Lê Huy Trứ, msee


Figure 4 Vũ trụ (Binary Information) 4 diện tích Planck



tải về 8.85 Mb.
trang7/33
Chuyển đổi dữ liệu25.10.2017
Kích8.85 Mb.
#33900
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   33
Figure 4 Vũ trụ (Binary Information) 4 diện tích Planck

Năm 1948 nhà toán học người Mỹ Claude E. Shannon đã đưa vào thông tin khái niệm Entropy (measure of unavailable energy.) Entropy thông tin trong một thông điệp là số bit cần thiết để mã hóa thông điệp đó (decode that information.) Khái niệm entropy của Shannon làm xích gần vật lý thống kê với thông tin.

John Archibald Wheeler quan niệm rằng, “thế giới vật lý được cấu tạo bằng thông tin mà năng lượng và vật chất chỉ là những yếu tố hiển thị, những sản phẩm phụ (incidentals.)”

Theo Bekenstein, “Entropy nhiệt động và entropy Shannon là tương đương, số cấu hình tính theo entropy Boltzmann (của nhiệt động) phán ánh số lượng thông tin Shannon mà chúng ta cần có để thu xếp một cấu hình” của vật chất và năng lượng.



Sự khác nhau giữa entropy nhiệt động học của vật lý và entropy thông tin của Shannon chỉ là vấn đề đơn vị đo. Entropy nhiệt động học tính bằng đơn vị năng lượng chia cho nhiệt độ trong khi entropy Shannon lại không có thứ nguyên, chỉ là “binary bit” của thông tin (information,) do đó sự khác nhau chỉ là vấn đề quy ước. Mà yếu tố quan trọng ở đây là thông tin.

Từ kỹ thuật đến sinh học, vật lý, thông tin (Information Technology) đóng vai trò quan trọng. Các protein không thể nào tổng hợp được nếu không có thông tin (information, data) từ DNA. Nguyên lý toàn ảnh khẳng định rằng entropy của một khối lượng bình thường (không phải blackhole) cũng tỷ lệ với diện tích chứ không phải thể tích (volume. ) Thể tích chỉ là ảo ảnh và vũ trụ thật sự là một hologram đẳng cấu (isomorphic) tức cấu tạo bằng những bit thông tin giống nhau, cùng một loại như nhau, cụ thể là 0 và 1, với thông tin được “ghi khắc” trên mặt biên. Ngược lại, từ thông tin ghi trên mặt biên này, chúng ta có thể tái tạo ra vũ trụ vạn vật, thế giới con người và những vật chất trên đời.

Vậy thì lý thuyết này rất hợp với kinh điển Phật giáo, nói rằng, “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Vạn pháp duy thức có nghĩa là toàn bộ vũ trụ vạn vật đều là thông tin, vô lượng thông tin được chứa trong A Lại Da Thức và chúng có thể phóng hiện thành thế giới.
      1. Quan Niệm Của Phật Giáo Về Vạn Vật Nhất Thể


Như điện như ảo có khả năng tạo ra vô vàn điều kỳ thú, mà sự ảo hóa đó xuất phát từ một siêu năng lực chung được gọi là tâm. Mọi cá thể chúng sinh có một cái tâm riêng gọi là tâm chấp ngã, chấp pháp, tâm đó phân biệt mọi thứ thành ra vạn vật. Từ vô ngã bùng nổ thành ngã; và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna. Phật pháp củng nói rằng tất cả mọi chúng sinh đều có chung một tâm mà Duy Thức Học gọi là A Lại Da Thức. Cái tâm riêng là vọng tưởng chấp ngã chấp pháp gọi là Mạt Na thức (Manas,) đó là tâm luân hồi sinh tử, của khổ đau, nó bé nhỏ như hạt lượng tử (quantum, god particle,) còn cái tâm chung của vạn vật mới đích thực là tâm như hư không vô sở hữu, to lớn như vũ trụ. Cứu cánh của Phật giáo là chứng được cái tâm này, gọi là giác ngộ, thiền Trung Hoa gọi là kiến tánh thành Phật, tâm này còn có nhiều danh hiệu khác như - Chánh Biến Tri, Như Lai, Phật Thế Tôn mà ngôn ngử con người muốn gọi thế nào đi nữa cũng chưa bao giờ diễn tả nổi hay chỉ thẳng được cái tự tánh của nó. Tâm ở đâu khó mà biết được vì tự tâm không ở, không đến, không đi, không bị chi phối giới hạng bởi không gian và thời gian vì vậy tốc độ ánh sáng hay trọng lực (gravity) cũng không ảnh hưởng tới nó được. Tâm không ở trong tim ta, không ở trong đầu óc ta, nó không phải của ta. Tự Tâm không “tâm viên, ý mã,” mà cái ngã nó tưởng là tâm mình không tịnh. Không thể tịnh cái đả tự nó đả luôn luôn tịnh. Không thể an cái an. Cho nên thiền sư nói, đưa tâm ngươi ra đây, ta sẻ an tâm cho.

Như vậy, vạn vật nhất thể của Phật giáo chính là Tâm, đây chính là lực tổng hợp duy nhất của 4 lực cơ bản của thế giới vật chất và rất nhiều lực vô hình của vô lượng nghiệp chướng trong Tam giới. Cái ý nghĩa vạn vật nhất thể được Phật Giáo gọi là bất nhị. Chính xác hơn, bất nhị (non-dualism) tức không phải là hai nhưng cũng không phải là một. Chúng ta thấy rằng photon chẳng phải là hạt (particle,) cũng chẳng phải là sóng (wave) có khi hữu tướng thể hiện là hạt khi được quan sát, có khi vô tướng thể hiện là sóng khi không quan sát. Cố xác định nó phải là cái gì thì cũng không đúng (tạm gọi, God particles.) Vật chất (Sắc, matter) chẳng phải là có thật, mà cũng không hẳn là không có, không thể gò ép là có, là không được. Trong vật lý học, đây là nguyên lý bất khả định (Principle of Uncertainty) do Werner Heisenberg nêu ra năm 1927. Trong toán học, đây là định lý bất toàn (Incompteness Theorem) do Kurt Gödel nêu ra năm 1931. Nguyên lý bất định cũng có ý nghĩa trong Sinh Vật Tiến Hóa Luận, nó khiến cho thuyết sinh vật tiến hóa (Theory of Evolutions) của Darwin trở nên không vững chắc nhưng không có nghĩa là sai.
      1. Vũ Trụ Có Mấy Chiều?


Máy hình vi tính hoặc thiết bị nghe nhìn là không gian 3 chiều (mặt phẳng hai chiều và thời gian) của các loại video, TV, phim truyện. Còn cuộc sống trên đời của chúng ta bị giới hạn trong 4 chiều (3 chiều không gian và 1 chiều thời gian.) Tất cả chỉ là một thế giới ảo, như mộng như huyễn, mà chúng sinh đang mộng du (day dreaming.) Ngay vũ trụ cũng là ảo ảnh (holography,) và trong thế giới Strings có tới 10 chiều (9 chiều không gian và 1 chiều thời gian, mà gravity cũng không hiện hữu. In 1997, theoretical physicist Juan Maldacena proposed that an audacious model of the Universe in which gravity arises from infinitesimally thin, vibrating strings could be reinterpreted in terms of well-established physics. The mathematically intricate world of strings, which exist in nine dimensions of space plus one of time, would be merely a hologram: the real action would play out in a simpler, flatter cosmos where there is no gravity.

Toàn bộ vũ trụ có thể qui về lượng tử, đó là một thể đồng nhất mà các nhà khoa học nhìn nhận. Nhưng đối với Phật giáo, lượng tử chưa phải là rốt ráo, chưa phải là bất nhị, lượng tử chỉ mới là vô thủy vô minh mà thôi, còn cái tâm niệm của con người là nhất niệm vô minh. Chính nhất niệm vô minh phối hợp với vô thủy vô minh thành cái mà chúng ta gọi là vũ trụ vạn vật và cuộc sống thế gian. Cái sức mạnh chi phối lượng tử để tùy ý vẽ nên vũ trụ vạn vật mới thực là rốt ráo, đó chính là tâm bất nhị, là tâm giác ngộ, là Phật tánh, là cái nhất thể của vạn vật. Đức Phật A Di Đà đã điều khiển lượng tử để hình thành cõi giới Tây Phương Cực Lạc là một ví dụ cho thấy sức mạnh của tâm giác ngộ. Khi kiến được thế giới là ảo hóa và biết tâm có một sức mạnh không cùng. Hiện nay chưa có sức mạnh vật chất nào đủ sức phá vỡ hiện tượng giam hãm của hạt proton và hạt neutron, nhưng sức mạnh tâm linh của có thể biết và làm được những việc phi thường không thể tưởng tượng nổi mà khoa học chưa thể chứng minh được.

Nhà triết gia Hy Lạp Aristote quan niệm, vật lý bên ngoài là có thật. Vật chất (matter) thực tại đó tự nó tồn tại độc lập với chúng sinh. Trước khi có con người thì vũ trụ đả luôn hiện hữu. Aristote không nghỉ tới, vũ trụ hiện hữu có thật sau khi con người xuất hiện trên cỏi ta bà, biết suy tư, và kết luận, vật chất có thật. Hay nói theo Phật Giáo, vật chất tự tâm tạo ra. Mà vật chất có thật vì tâm nghỉ là thật, không tức thị sắc.

Newton, một thiên tài lỗi lạc, đã đưa “lực” (force) vào trong phép tính toán của ngành vật lý. Ông xem không gian và thời gian là hai yếu tố tuyệt đối, vật chất thì vận động trong không gian và thời gian. Vật chất đối với ông là vật chất có khối lượng. Thế giới quan của Newton hết sức đơn giản và dễ hiểu, được gọi là thế giới quan cơ giới. Trong thế kỷ thứ XVIII, XIX, những ngành học khác, như ánh sáng, nhiệt, thủy động học đều được quy vào mô hình đó: vật chất là những hạt nhỏ có khối lượng, có năng lượng, vận động trong không gian và thời gian. Người ta có thể tính toán sự vận động của vật thể mà không cần tới một thế lực siêu nhiên nào cả. Từ nhận thức này đã hình thành nên quyết định luận, tất cả vạn vật xuất hiện như nó phải là chứ không hề có một sự ngẫu nhiên gì trong đó.

Người bảo vệ quyết định luận nổi bật nhất là nhà toán học Laplace. Ông đã từng trã lời Đại Đế Napoleon, “Tôi không cần đến giả thuyết về Thượng đế [God, Dieu.] Chúng ta chỉ cần không gian, thời gian, vận tốc đầu…, chúng ta sẽ tính được tất cả.” Nền vật lý cơ giới của Newton đứng vững đến ba trăm năm cho đến thế kỷ thứ XIX, khi người ta bắt đầu phát hiện những hiện tượng về điện trường, từ trường, điện từ trường, phát hiện một sự vận động mới trong ngành vật lý. Ở đây ta thấy có một dạng vận động khác, không có vật có khối lượng di chuyển. Khi chúng ta thả một viên đá xuống mặt hồ, sau đó thấy những gợn sóng lăn tăn đi vào bờ hồ. Cái đi vào bờ hồ đó không phải là nước, mà nước chỉ nhích lên hạ xuống, cái chạy từ nơi thả viên đá đi vào bờ hồ là “sự quấy nhiễu,” là năng lượng quấy nhiễu. Tức là chủ thể đi vào bờ hồ không phải là nước mà là cái một cái vô hình vô ảnh, không có khối lượng. Đó là sự vận động theo dạng sóng (wave,) hoàn toàn khác với loại vận động theo dạng hạt (matter) của Newton.

Cuối thế kỷ thứ XIX, lý thuyết vận động của Newton không còn là dạng vận động duy nhất, bởi ngoài vận động hạt còn có một loại vận động khác, đó là vận động sóng. Nhưng cả hai mô hình về vận động này vẫn tồn tại song song, bổ sung nhau để giải thích các hiện tượng trong thế giới tự nhiên. Cùng lúc đó, khái niệm trường điện từ, một đơn vị độc lập, tự nó có sự ảnh hưởng chung quanh nó, khác với trọng trường của Newton. Đến lúc đó, người ta thấy vật chất không chỉ có dạng “hạt” mà còn có dạng “trường.” Từ trường và hạt là hai mô hình song hành, được thừa nhận trong ngành vật lý. Đó là những nét chính của vật lý cổ điển.

Đến đầu thế kỷ XX, có sự phát triển kỳ lạ trong vật lý với hai phát hiện lớn, đó là thuyết Tương Đối (Relativity) và thuyết Lượng Tử (Quantum Mechanics.) Với thuyết Tương Đối, Einstein xuất phát từ kết quả thực nghiệm là ánh sáng mặt trời di chuyển với vận tốc bất biến. Einstein đã nghiên cứu và khám phá ra rằng muốn trả lời hiện tượng đó thì phải từ bỏ tính chất tuyệt đối của không gian và thời gian. Sau đó ông tiến tới một lý thuyết cho rằng nội khối lượng của một vật nằm trong không gian cũng đã làm cho không gian và thời gian xung quanh nó cũng bị biến dạng, méo mó, ngắn dài không giống nhau. Không gian và thời gian đối với Newton là tuyệt đối, nhưng đối với Einstein thì không còn tuyệt đối nữa, nó là tương đối. Công thức nổi tiếng nhất của thuyết tương đối là mối liên hệ E=mc2, giữa khối lượng và năng lượng có một mối liên hệ hết sức vĩ đại bất ngờ.

Sau Einstein khoảng hơn hai mươi năm thôi, người ta lại khám phá ra những điều mà ngày nay người ta vẫn còn thảo luận hết sức căng thẳng, đó là thuyết lượng tử. Khoảng năm 1901, Max Planck khám phá ra nhiệt lượng tỏa ra từ một vật không liên tục. Nói chung thì sự xuất hiện của vật chất trong mức độ vi mô là phi liên tục. Mới nghe, điều này không có gì đặc biệt cả, nhưng với mô hình đó, người ta đi sâu nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử, nhân nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử (hạt cấu thành nguyên tử,) lúc đó người ta thấy nơi mà người ta cho là cơ cấu cuối cùng của vật chất đó rất kỳ dị. Đối với người quan sát, nó xuất hiện một cách rất ngẫu nhiên, khi có khi không, khi chỗ này khi chỗ khác.

Dĩ nhiên tính ngẫu nhiên này chỉ xuất hiện trong mức độ nhỏ nhất của vật chất. Heisenberg nói, cái thiên nhiên (nature) dường như xuất hiện theo cách chúng ta hỏi nó. Bởi vì khi thì nó xuất hiện theo dạng từng hạt nguyên tử (subatomic) lúc thì xuất hiện theo dạng sóng (wave,) về mô hình, hai dạng này không tương ứng với nhau. Nhưng nếu chúng ta mở một thí nghiệm khảo sát hạt thì nó có vai trò của hạt thật. Nhưng nếu chúng ta đo để xem vật chất có phải là sóng hay không thì nó cũng là sóng thật. Thiên nhiên là gì thì chưa biết, nhưng dường như nó trả lời theo cách mà chúng ta hỏi nó.

Hình như, ý thức con người có ảnh hưởng lên thiên nhiên – tâm ta (Phật gọi là Tâm, Bồ Tát gọi là Thức) tạo ra sự thật, we have created our own reality, và vũ trụ sẻ cho mình tất cả những gì mình muốn. Muốn là được! Vouloir c'est pouvoir! Nếu chúng ta ‘biết muốn.’ Dường như thực tại là cái gì đó “liên quan mật thiết” với ý thức, chúng có sự tác động lẩn nhau. Nhưng tác động như thế nào thì người ta chưa chứng nghiệm rỏ ràng được. Nếu thế thì trước thế kỷ XVIII, giới khoa học chưa biết tới nguyên tử thì không lẽ lúc đó không có nguyên tử? Phải chăng lúc chúng ta nghiên cứu cái gì, thấy cái gì thì cái đó mới là thực tại? Như vậy những điều mà mình khám phá nó chỉ là không nhưng tâm mình làm cho nó có?

Khoảng 150 năm về trước, triết gia Đức, Immanuel  Kant đã nêu lên một luận đề rất quan trọng. Ông cho rằng “thực tại tự nó” chúng ta đừng có hòng mà biết được nó. Cái mà ta thấy và kết luận là thực tại, trở thành hiện hữu thể theo ý thức và trình độ hiểu biết của chúng ta về nó. Phát biểu của Kant ban đầu chẳng được ai để ý, cho đến khi khoa học lượng tử (quantum mechanics) ra đời. Ông Weizsäcker, nhà vật lý học của Đức, mới nói rằng, chúng ta không thể hiểu vật lý học lượng tử nếu trước đó chúng ta không đọc Kant. Có thể nói Kant là người đưa đường dẫn lối để chúng ta hiểu về thực tại được đề ra bởi vật lý lượng tử.

Vật lý học lượng tử thật là nhất quán và xuất sắc khi trả lời những biến cố có tính chất thống kê. Do đó các hệ thống điện từ vận hành đúng như con người tính toán và tiên đoán. Nhưng khi tìm hiểu sự vận hành của các đơn vị vật chất riêng lẻ, thì tính ngẫu nhiên trong vật lý lượng tử không thỏa mãn được lối suy nghiệm nhiều nhà vật lý. Do đó, Einstein mới phát biểu, nếu như vật lý học lượng tử cho rằng có một yếu tố về ngẫu nhiên thì không phải tự nó tình cờ mà ngẫu nhiên đâu. Thượng đế không thảy xúc xắc, mà tại vì có một cái gì đó chúng ta chưa sờ chạm đến được, tức là vật lý học lượng tử có một cái gì đó thiếu sót, không hoàn chỉnh mà chúng ta chưa giải thích được?

We don’t know don’t know! Thực tại tự nó, chúng ta không bao giờ biết rỏ được qua sự suy luận và hiểu biết giới hạn trong lý nhị nguyên và hữu thường của khoa học biện chứng. Khoa học không chứng minh được Phật Giáo mà ngược lại. Nơi nào khoa học dừng bướt, nơi đó Phật Giáo tiếp tục. Khoa học ngày nay mới gỏ cửa chân như nhưng vẫn chưa qua khỏi cổng vô tự quan của chân như. Khoa học đả thấy cái không, và sự thay hình đồi dạng của vật chất nhưng đa số những khoa học gia không thật sự ngộ (enlighten) được chữ không (emptiness of emptiness) và bất nhị (non-dualism) của Phật Giáo. Thấy vậy mà không phải vậy; nói vậy mà không như vậy; nghe vậy mà không phải vậy. Mà nó thực như vậy. Nói mà không nói, nghe mà không nghe, thấy mà không thấy. Như Thực Tri Kiến. Bất Khã Tư Nghi.
      1. Vũ Trụ Trong Vũ Trụ


Nhà khoa học nổi tiếng nhất hiện nay là Stephen Hawking cũng có bài thuyết trình nhan đề “Gödel & The End of Physics” (Gödel & Sự kết thúc của Vật lý.) Ý kiến chủ yếu của ông có thể được gói gọn trong tấm ảnh dưới đây.

Figure 5 Gödel & Sự kết thúc của Vật lý, Stephen Hawking



Stephen Hawking đả tái khám phá nhửng gì đả dạy trong kinh Duy Ma Cật của Phật Giáo Đại Thừa về vũ trụ trong hạt cải. “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ (The Universe in a Nutshell) là một trong những đầu sách do Stephen Hawking viết về chủ đề vật lý lý thuyết. Nó giải thích cho người đọc về nhiều vấn đề liên quan tới các nghiên cứu của các Giáo sư Toán học Lucas trong quá khứ, tỉ như Thuyết không đầy đủ của Gödel và màng P (một phần của thuyết siêu dây trong vật lý lượng tử.) Nó cũng mô tả về lịch sử hình thành và các nguyên lý của vật lý hiện đại. Ông dẫn dắt người đọc đến những sự kiện xảy ra đằng sau những most intellectual tales khi ông cố gắng ‘kết hợp thuyết tương đối rộng của Einstein và các ý tưởng của Richard Feynman về đa lịch sử thành một thuyết thống nhất hoàn chỉnh mô tả mọi thứ xảy ra trong vũ trụ.’ Stephen Hawking đã mô tã quá trình tìm hiểu tính chất của vũ trụ rộng lớn bằng khái niệm lịch sử của vũ trụ trong thời gian ảo diễn ra như thế nào. Cái vũ trụ trong thời gian ảo đó là một hình cầu nhỏ bé và hơi bẹt, nó giống như cái vỏ hạt của Hamlet, tuy nhiên, cái hạt này lại giải mã được tất cả mọi thứ xảy ra trong thời gian thực. Do vậy, Hamlet có thể đúng. “Ta có thể tôi bị giam trong một vỏ hạt. Và tự coi mình là hoàng đế của khoảng không vô tận...” (nguyên văn: I could be bounded in a nutshell. And count myself a king of infinitive space...) Shakespeare, Hamlet, hồi 2, cảnh 2. ‘Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ’ là tác phẩm đạt Giải Aventis dành cho Sách Khoa học năm 2002 và đã bán được hơn 10 triệu ấn bản trên thế giới. Nó thường được xem là phần tiếp theo của tác phẩm nổi tiếng Lược Sử Thời Gian (A Brief History of Time) được ấn hành năm 1988.” (Wikipedia)

Lời thơ dưới đây của William Blake đượm màu thiền ngôn của kinh điển Phật Giáo với khái quát thực tại hiện hữu, trân quý trước cái đẹp của vô lượng vũ trụ. Nhưng tất cả đều là mong manh, nhỏ bé như hạt cải, vô thường trong một sátna.

Để thấy Thế giới trong một Hạt cát

Và Thiên đường trong một Đóa hoa dại,

Hãy giữ Vô lượng trong lòng tay

Và Thiên thu trong một tiếng đồng hồ.
(To see the world in a Grain of Sand

And a Heaven in a Wild Flower

Hold Infinity in the palm of your hand

And eternity in an hour.)

*

William Blake (British Poet, 1757-1827)

Trong bài Nằm Trong Hạt Cải, Nhật Chiêu viết, “Càn khôn có thể cầm nắm, nhật nguyệt có thể thu nhỏ. Đời sống vũ trụ có thể mang theo bên mình trên bước đường vân du như một hành trang nhỏ nho và rất nhẹ. Và ta cảm thấy càn khôn, nhật nguyệt nở rộ quanh ta như hoa cỏ trên đồng. Và chân lông, tơ tóc của ta rung động với thế giới, với mười phương...”

Tương tự, ở Việt Nam, vào thời Lý, thiền sư Khánh Hỷ (1067-1142,) người huyện Long Biên, thụ giới nơi thiền sư Bản Tịnh ở chùa Chúc Thánh. Ông được vua Lý Thần Tông phong làm Tăng thống. Bài thơ tinh diệu của Thiền sư Khánh Hỷ (ý nghĩa vui mừng) ngát lừng giác ngộ làm ta cảm thấy vũ trụ, càn khôn, nhật nguyệt nở rộ trong ta. Từ mỗi chân lông trong mỗi tế bào của chúng ta cùng rung động cùng một tần sóng với mười phương thế giới, và với vũ trụ vô biên nhìn trong hạt cải và đầu sợi lông cả một vũ trụ huy hoàng, tạm chuyển ngữ:

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải,

Càn khôn náu tại đầu lông.

Ai hay phàm thánh, tây đông?

Hiện ra đại dụng trong lòng bàn tay.

Nguyên ý như sau:

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ

Thùy tri phàm thánh dữ tây đông.

Dịch sát nghĩa: Cả càn khôn ở trên đầu một sợi lông. Cả nhật nguyệt chứa trong lòng hạt cải. Đại dụng hiện trước mắt như nắm tay ở tại cánh tay. Ai biết được đâu phàm thánh cùng với tây đông?

Trong kinh Duy Ma Cật, phẩm Bất Tư Nghì có đoạn, “Lấy núi Tu Di bỏ vào trong hạt cải, lấy nước bốn biển đổ vào chân lông.” Đây là công án mà cho đến ngày nay củng ít người ngộ được ý kinh. Chính vì thế mà Thứ sử Giang Châu là Lý Bột đời Đường, đọc sách nhiều đến nỗi được gọi là Lý Vạn Quyển, lên Lô Sơn tham vấn Hòa thượng Qui Tôn,“Kinh nói hạt cải chứa núi Tu Di là sao?” Hòa thượng hỏi lại,“Thế thì vạn quyển sách chứa trong đầu ông thế nào?” Lý Bột nghe thế bỗng dưng đại ngộ.

Cho nên, hạt cải, hạt dẻ, nguyên tử chứa nhật nguyệt hay chứa núi Tu Di hay ngay cả vũ trụ thì cũng tựa như tâm hồn ta chứa vô vàn thanh sắc của đời sống.

Toàn văn bài thơ của Khánh Hỷ là lời đáp cho câu hỏi về sắc không của đệ tử Pháp Dung, ghi lại trong Thiền uyển tập anh.

Một hôm, Pháp Dung hỏi: “Thấu đạt được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?”.

Sư ứng khẩu đọc bài kệ:

Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không

Học đạo vô như phỏng tổ tông

Thiên ngoại mịch tâm nan định thể

Nhân gian thực quế khởi thành tùng

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ

Thùy tri phàm thánh dữ tây đông?

Chuyển ngữ toàn thể bài thơ:

Không sắc hỏi chi cho mệt

Đạo à? Tìm đến nguồn tông.

Ngoài trời tìm được tâm không?

Cũng như hương quế không trồng cõi nhơ.

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải

Càn khôn náu tại đầu lông.

Ai hay phàm thánh tây đông?

Hiện ra đại dụng trong lòng bàn tay.

*

Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, Đại dụng hiện ra huy hoàng trước mắt và có thể nắm trong nắm tay này. Đại dụng là cái huyền diệu của vô tận. Nhà thơ Blake nói, “Nắm vô tận trong lòng bàn tay” thì chẳng khác nào Khánh Hỷ thiền sư bảo, “Hiện ra đại dụng trong lòng bàn tay.” Bàn tay nắm lấy đại dụng cũng như nắm lấy mọi thứ có thể, cũng như buông bỏ mọi cái có thể. Vì một nắm tay không thể nắm giữ mãi. Đại dụng hay đại đạo luôn luôn hiện ra trước mắt. Bích Nham Lục còn ghi lời cổ nhân, “Tất cả càn khôn đại địa chỉ là cái chính mình.” Chúng ta sống với cái hiện tiền của đại đạo từng ngày, từng giờ và từng sát na. Thấy hay thấy không là chuyện của ta. (Trích từ Nằm trong hạt cải, Nhật Chiêu)

Đến đây thì chúng ta nhận thấy tinh túy của Kinh Hoa NghiêmBát NBa La Mật Đa Tâm Kinh của Phật Giáo đã hoàn toàn sáng tỏ:

舍利子,色不異空、空不異色、色即是空、空即是色, 受想行識,亦復如是

XÁ LỢI TỬ ! SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, DIỆC PHỤC NHƯ THỊ:

Vật chất không khác cái không, cái không không khác vật chất, vật chất tức là không, không tức là vật chất. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng tương tự như vậy.  

舍利子,是諸法空相,不生不滅、不垢不淨、不增不減。 是故空中無色、無受想行識、無眼耳鼻舌身意、無色聲香味觸法、 無眼界、乃至無意識界

XÁ LỢI TỬ! THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT, BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, VÔ NHÃN, NHĨ, TỶ, THIỆT, THÂN, Ý, VÔ SẮC THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP, VÔ NHÃN GIỚI NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI:

Này Xá Lợi Phất! các pháp đều là hiển thị của tánh không: không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm; như vậy trong tánh không, không có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có thế giới của hình tướng, màu sắc (nhãn giới) cho đến không có thế giới của tư tưởng ý thức (ý thức giới.)

Theo lời tựa của Hòa Thượng Thích Đức Niệm ở đầu mỗi cuốn trong bộ kinh Hoa Nghiêm do Thích Trí Tịnh dịch, "Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh Đại Thừa, là vua trong các Kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện Pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện của Phật.

Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt, hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau rối ren trong lưới đế châu. Tâm chơn thì pháp giới tánh với tâm là một, vạn vật đồng nhất thể. Trong Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng dưới nước. Đó là tư tưởng của Kinh Hoa Nghiêm: Tất cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ vạn pháp. Thể tánh của tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất cả."

Vài lời trên đã tóm tắt phần nào những tinh túy của Kinh Hoa Nghiêm. Thật vậy, chúng ta hãy đọc đoạn sau đây trong Phẩm Nhập Pháp Giới, lời của nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài đồng tử, "Này Thiện Nam Tử!..Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, những sự an trụ, trang nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh tịnh.

Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thường thấy vô biên phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.

Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát thấy vô biên chúng sanh hải: những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh...."

Câu kệ của Đức Phật:

Thấy trong một nguyên tử

Và trong mỗi nguyên tử

Toàn thể thế gian

Đó là điều bất khả tư nghì.


    1. tải về 8.85 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương