LƯỢc sử phật giáO ẤN ĐỘ Sa môn Thích Thanh Kiểm thpg tp. Hồ Chí Minh, tp. Hcm, 1989 o0o Nguồn


CHƯƠNG THỨ TƯ. PHẬT GIÁO Ở THỜI ĐẠI NGÀI VÔ TRƯỚC, THẾ THÂN



tải về 0.87 Mb.
trang16/20
Chuyển đổi dữ liệu19.04.2018
Kích0.87 Mb.
#36957
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   20

CHƯƠNG THỨ TƯ. PHẬT GIÁO Ở THỜI ĐẠI NGÀI VÔ TRƯỚC, THẾ THÂN

I.  LƯỢC TRUYỆN VÀ TRƯỚC TÁC CỦA NGÀI VÔ TRƯỚC


Sau ngài Long Thọ xuất thế hơn một trăm năm, thì có hai bậc đại học giả trong Phật giáo ra đời, đó là ngài Vô Trước và Thế Thân. Ngài Vô Trước (Asanga) sinh ở khoảng cuối thế kỷ thứ IV TL, tại thành Purusapura (Bá Lộ Sa), thuộc nước Gandhàra (Kiều Đà La), Bắc Ấn, giòng dõi Bà-la-môn. Thân phụ là Kausika (Kiều Thi Ca), thân mẫu là Virinci (Tỷ Lân Trì). Trong ba anh em, ngài là anh cả, ngài Thế Thân (Vasubandhu) là em lớn, và Virincivaisa (Tỷ Lân Trì Tử) là em út, cả ba anh em đều đầu Phật xuất gia.

Ngài Vô Trước lúc đầu tin theo Bà La Môn giáo, sau bỏ Bà La Môn giáo đi xuất gia, học tập giáo lý Tiểu thừa thuộc Hữu bộ. Nhưng vì không mãn nguyện với giáo lý Tiểu thừa, ngài lại chuyển sang nghiên cứu kinh điển của Đại thừa Phật giáo.

Tương truyền, ngài dùng sức thần thông lên cung trời Đâu Suất (Tusit) để nghe Bồ-tát Di Lặc (Maitreya) giảng giáo lý Đại thừa. Sau khi nghe giảng xong, ngài lại thỉnh Bồ-tát giáng xuống hạ giới, ngự tại một giảng đường thuộc nước Ayodhyà (A Du Đà), Trung Ấn. Trong một khoảng thời gian 4 tháng, cứ về ban đêm thì ngài nghe Bồ-tát thuyết pháp, ban ngày ngài lại đem những điều đã nghe được giảng lại cho đại chúng. Nơi trung tâm hưng long Đại thừa Phật giáo của ngài là nước Ayodhyà, nước Magadhà (Ma Kiệt Đà). Ngài thọ 75 tuổi.

Phần trước tác của ngài thì quan hệ mật thiết với phần trước tác của Bồ-tát Di Lặc. Tuy vậy, nhưng phần trước tác của Bồ-tát Di Lặc thì không độc lập thành một hệ thống giáo học riêng mà chỉ là phụ thuộc vào trước tác của ngài. Ngài trước tác rất nhiều tác phẩm, nhưng những tác phẩm được dịch sang chữ Hán chỉ thấy có các bộ như sau:

---o0o---

PHẦN TRƯỚC TÁC CỦA NGÀI DI LẶC:

1. “Du Già Sư Địa Luận” (100 quyển), (Yogàcàrya bhùmi sàstra), ngài Huyền Trang dịch.

2. “Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận” (Mahàyànalankàra sàstra) bản tụng, ngài Ba La Ba Mật Đa La dịch.

3. “Thập Địa Kinh Luận” (Dasabhùmikà sùtra sàstra) bản tụng, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

4. “Trung Biên Phân Biệt Luận” (Madhyàntavibhàga sàstra) 2 quyển, ngài Chân Đế dịch.

---o0o---



PHẦN TRƯỚC TÁC RIÊNG CỦA NGÀI VÔ TRƯỚC:

5. “Hiển Dương Thánh  Giáo Luận” (Prakaranàryavàca sàstra) 20 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

6. “Nhiếp Đại Thừa Luận” (Mahàyànàsamparigraha s.) 3 quyển, ngài Chân Đế dịch.

7. “Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận” (Mahàyànàbhidharma sangìti s.) 7 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

8. “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận” (Vajraprajnà pàramità sùtra sàstra) 3 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

9. “Thuận Trung Luận” 2 quyển, ngài Bát Nhã Lưu Chi dịch.

Trong các bộ luận kể trên, “Du Già Sư Địa Luận” thì bàn về tư tưởng “A-lại-da duyên khởi”, là bộ luận căn bản của Du-già, Duy thức Phật giáo. “Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận” chủ trương Đại thừa do Phật thuyết, và bàn về sự phát tâm tu hành “Đệ nhất nghĩa tướng” của Đại thừa. “Thập Địa Kinh Luận” giải thích về phẩm Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm và bàn về lý “Chân như duyên khởi”. “Trung Biên Phân Biệt Luận” nói về thuyết “Trung đạo” và lý “Tâm tính bản tịnh”, Tứ đế, Bát chánh đạo v.v... “Hiển Dương Thánh Giáo Luận” bàn về yếu lĩnh của “Du Già Sư Địa Luận” và giáo nghĩa của Du-già, Duy thức. “Nhiếp Đại Thừa Luận”, bộ luận y cứ của Nhiếp Luận Tôn và Pháp Tướng Tôn, lý luận về giáo nghĩa của Đại thừa hơn Tiểu thừa, vì có mười “Thắng tướng”. Trong mười Thắng tướng, ba tướng đầu bàn về A-lại-da thức, 3 tính và Duy thức quán, bảy tướng sau nói rõ phép thực tiễn tu hành và chứng quả. Thuyết trung tâm của bộ luận này là “A-lại-da duyên khởi”. “Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận” bàn về các pháp như: Uẩn, xứ, giới, chủng tử, tứ đế, thắng nghĩa ngã. “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận” giải thích ý nghĩa kinh “Kim Cương”. “Thuận Trung Luận” giải thích nghĩa Trung Luận của ngài Long Thọ.

---o0o---


II. LƯỢC TRUYỆN VÀ TRƯỚC TÁC CỦA NGÀI THẾ THÂN


Ngài Thế Thân (Vasubandhu) sinh sau ngài Vô Trước ước 20 năm, ở cuối thế kỷ thứ IV TL. Ngài đi xuất gia, lúc đầu theo học hệ thống Hữu bộ, sau tới nước Kasmìra (Ca Thấp Di La) học giáo nghĩa của Đại Tỳ Ba Sa Luận, rồi ngài trở về bản quốc là nước Gandhàra thuộc Bắc Ấn soạn ra bộ “Câu Xá Luận”. Nội dung của bộ luận này như thiên trước đã thuật, là một bộ luận tổng hợp giáo nghĩa của Hữu bộ. Lúc đầu, ngài hết sức hoằng dương giáo lý Tiểu thừa, nhưng sau nghe lời khuyên của anh là Vô Trước, nên ngài chuyển theo Đại thừa Phật giáo. Trước hết, ngài nghiên cứu và giải thích các trước tác phẩm của Vô Trước, sau ngài nghiên cứu các kinh điển của Đại thừa, rồi tự ngài lại trước tác nhiều bộ luận. Cuối cùng ngài nhập diệt ở nước Ayodhyà (A Du Đà), hưởng thọ 80 tuổi.

Phần trước tác của ngài, cổ lai thường gọi ngài là bậc Luận chủ của ngàn bộ luận, nhưng những bộ đã được dịch sang chữ Hán chỉ có các bộ sau:

1. “A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận” (Abhidharma kosa sàstra), 20 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

2. “A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Bản Tụng”, 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

3. “Duy Thức Tam Thập Luận Tụng” (Vidyàmàtrasiddhi tridasa sàstra kàrikà), 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

4. “Duy Thức Nhị Thập Luận” (Vidyàmàtra vìmsati sàstra), 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

5. “Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận” (Mahàyànasatadharmavìdyàdvàra sàstra), 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

6. “Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận” (Mahàyànavaipulya Pancaskahdhaka sàstra), 1 quyển, ngài Huyền Trang dịch.

7. “Phật Tính Luận” (Buddhagotra sàstra), 4 quyển, ngài Chân Đế dịch.

8. “Nhiếp Đại Thừa Luận Thích” (Mahàyànasamparigraha sàstravyàkhyà), 15 quyển, ngài Chân Đế dịch.

9. “Thập Địa Kinh Luận” (Dasabhùmika sùtra sàstra), 12 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

10. “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá” (Saddharmapundarìca sùtra sàstopadesa), 2 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

11. “Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá” (Amitàyus sùtropadesa), 1 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

12. “Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá” (Dharmacakrapravatana sùtropadesa), 1 quyển, ngài Tỳ Mục Trí Tiên dịch.

13. “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận” (Vajnaprajnàyaramità sùtra sàstra), 3 quyển, ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch.

14. “Lục Môn Giáo Thọ Tập Định Luận”, 1 quyển, ngài Nghĩa Tịnh dịch.

Trong các bộ luận kể trên, “Câu Xá Luận” là bộ luận thuộc Tiểu thừa Phật giáo. “Tam Thập Tụng” và “Nhị Thập Luận”, hai bộ luận này bàn về yếu nghĩa của Duy thức, là những bộ luận y cứ của Pháp Tướng Tôn. “Bách Pháp Minh Môn Luận” thuyết minh và phân tích về chư pháp. “Ngũ Uẩn Luận” bàn về nghĩa ngũ uẩn để đối trị mọi tà chấp. “Phật Tính Luận” nói về thuyết “Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính”. Thuyết này y cứ ở kinh Niết Bàn nói ra. “Nhiếp Đại Thừa Luận Thích” giải thích về “Nhiếp Luận của ngài Vô Trước”. “Thập Địa Luận” chú thích bộ “Thập Địa Kinh Luận Bản Tụng” của ngài Di Lặc, bàn về lý “Chân như duyên khởi”. “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá”, phổ thông gọi là “Pháp Hoa Kinh Luận”, kinh này chia ra năm môn để giải thích về nghĩa lý kinh Pháp Hoa, bàn rõ tư tưởng Nhất thừa. “Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá”, phổ thông gọi là “Tịnh Độ Luận”, là một tác phẩm biểu hiện sự tín ngưỡng của ngài Thế Thân, và cũng là tư tưởng khởi nguyên của pháp môn tu Tịnh độ. “Chuyển Pháp Luân Kinh Ưu Ba Đề Xá” và Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận” đều y vào tên kinh đó mà giải thích. “Lục Môn Giáo Thọ Tập Định Luận” bàn về pháp thực tiễn tu hành.

Các tác phẩm kể trên của ngài Thế Thân, cũng như ngài Vô Trước và Long Thọ, đều là những trước tác bất hủ trong lịch sử giáo lý của Phật giáo.

---o0o---

III. GIÁO NGHĨA CỦA NGÀI VÔ TRƯỚC VÀ THẾ THÂN


Về giáo nghĩa đặc sắc của ngài Vô Trước là tư tưởng “A-lại-da duyên khởi luận”. Ngài là bậc đại học giả hưng long cho Đại thừa Phật giáo. Còn ngài Thế Thân, lúc đầu, ngài truyền bá Tiểu thừa Phật giáo, sau mới hưng long Đại thừa Phật giáo. Ngài trước tác rất nhiều bộ luận, nên tư tưởng của ngài thuộc nhiều phương diện, khó thể mà tổng hợp thành một thuyết đồng nhất. Tức là, lúc đầu ngài được truyền thừa tư tưởng của Hữu bộ, sau kế thừa tư tưởng “Đại thừa A-lại-da duyên khởi” của ngài Vô Trước. Ngài lại nói ra các thuyết như: “Chân Như Duyên Khởi”, “Thực Tướng Luận” và “Tịnh Độ giáo” v.v... Khi còn hưng long tư tưởng Tiểu thừa, ngài đã trước tác bộ “Câu Xá Luận”, hoàn thành cho giáo nghĩa của Hữu bộ; khi ở địa hạt Đại thừa thì ngài trước tác các bộ luận để hoàn thành giáo nghĩa Duy thức Phật giáo.

Ngoài ra, những đặc sắc của ngài cũng đi song song với ngài Long Thọ. Nghĩa là, ngài Long Thọ là bậc hưng long Đại thừa Phật giáo ở thời đầu, thì ngài Thế Thân là bậc hưng long Đại thừa Phật giáo ở thời giữa. Ngài Long Thọ hưng long Đại thừa Phật giáo ở Nam Ấn, thì ngài Thế Thân ở Bắc Ấn. Ngài Long Thọ kế thừa về giáo lý của Đại Chúng bộ, thì ngài kế thừa giáo lý của hệ thống Thượng Tọa bộ. Ngài Long Thọ khởi xướng ra thuyết “Chư Pháp Thực Tướng Luận” thuộc tư tưởng “Không”, ngài Thế Thân khởi xướng ra tư tưởng “Chư pháp duyên khởi luận” thuộc tư tưởng “Hữu. Ngài Long Thọ phá tà hiển chính cực lực bài bác Tiểu thừa; ngài Thế Thân thì chủ trương tư tưởng bao dung.

Về giáo nghĩa của hai ngài Vô Trước, Thế Thân như trên đã thuật, nhưng về tư tưởng căn bản đồng nhất của hai ngài đó là thuyết “A-lại-da duyên khởi”. Tức là hết thảy mọi pháp ở trong thế gian đều không ngoài tâm thức của con người mà có, thuộc Duy tâm luận và cũng là thuyết “Vạn pháp duy thức luận”. Nhưng cái nguồn gốc năng hiện của mọi pháp lại là cái thức căn bản vẫn đầy đủ của con người, tức là “A-lại-da thức”. Vì vạn pháp đều y vào thức này mà xuất hiện, nên gọi là “A-lại-da duyên khởi”, gọi tắt là “Duyên khởi luận”. 

---o0o---




tải về 0.87 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương