LỜi dẫN 1- khái niệm văn minh


Những phát minh khoa học, kĩ thuật nổi bật trong thế kỉ XIX



tải về 0.5 Mb.
trang7/7
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích0.5 Mb.
#12280
1   2   3   4   5   6   7

2. Những phát minh khoa học, kĩ thuật nổi bật trong thế kỉ XIX

Cuộc cách mạng tri thức trong thế kỉ XVIII đã tạo điều kiện cho những tiến bộ ở những thế kỉ sau.

Đantơn (John Dalton), một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công thức hóa học.

Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học là “Bảng hệ thống tuần hoàn” năm 1869 của Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã xắp xếp các chất hóa học thành từng nhóm theo khối lượng riêng, tính chất riêng của chúng. Ông còn dự đoán một số chất mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp vào chỗ trống trong Bảng tuần hoàn của ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc.

Năm 1800, Vonta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hóa học. Năm 1831, Michael Faraday (Anh) đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện sau này.

Năm 1860 Macxel (James Clerk Maxwell), một nhà khoa học người Scotland đã đưa ra lí thuyết giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong khoảng mắt ta nhìn thấy được. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho đơn vị đo chu kì.

Năm 1895, một nhà khoa học người Đức khác là Rơnghen (Wilhelm Roentgen) đã tạo ra một loại tia có thể đâm xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia X.

Năm 1898, hai ông bà Pierre và Marie Curie (Pháp) đã tinh chế được chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó.

Về mặt thông tin, phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander Graham Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. Năm 1879, Thomas A. Edison đã làm cho điện phát sáng để phục vụ cuộc sống.

Về mặt kĩ thuật, đầu thế kỉ XIX khí đốt và gas đã được người Anh và Pháp đưa vào phục vụ cuộc sống. Năm 1897, một kĩ sư người Đức là R. Diesel đã chế ra một loại động cơ đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động cơ Diesel chính là mang tên ông.

Về y học, phát minh quan trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Louis Pasteur (Pháp), ông đã đế ra cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccin.

Về sinh học, phát minh quan trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Charles Darwin. Năm 1859 Đacuyn đã cho ra đời tác phẩm “Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên”. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng chủ yếu: đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của học thuyết tiến hóa cổ điển.

Về di truyền học, Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau này được gọi là gien.

Về tâm lí học, cuối thế kỉ XIX có hai phát minh quan trọng là của Paplốp (Ivan Pavlov) và Frơt (Sigmund Freud). Paplôp đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện. Thử nghiệm của Paplôp đã giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng lí trí, thực tế chỉ là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn học thuyết của Frơt thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn. Frơt đã tạo ra ngành phân tâm học.



3. Những học thuyết chính trị thời cận đại

- Học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia dân tộc thế kỉ XIX

Những cuộc cách mạng tư sản đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi những sự kiềm chế độc đoán của chế độ phong kiến. Con người ngày càng có ý thức về quyền tự do của các cá nhân và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trong điều kiện như vậy, những học thuyết về quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình thành.

Về quyền tự do cá nhân phải kể tới những tư tưởng của Giôn Min (John Stuart Mill - Anh) qua tác phẩm “Luận về tự do”. Giôn Min đã nêu lên nguyên tắc, cá nhân có thể làm bất cứ điều gì miễn là không hại tới người khác, không ảnh hưởng tới quyền tự do của người khác. Trong thực tế cuộc sống, việc thực hiện nguyên tắc này còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật.

Tôcơvin (Alexis de Tocqueville - Pháp) thì viết tác phẩm “Nền dân chủ Hoa Kì”. Qua tác phẩm này, ông cho rằng trào lưu dân chủ đang lên là không thể nào ngăn cản được. Ông ca ngợi tinh thần dân chủ, sự thành công và sức mạnh vật chất của nước Mĩ, nhưng ông cũng đồng thời phê phán tính cách thiếu tế nhị, ngạo mạn, thực dụng của nền văn hóa Mĩ theo cách nhìn của người Pháp.

Về quyền của các dân tộc thì lại có hai xu hướng trái ngược nhau. Xu hướng thứ nhất cho rằng mỗi dân tộc đều có quyền chọn cách sống riêng cho dân tộc mình, không dân tộc nào khác có quyền xâm phạm. Nhà ái quốc người Ý là Madini (Mazzini) đã để cả cuộc đời mình kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm này. Các cuộc đấu tranh của những nhà yêu nước ở vùng Bancăng chống lại sự thống trị của ngoại bang cũng là một cách bảo vệ quan điểm đó.

Xu hướng thứ hai thì ngược lại, một số nhà lí luận của các dân tộc lớn thì cho là dân tộc mình siêu đẳng hơn, có sứ mệnh phải giúp các dân tộc khác khai hóa văn minh, chỉ bảo cho các dân tộc kém hơn cách sống hợp lí. Họ còn lợi dụng học thuyết Đacuyn về cạnh tranh sinh tồn để áp dụng vào xã hội. Lí luận này được giới thực dân rất ủng hộ vì nó chứng minh cho sự “cần thiết” của các cuộc chiến tranh xâm lược các vùng đất chưa phát triển.



- Những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đầu thế kỉ XIX

Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện từ thế kỉ XVI với tác phẩm Utopia của Tomat Morơ (Thomas More - Anh), tư tưởng này phản ánh ước mơ một xã hội công xã nông thôn thanh bình dựa trên nền sản xuất nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp. Các nhà tư tưởng CNXH của thế kỉ XIX đã thấy sự tất yếu của một xã hội công nghiệp. Từ đó họ nảy sinh tư tưởng xây dựng một hạn chế bóc lột, hạn chế sự cách biệt giàu nghèo, khắc phục những mặt tiêu cực của xã hội tư bản. Tiêu biểu cho các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng của thế kỉ XIX là Xanh Ximông, Saclơ Phuriê và Rôbơt Ôen.

Xanh Ximông (Saint Simon - Pháp) nhận thấy mâu thuẫn giữa các nhà một bên là các nhà tư sản giàu có và một bên là những người làm thuê rất nghèo khổ. Ông chủ trương xây dựng một xã hội mới do “những nhà công nghiệp sáng suốt” điều hành, trong đó mọi người đều lao động theo kế hoạch và được hưởng thụ bình đẳng. Để xây dựng một xã hội như vậy, ông chủ trương thuyết phục các nhà tư bản chứ không theo con đường bạo lực cách mạng.

Saclơ Phuriê (Charles Fourrier - Pháp) cũng phê phán sự bất công của xã hội tư bản, ông vạch rõ “sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi”. Ông vạch ra dự án xây dựng các công xã (Phalăng - Falange) trong đó mọi người đều lao động, coi lao động là nguồn vui. Trong các công xã có sự kết hợp giữa công nghiệp với nông nghiệp. Sự hưởng thụ sản phẩm được chia theo tỉ lệ: 5/12 cho lao động, 4/12 cho tài năng, 3/12 cho những người góp vốn xây dựng Falange. Ông kêu gọi những người giàu có góp vốn xây dựng Falange, nhưng lời kêu gọi của ông chẳng được ai đáp lại.

Rôbơt Ôen (Robert Owen - Anh) vốn xuất thân từ một người làm thuê, biết làm ăn và trở thành ông chủ. Ông đã bỏ vốn của mình ra làm gương, xây dựng một cơ sở làm ăn. Trong cơ sở của Ôen tài sản được coi là của chung, mọi người đều cùng làm việc mỗi ngày là 10 giờ, có nhà trẻ cho công nhân nữ gửi con nhỏ, lợi nhuận làm ra được thì chia công bằng... Việc làm đó của ông sau này đã bị thất bại vì sản phẩm của xưởng ông làm ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ông bỏ sang Mĩ thí nghiệm ý tưởng của mình lần nữa nhưng cũng thất bại và cuối cùng phải bỏ về Anh trong cảnh nghèo khó.

Học thuyết của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng đầy tính nhân đạo nhưng đều thất bại khi đem ra thi hành. Nói như chúng ta ngày nay là thiếu tính khả thi. Tuy vậy, những tư tưởng của họ đã ảnh hưởng quan trọng tới sự ra đời học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học sau này do C. Mác xây dựng.



- Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học

C.Mác (Kark Marx – Đức) và F.Enghen (Friedrich Engels – Đức) đã xây dựng về học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học qua tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản tháng 2 năm 1848.

Trong Tuyên ngôn C.Mác và F.Enghen đã chứng minh lịch sử loài người là lịch sử của sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp thay thế nhau, xã hội sau sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn xã hội trước. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trong xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sẽ dẫn tới sự xuất hiện một xã hội mới công bằng hơn, tiến bộ hơn. Giai cấp công nhân, tổ chức ra chính đảng của mình lãnh đạo một cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây dựng chính quyền của mình và thiết lập mối quan hệ giữa công nhân các nước theo tinh thần quốc tế vô sản.

Tới đầu thế kỉ XX, V.I.Lênin (Vladimir Ilich Lenine - Nga) đã phát triển thêm lí luận của Mác-Enghen và vận dụng lí luận đó vào hoàn cảnh nước Nga, chỉ đạo phong trào đấu tranh ở Nga đi tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.



4. Những thành tựu về văn học nghệ thuật

- Văn học

Những biến động của lịch sử thời cận đại đã được văn học Châu Âu phản ánh một cách sinh động, đặc biệt là văn học Pháp.

Sau thất bại của Napôlêông và sự phục hồi tạm thời của các thế lực bảo hoàng, ở Pháp đã xuất hiện một dòng văn học lãng mạn thể hiện sự nuối tiếc một thời vàng son đã qua của giới quí tộc. Đại biểu cho trào lưu này là Satôbriăng (Chateabriand, 1768-1848).

Víchto Huygô (Vitor Hugo, 1802-1885) là một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tiến bộ. Ông thể hiện sự thông cảm với những người nghèo khổ qua các tác phẩm “Những người khốn khổ”, “Nhà thờ Đức Bà Pari”. Qua các tác phẩm, Víchto Huygô thể hiện lòng khát khao muốn vươn tới một xã hội tốt đẹp, công bằng và chan chứa tình nhân đạo.

Xã hội tư bản khắc nghiệt, tàn bạo cũng đã được phản ánh qua dòng văn học hiện thực mà tiêu biểu là Bandăc (Honoré de Balzac, 1799-1850). Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Ơgiêni Granđê”, “Miếng da lừa”... Những tác phẩm đó của Bandắc đã được tập hợp trong bộ “Tấn trò đời”. Những tác phẩm như “Đỏ và Đen” của Xtăngđan (Stendhal, 1783-1842), “Viên mỡ bò” của Guy de Môpatsăng (Guy de Maupassant) cũng phản ánh xã hội tư bản đầy bất công, tàn bạo.

Văn học Nga thế kỉ XIX cũng có những đóng góp quan trọng với các tác phẩm như “Chiến tranh và hòa bình” của Liep Tônxtôi. Những nhà văn tên tuổi khác của nền văn học Nga thế kỉ XIX phải kể tới là Tuôcghênhêep, Gôgôn, Đôxtôiepxki, Biêlixki...



- Nghệ thuật

Âm nhạc thời cận đại thế kỉ XVIII với sự đóng góp của những nhạc sĩ lớn như Bách, Môza, thì đế thế kỉ XIX có sự đóng góp vĩ đại của Bêtôven (Ludwig van Beethoven - Đức), Sôpanh (Fréderic Chopin - Ba Lan)...

Hội hoạ theo xu hướng lãng mạn thường đi tìm những phương trời xa lạ. Danh hoạ Pháp Đơlacroa (Delacroix) thường vẽ những kị sĩ Arập, những cuộc đi săn. Đến cuối thế kỉ XIX, danh hoạ người Tây Ban Nha là Goya đã vẽ những cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống Napôlêông.

Điêu khắc thế kỉ XIX không để lại nhiều tác phẩm như thời Phục hưng. Nhà điêu khắc Pháp Bactônđi (Bartholdi) đã hoàn thành bức tượng Nữ thần tự do để chính phủ Pháp gửi tặng nước Mĩ. Khải hoàn môn ở Pari và nhiều dinh thự ở Pari cũng còn giữ lại được một số tác phẩm điêu khắc giá trị của thế kỉ XIX.

Kiến trúc Âu - Mĩ thế kỉ XIX rất đa dạng, thể hiện một sự giao lưu văn hóa rộng mở. Nét mới về kiến trúc giai đoạn này là quan điểm hiện thực xâm nhập vào kiến trúc qua các vật liệu mới như thép, bê tông, kính dày. Một nhà kiến trúc Mĩ là Lui Sulivan (Louis Sulivan) đã đưa vào các công trình kiến trúc tư tưởng công năng. Theo ông, các công trình kiến trúc phải được thiết kế phù hợp với chức năng của chúng. Chẳng hạn một ngân hàng hiện đại không thể giống một đền đài tôn giáo, một thương xá không thể giống một lâu đài trung cổ. Đặc biệt là kiến trúc hành chính thời kì này thể hiện một phong cách rõ rệt mà tiêu biểu là tòa nhà Quốc hội Mĩ (1793-1851) và tòa nhà Quốc hội Anh (1840-1865).

Thời cận đại, đặc biệt là giai đoạn thế kỉ XIX đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra cách nhìn mới, kéo theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hóa, xã hội. Loài người bước vào một giai đoạn mới của văn minh nhân loại.



VĂN MINH THẾ GIỚI THẾ KỶ XX

I- Văn minh thế giới nửa đầu thế kỷ XX:

1. Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Liên Xô

Đầu thế kỉ XX, nước Nga là nơi chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt của thế giới: mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản, giữa địa chủ với nông dân, giữa chế độ của đế quốc Nga hoàng với các dân tộc thuộc địa, giữa đế quốc Nga với các đế quốc khác. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đẩy các mâu thuẫn đó tới cực điểm.

Tháng 2-1917 đã nổ ra cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Nga. Cuộc cách mạng tháng 2/1917 đã lật đổ chế độ chuyên chế của Nga hoàng, nước Nga trở thành một nước Cộng hòa tư sản. Thắng lợi này có ý nghĩa rất to lớn đối với lịch sử nước Nga.

Tháng 4-1917 Lênin từ nước ngoài trở về đã viết bản “Luận cương tháng Tư”. Bản Luận cương tháng Tư đã vạch ra con đường đưa nước Nga từ một chế độ cộng hòa tư sản tiến tới chế độ Xô Viết.

Đảng Bônsêvích và V. I. Lênin đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga cùng nhân dân tiến hành cuộc Cách mạng tháng Mười (theo lịch chung toàn thế giới là 7-11-1917). Cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một kỉ nguyên mới cho nước Nga mà còn ảnh hưởng sâu đậm tới lịch sử thế giới.

Ngay trong đêm thắng lợi đầu tiên của Cách mạng, chính quyền Xô Viết do Lênin đứng đầu đã ban hành Sắc luật về hòa bình và Sắc luật về ruộng đất. Tới tháng 3-1918 chính quyền Xô Viết đã được thiết lập trong cả nước.

Chính quyền Xô Viết đã ban hành một loạt những sắc lệnh quan trọng khác như, xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp và mọi tươc vị phong kiến; tuyên bố quyền bình đẳng nam nữ; Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc; tuyên bố quyền tự do tín ngưỡng.

Từ năm 1917 đến 1920, Nước Nga Xô Viết đã phải chống lại nạn ngoại xâm và nội phản. Sau khi đẩy lùi nạn ngoại xâm và nội phản, ngày 30-12-1922 Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã được thành lập (gọi tắt là Liên Xô). Liên Xô lúc đầu gồm có 4 nước cộng hòa Liên bang (Nga, Ucraina, Bêlarutxia và Capcadơ), 13 nước cộng hòa tự trị và 6 tỉnh tự trị. Sau khoảng nửa thế kỉ phát triển, tới giữa thế kỉ XX Liên Xô đã gồm 15 nước cộng hòa liên bang và 20 nước cộng hòa tự trị, 8 tỉnh tự trị và 10 khu dân tộc.



2. Những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô

- Về kinh tế và xã hội

Từ 1921 đến 1941, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bị bao vây kinh tế, cô lập về chính trị nhưng nhân dân Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Từ 1921-1925 thực hiện thắng lợi chính sách Kinh tế mới, về cơ bản đã hoàn thành việc khôi phục kinh tế. Tiếp đó, giai đoạn 1926-1928 Liên Xô bước đầu xây dựng cơ sở cho nền công nghiệp nặng. Tới năm 1928, công nghiệp Liên Xô đã chiếm tỉ trọng 54,5% tổng sản lượng kinh tế. Kế hoạch điện khí hóa cũng đã hoàn thành.

Trước cách mạng Liên Xô vẫn là một nước nông nghiệp, tới năm 1933 công nghiệp đã chiếm 70% nền kinh tế. Tới năm 1937, Liên Xô đã trở thành cường quốc công nghiệp của Châu Âu và đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ).

Sau chiến tranh thế giới II, Liên Xô nhanh chóng khắc phục khó khăn để khôi phục kinh tế. Tới năm 1975, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã chiếm 20% công nghiệp thế giới. (Bằng 80% sản lượng công nghiệp Mĩ).

Về nông nghiệp, năm 1981 sản lượng ngũ cốc Liên Xô là 189 triệu tấn, đứng hàng thứ 3 thế giới, sau Mĩ và Trung Quốc.

Về cơ cấu xã hội cũng có thay đổi lớn, tới năm 1977 công nhân chiếm 61% dân số. Đội ngũ trí thức cũng lên tới 34 triệu người, tăng 11 lần so với năm 1926.

- Về văn hóa, khoa học

Việc xóa nạn mù chữ đã căn bản hoàn thành trước chiến tranh thế giới II. Năm 1980, Liên Xô đã có 5 triệu sinh viên, gấp 40 lần số sinh viên của nước Nga thời Nga hoàng.

Đội ngũ các nhà khoa học cũng phát triển nhanh, tới giữa những năm 70 Liên Xô đã có 1,3 triệu nhà khoa học, chiếm 25% các nhà khoa học thế giới. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, điều đó đã phá vỡ thế độc quyền về nguyên tử của Mĩ. Năm 1954, xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Năm 1957, Liên Xô phóng con tàu vũ trụ đầu tiên (đi trươc Mĩ 9 tháng) và 1961 đưa con người bay vào vũ trụ trở về an toàn (trước cả Mĩ).

Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, văn hóa nghệ thuật cũng được chính phủ Liên Xô quan tâm. Tên tuổi các nhà văn và nghệ sĩ lớn của Liên Xô được thế giới biết tới như M. Goocki, M. Sôlôkhốp, A. Tônxtôi, D. Sôxtacôvích... đã chứng minh điều đó.



3. Những tiến bộ của khoa học kĩ thuật nửa đầu thế kỉ XX

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong ngành vật lí đó là 3 phát minh quan trọng: điện tử (1896), tính phóng xạ (1898) và Thuyết tương đối.

Giữa thế kỉ XIX, con người vẫn còn quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất không thể phân chia được nữa. Nhưng với những phát hiện về tia X, tính phóng xạ, làm người ta phải có những cách nhìn khác. Năm 1911, một nhà bác học người Anh là E.Rơdơpho đã tiến hành thí nghiệm bắn phá nguyên tử. Thí nghiệm của E.Rơdơpho đã chứng minh nguyên tử không phải đặc mà có rất nhiều khoảng trống. Từ kết quả của thí nghiệm đó, học trò của E.Rơdơpho là Ninxơ Bo đã đưa ra lí thuyết về mẫu hành tinh nguyên tử. Theo Ninxơ Bo, các nguyên tử có một nhân ở giữa, xung quanh có các điện tử chuyển động theo một quĩ đạo nhất định như các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời. Một sự tương đồng giữa thế giới vi mô với thế giới vĩ mô.

Năm 1932, con người còn phát hiện ra hạt nhân nguyên tử cũng chưa phải là thành phần nhỏ nhất của vật chất. Hạt nhân nguyên tử còn gồm có prôtôn và nơtrôn. Năm 1934, Phêđơric và Iren Quyri (con rể và con gái của nhà bác học Mari Quyri) đã phát hiện ra hiện tượng phóng xạ nhân tạo và chất đồng vị phóng xạ.

Năm 1938-1939, các nhà bác học Ôttô Han, Lida Metne (Đức), Enricô Phecmi (Italia) và Giôliô Quyri (Pháp) đã cùng phát hiện ra hiện tượng phản ứng dây chuyền phá vỡ hạt nhân urani. Từ đó, năm 1942 Enricô Phecmi đã xây dựng được lò phản ứng hạt nhân đầu tiên trên thế giới ngay dưới khán đài sân vận động của trường đại học Sicagô.

Thuyết tương đối của Anbe Anhxtanh đã làm một cuộc cách mạng thực sự của vật lí hiện đại. Khi mới được công bố, nhiều người cho đây là một lí thuyết điên khùng. Ngay cả một số nhà bác học lớn tuổi thời đó cũng không hiểu nổi lí thuyết của Anhxtanh. Nhưng với thời gian, nhiều sự kiện thực nghiệm càng ngày càng chứng minh lí thuyết của Anhxtanh là đúng đắn. Lí thuyết này không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực như vật lí hạt nhân, kĩ thuật máy gia tốc, vật lí thiên văn hiện đại. Có thể nói rất nhiều các phát minh lớn về vật lí của thế kỉ XX đều có liên quan đến lí thuyết của Anhxtanh.

Trong lĩnh vực hóa học, sinh học... cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những thành tựu về khoa học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã đưa và sử dụng như điện tín, điện thoại, ra đa, máy bay, phim có âm thanh...

II- Chiến tranh thế giới và sự phá hoại văn minh nhân loại:

Từ thời cổ đại tới nay, con người đã trải qua hàng ngàn cuộc chiến tranh. Một nhà khoa học người Thuỵ Sĩ là Giăng Giắc Baben còn dùng máy tính điện tử và đưa ra con số là 14513 cuộc chiến tranh lớn nhỏ với số người thiệt mạng là 3,6 tỉ người. Tất nhiên đây không phải là con số chính xác nhưng cũng làm chúng ta khủng khiếp.

Chiến tranh là một hiện tượng thảm hoạ phức tạp. Có cuộc chiến vì nguyên nhân kinh tế, có cuộc chiến lại vì nguyên nhân tôn giáo hay xung đột sắc tộc. Có những cuộc chiến nhằm tranh cướp nhau quyền lợi giữa những cường quốc, có những cuộc chiến để bảo vệ quyền bình đẳng của một dân tộc nhỏ chống lại sự áp bức của các cường quốc lợi dụng thế mạnh của mình để đi ăn cướp. Thực tế đó cho ta thấy cần phân biệt hai loại chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Cuộc chiến tranh của dân tộc Việt Nam 30 năm qua (1945-1975) để bảo vệ độc lập của dân tộc mình là một cuộc chiến tranh chính nghĩa.

Sức mạnh của khoa học kĩ thuật của thế kỉ XX nếu được sự dụng phục vụ loài người thì nó sẽ đem lại những kết quả vĩ đại, nhưng nếu đem sức mạnh đó để phục vụ chiến tranh nó cũng gây ra những hậu quả khủng khiếp. Sang thế kỉ XX, sự giao lưu ngày càng mang tính chất toàn cầu thì chiến tranh nếu xảy ra cũng mang tính chất toàn cầu. Loài người đã phải trải qua tai hoạ của 2 cuộc chiến tranh thế giới với sự tàn phá khủng khiếp.

Trong chiến tranh thế giới thứ nhất: 8 triệu binh sĩ bị chết, 15 triệu người bị thương nặng, trong đó 7 triệu người bị tàn phế suốt đời, đa số những người này lại đang ở độ tuổi thanh xuân, lực lượng lao động chính. Chiến tranh còn gây ra nạn đói, bệnh tật và dân thường cũng phải chịu thảm hoạ. Nếu kể cả dân thường thì chiến tranh thế giới I đã gây thương vong cho khoảng 33 triệu người kể cả binh lính và dân thường. Thiệt hại về vật chất khoảng 260 tỉ USD. Chi phí quân sự trực tiếp của các nước tham chiến khoảng 208 tỉ USD. Mức tăng trưởng của Châu Âu bị chiến tranh thế giới I làm chậm lại khoảng 8 năm.

Tác hại của chiến tranh thế giới II còn lớn hơn nhiều. Hơn 60 triệu người chết trong đó: Liên Xô 27 triệu, Trung Quốc 13,5 triệu, Ba Lan 6 triệu, Đức 7,3 triệu, Nhật 2,1 triệu, Nam Tư 1,6 triệu... 6 triệu người Do Thái bị bọn phát xít Đức tàn sát.

Về vật chất, các nước tham chiến đã chi khoảng 1 384 tỉ USD. Thiệt hại do chiến tranh tàn phá toàn thế giới thì không tính nổi. Riêng Liên Xô 1 710 thành phố, 70 000 làng, 32 000 nhà máy bị tàn phá hoặc thiêu huỷ. Ở Nhật, 70 thành phố bị không quân Mĩ oanh kích trong đó có 2 thành phố bị ném bom nguyên tử. Thiệt hại do bọn phát xít Đức gây ra ở Châu Âu không thống kê nổi. Những thiệt hại về văn hóa, văn minh cũng rất nặng nề. Quân đội của bọn phát xít Hitle giết người bằng những hình thức man rợ.

Sau hai cuộc chiến tranh thế giới, loài người lại phải trải qua hơn 40 năm căng thẳng của thời kì “chiến tranh lạnh” với những cuộc chạy đua vũ trang cực kì tốn kém. Trong và sau thời kì “chiến tranh lạnh”, những cuộc chiến tranh khu vực như chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Trung Đông, chiến tranh vùng Vịnh... vẫn nổ ra. Đấy là chưa kể những cuộc chiến tranh sắc tộc, chiến tranh tôn giáo ở Châu Phi.

“Chiến tranh lạnh” chấm dứt đã hơn 10 năm nhưng ở nhiều nơi vẫn chưa ngưng tiếng súng. An ninh của toàn nhân loại vẫn còn luôn bị đe doạ bởi một cuộc chiến tranh với đủ loại vũ khí giết người hàng loạt. Bảo vệ hòa bình, bảo vệ nền văn minh vẫn luôn là mục tiêu chung của nhân dân toàn thế giới.

III- Văn minh thế giới nửa sau thế kỷ XX:

1. Nguồn gốc của cuộc cách mạng Khoa học kĩ thuật lần 2

Từ những năm 40 của thế kỉ XX, loài người đang bước vào một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần 2. Cuộc cách mạng này tới những năm 70 của thế kỉ XX được gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra do những lí do sau:

Do những nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người càng ngày càng tăng cao, dân số tăng nhanh, trong khi đó các nguồn tài nguyên thiên nhiên cứ vơi cạn dần, điều đó đòi hỏi con người phải tìm ra các nguồn năng lượng mới, các loại vật liệu mới.

Trong chiến tranh thế giới II, các bên tham chiến đều tìm cách tăng tính cơ động của binh lính, tăng khả năng theo dõi đối phương... điều đó cũng góp phần thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển.

Những thành tựu của khoa học kĩ thuật thế kỉ XIX cũng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần này.

Nếu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật thế kỉ XVIII diễn ra chủ yếu với nội dung cơ khí hóa, thì cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần này diễn ra trong mọi ngành khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần này là có sự gắn bó chặt chẽ giữa khoa học với kĩ thuật. Khoa học đi trước mở đường cho sản xuất. Khoảng cách từ phát minh khoa học đến việc áp dụng phát minh đó vào sản xuất để thu hiệu quả kinh tế ngày càng rút ngắn.

Từ những năm 70 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần này được gọi là cuộc cách mạng công nghệ. Công nghệ bao hàm cả kĩ thuật, các kĩ năng quản lí, tổ chức, khả năng tiếp cận thông tin, khả năng tài chính, khả năng tiếp thị...

Người ta thống nhất công nghệ về một lĩnh vực nào đó thể hiện qua 4 nội dung sau:

- Phần thiết bị cơ sở hạ tầng, thiết bị máy móc.

- Phần con người đội ngũ nhân lực để vận hành, điều khiển, quản lí thiết bị.

- Phần thông tin khả năng thu thập, xử lí thông tin.

- Phần quản lí, tổ chức các hoạt động tạo lập mạng lưới, tuyển dụng nhân lực, trả lương…

2. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ nửa sau thế kỉ XX

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi ngành khoa học cơ bản và trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành điện tử - tin học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kĩ thuật lade, khoa học vũ trụ.

Máy tính và rôbôt là những sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử - tin học. Từ những chiếc máy vi tính (computer) đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã trải qua bốn thế hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân không, rồi chất bán dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi mạch với độ tích hợp cao. Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo ra mạng thông tin toàn cầu với khả năng trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.

Đội ngũ rôbôt công nghiệp ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt động đang ngày càng mở rộng.

Nhiều loại vật liệu mới ra đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn dần. Những loại vật liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ... Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic, sợi cáp quang... ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được con người sử dụng để biến thành điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió...

Tia lade (laser) mới được phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin liên lạc...

Công nghệ sinh học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc. Công nghệ sinh học tập trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh, công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây, con mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều loại dược phẩm mới ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...

Trong nghiên cứu vũ trụ, con người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên Xô và Mĩ. Các tàu vũ trụ của Liên Xô và Mĩ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi ngoài Trái Đất. Liên Xô, Mĩ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp ứng nhu cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời tiết, mạng định vị qua vệ tinh...








tải về 0.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương