyết “Tam vị nhất thể” và việc tranh giành khu vực truyền giáo nên mâu thuẫn giữa Giáo hoàng La Mã và Tổng giám mục Côngxtăngtinôplơ ngày càng sâu sắc. Sau vài lần tuyên bố khai trừ giáo tịch của nhau, năm 1054 giáo hội Cơ Đốc chính thức phân biệt thành hai giáo hội: Giáo hội phương Tây, gọi là Giáo hội La Mã hoặc Giáo hội Thiên chúa; Giáo hội phương Đông gọi là Giáo hội Hy Lạp hoặc Giáo hội chính thống. Từ đó, hai giáo hội hoàn toàn độc lập với nhau, thậm chí coi nhau như thù địch.



Trong quá trình ấy, giáo lí đạo Cơ Đốc hết sức nhấn mạnh thuyết con người sinh ra ai cũng có tội. Sở dĩ như vậy là vì thủy tổ của loài người là Ađam và Evơ đã làm trái với mệnh lệnh của Chúa trời nên đã phạm tội. Vì vậy, tất cả dòng giống của họ tức là toàn thể loài người phải mang cái tội truyền kiếp. Ngoài ra, mỗi người trong cuộc đời của mình còn phạm những tội lỗi riêng.

Do con người đầy tội lỗi như vậy nên sau khi chết sẽ bị đày đọa ở địa ngục. Tuy nhiên giáo hội Cơ Đốc có thể làm cho mọi người thoát khỏi sự trừng phạt sau khi chết và được hưởng hạnh phúc ở Thiên đường. Giáo hội tuyên truyền rằng tầng lớp giáo sĩ là những kẻ được ban phúc lành vì khi họ được phong những chức vụ thiêng liêng thì đờng thời họ cũng được ban những quyền lực thiêng liêng. Do vậy, bằng các nghi lễ như rửa tội, cho ăn bánh thánh… các giáo sĩ được nhân danh Chúa để ban phước lành cho tín đồ. Như vậy, giáo hội không những đã làm cho các tín đồ tin tưởng mù quáng vào sự cứu vớt do giáo hội đem lại cho họ mà còn thần thánh hóa và tạo uy quyền rất lớn cho tầng lớp giáo sĩ.

Ngoài ra, để được ban phước lành và đề được cứu vớt, giáo hội còn đề xướng chủ nghĩa cấm dục, thành lập các nhà tu kín, khuyên mọi người phải nhẫn nhục chịu đựng mọi khổ hạnh ở đời để sau khi chết dược hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở Thiên đường. Đồng thời giáo hội còn chủ trương thờ các di vật của các thánh và khuyến khích tín đồ hành hương đến các đất thánh để không những làm tăng thêm sự cuồng tín của giáo dân mà còn đề quyên tiền cho giáo hội.

Như vậy, đến thời Trung đại, giáo hội La Mã là trung tâm của đạo Cơ Đốc ở phương Tây. Dựa vào uy quyền tôn giáo, giáo hội La Mã cũng có thế lực rất lớn về kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng.



II- Văn hoá Tây Âu từ thế kỉ V đến thế kỉ X:

1. Tình hình chung về văn hóa, giáo dục, tư tưởng

Từ thế kỉ V đến thế kỉ X, cùng với sự suy sụp của nền kinh tế, văn hóa Tây Âu một thời huy hoàng cũng bị suy giảm, nghèo nàn theo.

Những cuộc xâm nhập của các bộ tộc Giecman cũng đã làm hủy hoại khá nhiều những di sản của nền văn minh cổ đại ở Tây Âu. Chỉ có nhà thờ và các tu viện của đạo Cơ Đốc là không bị xâm phạm. Các vương quốc mới thành lập chưa có đủ điều kiện để chú trọng tới văn hóa, giáo dục. Hơn thế nữa, chế độ phong kiến cát cứ, tản quyền, với nền kinh tế tự cung tự cấp cũng bất lợi cho sự giao lưu văn hóa. Nông nô thì hầu hết là mù chữ. Quí tộc lãnh chúa thì nhiều kẻ cũng không thèm biết chữ.

Trong các vương quốc, chỉ có mỗi trung tâm văn hóa là các trường học thuộc hệ thống nhà thờ. Nội dung giảng dạy ở các trường học tôn giáo này chủ yếu là thần học. Ngoài thần học, sinh viên còn được học “bảy môn nghệ thuật tự do” gồm: âm nhạc, thiên văn học, ngữ pháp, tu từ học, logic học, số học, hình học.

Việc giảng dạy cũng bị giáo hội chi phối, quản lí chặt chẽ. Ngôn ngữ dạy trong các trường là chữ Latin. Môn logic học được coi là “đầy tớ của thần học”, cùng với môn tu từ học, dạy người học cách hùng biện để sau này đi truyền đạo. Môn thiên văn học thì lấy học thuyết của Ptôlêmê (Ptolemy) để giảng dạy, thuyết này coi Trái đất là trung tâm của vũ trụ.

Chủ nghĩa khổ hạnh, cấm dục cũng được tuyên truyền rộng rãi.



2. Văn hóa phục hưng Carôlanhgiêng (Carolingien)

Phong trào này ra đời dưới thời Saclơmanhơ nhằm đào tạo quan lại, giáo sĩ để quản lí công việc của nhà nước và truyền đạo ở những vùng mới chinh phục. Sáclơman rất chú trọng mở những trường học ở cung đình, khuyến khích con em quí tộc vào học. Các trường này do được sự tài trợ của triều đình nên mời được nhiều thầy giỏi ở Tây Âu, nhờ đó văn hóa có phần nào được tạo điều kiện phát triển.

Thực chất phong trào này vẫn lấy thần học làm nội dung giảng dạy chính, lấy việc phục vụ cung đình, nhà thờ làm mục đích trung tâm. Vì vậy giai đoạn văn hóa phục hưng Carôlanhgiêng tồn tại rất ngắn ngủi, sau cái chết của Saclơman không lâu nó liền bị suy sụp.

III- Văn hoá Tây Âu từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV:

Từ thế kỉ X, nông nghiệp ở Tây Âu đã bắt đầu phát triển. Nông nghiệp phát triển tạo điều kiện cho thủ công nghiệp phát triển. Nhiều thợ thủ công, thương nhân tìm đến ngã ba đường, ngã ba sông để mở quán làm ăn. Lâu ngày, những nơi này dần hình thành ra các thành thị trung đại.

Ở thành thị trung đại, các thị dân có điều kiện kinh tế hơn các nông nô. Họ cũng thấy giá trị phi vật chất của văn hóa. Điều đó dẫn tới những trường học xuất hiện, những biểu hiện mới về văn học, kiến trúc.

1. Sự ra đời của các trường đại học

Nhu cầu tri thức của thị dân ngày càng cao, họ đã thấy giá trị của những tài sản vô hình là văn hóa. Trường học của nhà thờ không đáp ứng được nhu cầu về văn hóa đa dạng, thiết thực của tầng lớp thị dân, điều đó đã dẫn tới sự xuất hiện các trường đại học ở Tây Âu vào thế kỉ XII - XIII.

Tiêu biểu cho các trường đại học xuất hiện giai đoạn này là trường Xoocbon, Tuludo, Oocleang, ở Pháp; Oxford, Cambridge, ở Anh; Napoli, Palecmơ, ở Ý... Đến cuối thế kỉ XIV, ở Tây Âu đã có tất cả khoảng 40 trường đại học.

Ngôn ngữ sử dụng trong các trường đại học vẫn là tiếng Latin. Phương pháp giảng dạy là giảng thuật. Sinh viên lên lớp nghe giảng, ghi chép và thảo luận. Kết thúc khóa học, sinh viên cũng làm luận văn và bảo vệ luận văn tốt nghiệp. Các học vị như cử nhân, tiến sĩ cũng được sử dụng trong các trường đại học.

Về mặt tổ chức, các trường thường gồm có hiệu trưởng, khoa trưởng của 4 khoa: Nghệ thuật (gồm cả văn chương và khoa học), Thần học, Y học và Luật học.

Ngoài thần học, sinh viên còn được học các môn học khác. Giáo sư là những người thế tục chứ không phải chỉ là các giáo sĩ như trường học của nhà thờ. Như vậy, các trường đại học muốn tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của giáo hội và hoạt động độc lập. Các trường đại học đã trở thành trung tâm văn hóa, khoa học, nơi truyền bá những tư tưởng tiến bộ. Vì vậy sau này, giáo hội lại tìm mọi cách để kiểm soát hoạt động của các trường đại học.



2. Văn học

Văn học Tây Âu giai đoạn này cũng có những biểu hiện mới. Bên cạnh văn học dân gian và văn học Latin của nhà thờ, thời kì này còn xuất hiện hai dòng văn học mới là: văn học kị sĩ và văn học thành thị.



Văn học kị sĩ thường bắt nguồn từ những câu chuyện lưu truyền trong nhân dân, mà nhân vật trung tâm thường có những tính cách được ca ngợi như thượng võ, trọng danh dự, kính chúa, trung thành với chủ và một tính cách không thể thiếu là tôn sùng người đẹp. Văn học kị sĩ gồm hai thể loại chủ yếu là anh hùng ca và thơ trữ tình. Bản anh hùng ca tiêu biểu thời đó là Bài ca Roland, Bài ca Cid. Tác phẩm Tơrixtăng và Idơ là một tác phẩm ca ngợi tình yêu lãng mạn kiểu kị sĩ.

Văn học thành thị cũng xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thị dân ngày càng đông đảo và đang lớn mạnh. Từ thế kỉ XII đã xuất hiện nhiều tác phẩm thuộc văn học thành thị mang tính hài hước, đả kích chế độ phong kiến, giáo sĩ, và ca ngợi những người bình dân. Tiêu biểu giai đoạn này là các tác phẩm: Di chúc của con lừa, Thầy lang vườn...

3. Triết học kinh viện

Triết học kinh viện (scholasticism) là một thuật ngữ bắt nguồn từ chữ schola trong chữ Latin để chỉ triết học trong nhà trường. Đây là một môn học rất quan trọng trong nhà trường lúc bấy giờ. Triết học kinh viện được coi là triết học chính thức của giai cấp thống trị lúc đó.

Đặc điểm nổi bật của triết học kinh viện là rất trọng lôgic hình thức, với những phương pháp biện luận cực kì rắc rối. Nói chung, các nhà triết học kinh viện cho rằng, đối với các hiện tượng tự nhiên chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu tượng cũng có thể đi tới chân lí, không cần đến những quan sát, thí nghiệm mất công sức.

Khi nghiên cứu những khái niệm chung, các nhà triết học kinh viện đã chia làm hai phái, duy thực và duy danh. Phái duy danh cho rằng khái niệm chung hình thành trong tư duy con người có sau sự vật; còn phái duy thực thì cho rằng trước khi có một vật thể nào đó, thì khái niệm về sự vật đó đã có trong tư duy con người. Như vậy phái duy thực thuộc trường phái duy tâm, còn phái duy danh mang nhân tố duy vật. Chính vì vậy, tuy vẫn tin chúa nhưng các nhà duy danh vẫn thường bị nghi ngờ.

Các nhà triết học kinh viện tiêu biểu thời kì đó là Anxenme, Guyom de Sampo, Roger Bacon, Thomas Aquinas.

Tới thế kỉ XIV, triết học kinh viện bắt đầu suy thoái. Các nhà triết học kinh viện trở thành công cụ của nhà thờ, chống lại những tư tưởng mới của giai cấp tư sản đang lên.



4. Nghệ thuật kiến trúc

Nền kinh tế hàng hóa ở các thành thị đang lên còn làm thay đổi cả bộ mặt kiến trúc ở các thành thị. Khoảng nửa sau thế kỉ XII đến thế kỉ XIII, phong cách kiến trúc Roman dần dần được thay thế bởi phong cách kiến trúc Gôtích.

Kiến trúc Roman là kiến trúc chịu ảnh hưởng từ những công trình kiến trúc Roma. Kiến trúc Gôtích là kiến trúc của người Gốt.

Buổi đầu thời trung đại, các công trinh kiến trúc Tây Âu đều bị suy giảm, nghèo nàn theo sự suy giảm chung của văn hóa. Đến cuối thế kỉ VIII, kiểu kiến trúc Roman có được khôi phục, nhưng về nghệ thuật thì nó thô kệch, nặng nề chứ không được đẹp như các công trình kiến trúc thời cổ đại. Kiến trúc Roman thời kì này thường được xây bằng đá, cột thấp, tường dày, ít cửa sổ, mặt trước để phẳng, hầu như không có trang trí gì. Bên trong các nhà thờ chỉ được trang trí một số bức tranh tô màu loè loẹt.

Đến nửa sau thế kỉ XII, ở miền Bắc nước Pháp xuất hiện một kiểu kiến trúc mới được gọi là kiến trúc Gôtích. Đặc điểm của kiến trúc Gôtích là vòm cửa nhọn, nóc nhà nhọn, cột cao, tường mỏng, nhiều cửa sổ và được trang trí bằng nhiều loại kính màu. Mặt tiền của các công trình lại được trang trí bằng những bức phù điêu rất sinh động.

Lối kiến trúc này làm tăng thêm vẻ uy nghiêm của tôn giáo nên trước hết được áp dụng xây các giáo đường, ngoài ra phong cách kiến trúc này còn được áp dụng để xây các công sở, dinh thự. Với những tháp chuông cao vút xấp xỉ 100 mét, với tầm cỡ bề thế, lại tinh xảo của toàn bộ công trình, các công trình mang phong cách Gôtích không những thể hiện sự giàu có của tầng lớp thị dân mà còn thể hiện bước tiến của kĩ thuật xây dựng lúc bấy giờ. Do vậy, kiểu kiến trúc Gôtích nhanh chóng ảnh hưởng sang Anh, Đức, Tây Ban Nha và cả Tiệp Khắc. Công trình tiêu biểu cho kiến trúc Gôtích thời đó là nhà thờ Buôcgiơ được xây dựng vào cuối thế kỉ XII và nhà thờ Đức Bà Pari được xây dựng vào thế kỉ XIII ở miền Bắc nước Pháp.



IV- Văn hoá Tây ÂU thời kỳ Phục Hưng:

1. Hoàn cảnh ra đời

Văn hóa Tây Âu thế kỉ V - X dựa trên nền tảng nền kinh tế tự cung tự cấp, sự giao lưu trao đổi rất hạn chế, văn hóa vì vậy cũng phát triển không đáng kể.

Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản không còn chịu chấp nhận những giáo lí phong kiến lỗi thời, họ vận động khôi phục lại sự huy hoàng của văn hóa Tây Âu thời cổ đại. Họ tìm thấy trong nền văn hóa cổ đại những yếu tố phù hợp với mình, có lợi cho mình để đấu tranh chống lại những trói buộc của nền văn hóa trung cổ.

Phong trào Văn hóa Phục hưng xuất hiện đầu tiên ở Italia, vì ở đây thế kỉ XIV đã xuất hiện các thành thị tự do như những quốc gia nhỏ. Quan hệ sản xuất tư bản đã chiếm địa vị chi phối đời sống văn hóa. Ý lại là trung tâm của đế quốc Rôma cổ đại, vì vậy ở đây còn giữ lại nhiều di sản văn hóa cổ đại của Hy Lạp - Rôma. Hơn ai hết, các nhà văn hóa Italia có điều kiện khôi phục lại nền văn hóa trước tiên khi có điều kiện. Từ Italia, phong trào lan sang Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức...

Tầng lớp giàu có ở các thành thị muốn thể hiện sự giàu sang của mình qua các dinh thự và các tác phẩm nghệ thuật, điều đó cũng tạo điều kiện cho các nhà văn hóa thể hiện tài năng.

2. Những thành tựu tiêu biểu

- Văn học

Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục hưng đều có những thành tựu quan trọng.

Về thơ, có hai đại biểu là Đantê (1265-1324) và Pêtracca (1304 - 1374). Đantê là người mở đầu phong trào Văn hóa Phục hưng ở Ý. Ông xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở Plorencia. Ông đả kích các thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm tiêu biểu của ông là Thần khúc và Cuộc đời mới.

Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình, ông ca ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và chống lại sự gò bó kinh điển.

Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bôcaxiô (Boccacio), Rabơle (F. Rabelais) và Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện Mười ngày. Qua tác phẩm Mười ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả, công kích cuộc sống khổ hạnh, cấm dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận hưởng mọi lạc thú của cuộc sống.

F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa học tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi tiếng của ông là cuộc đời không giá trị của Gargantua và Pantagruen.

Xêcvăngtét (Migel de Cervantes) là một nhà văn lớn của Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Đông Kisốt. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi thời Đông Kisốt, ông ám chỉ tầng lớp quí tộc Tây Ban Nha với những quan niệm danh dự cổ hủ và vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến lạc hậu.

- Kịch

Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là W. Sếchpia. (William Shakespeare). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch. Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ôtenlô...



- Hội họa, điêu khắc

Danh họa vĩ đại người Ý thời Phục hưng Lêôna đơ Vanhxi (Leonardo da Vinci) không chỉ là một họa sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức họa nổi tiếng như “Bữa tiệc cuối cùng”, “Nàng Giôcôngđơ” (La Joconde), “Đức mẹ đồng trinh trong hang đá”. Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...

Mikenlăngiơlô (Michelangelo) ra đời ở Ý(1475-1564). Ông là một danh họa, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức họa “Sáng tạo thế giới” vẽ trên trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức “Cuộc phán xét cuối cùng” được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Ông để lại nhiều bức tượng tiêu biểu như pho tượng “Môidơ”, “Ngưòi nô lệ bị trói”, đặc biệt là pho tượng “Đavid”.

Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi tiếng khác như Raphaen (Raffaello), Giôtô (Giotto), Bôtixeli (Botticelli)...



- Khoa học tự nhiên

Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại những suy nghĩ sai lầm nghìn đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận.

Nicôlai Côpecnic (1473-1543) giáo sĩ người Ba Lan, trong tác phẩm “Bàn về sự vận hành của các thiên thể” đã đưa ra một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay xung quanh Mặt trời chứ không phải là Mặt trời quay xung quanh Trái đất. Thuyết Nhật tâm của ông vậy là trái hẳn với thuyết Địa tâm đã được nhà thờ công nhận hàng nghìn năm.

Gioocđanô Brunô (1548-1600), là một giáo sĩ trẻ người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpecnic khi giáo hội cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư tưởng của Côpecnic. Ông cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ. Trong vũ trụ, bên cạnh Mặt trời còn có nhiều hệ mặt trời khác. Đương nhiên thời đó, ông bị đưa ra tòa án tôn giáo. Tòa án hồi đó buộc ông phải công bố lại là đã bị quỉ ám thì sẽ tha tội chết nhưng ông thà chết chứ không chịu nói trái với niềm tin của mình. Cuối cùng, ông đã bị thiêu trên dàn lửa.

Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê (1564-1642) tiếp tục phát triển quan điểm của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời. Ông đã chững minh là Mặt trăng có bề mặt gồ ghề chứ không phải là nhẵn bóng; Thiên hà là do vô số vì sao tạo thành. Ông đã giải thích hiện tượng sao chổi. Ông là cha đẻ của khoa học thực nghiêm, phát hiện ra định luật rơi tự do và dao động con lắc.

Tiến xa hơn, nhà thiên văn học người Đức là Kêplơ (1571-1630) đã phát minh ra ba qui luật quan trọng về sự vận hành của các hành tinh xung quanh Mặt trời. Ông đã chứng minh rằng quĩ đạo chuyển động của các hành tinh không phải là hình tròn mà là hình elíp, càng đến gần Mặt trời, vận tốc chuyển động càng tăng lên và càng xa Mặt trời thì vận tốc chuyển động càng chậm lại.

Triết học cũng có những bước phát triển mới. Người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời Phục hưng là một người Anh, F. Baicơn (1561- 1626). Ông đề cao triết học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán triết học duy tâm và triết học kinh viện.

3. Nội dung tư tưởng

Phong trào Văn hóa Phục hưng tuy danh nghĩa là phục hưng lại sự huy hoàng của văn hóa Hy-La cổ đại, nó có tiếp thu những yếu tố từ nền văn hóa Hy-La cổ đại, nhưng thực chất đây là một nền văn hóa hoàn toàn mới, dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội mới và hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên.

Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hóa thời Phục hưng đã thể hiện những tư tưởng chính sau:

- Phong trào văn hóa Phục hưng chống lại những quan niệm không hợp thời của giáo hội lúc bấy giờ cùng tầng lớp quí tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hóa đã công khai đả kích, châm biếm thói đạo đức giả, dốt nát của tầng lớp quí tộc, phong kiến. Các nhà văn hóa thời Phục hưng đấu tranh đòi văn hóa phải không bị kiểm soát bởi nhà thờ.

- Nhiều tác phẩm công khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khoáng, quyền được hưởng thụ. Họ chủ trương văn hóa phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con người; đối tượng ca ngợi phải là con người... Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn (humannisme).

- Phong trào Văn hóa Phục hưng còn ca ngợi tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc và ý thức các tác phẩm văn hóa phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy các tác phẩm văn hóa giai đoạn này phần nhiều không còn sử dụng chữ Latin mà sử dụng chữ viết riêng của mỗi dân tộc.

- Nhiều nhà văn hóa thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản khoa học của những thế lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe dọa của những hình phạt, kể cả dàn thiêu. Các tác phẩm của họ đã giáng những đòn quyết liệt vào triết học kinh viện và chủ nghĩa duy tâm đương thời, làm lung lay quyền uy của các tăng lữ.

- Phong trào Văn hóa Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của xã hội phương Tây lúc đó và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.




tải về 0.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương