ĐIỀu chỉnh cơ CẤu kinh tế nhật bản trong bối cảnh toàn cầu hóa nhà xuất bản khoa học xã HỘI



tải về 1.9 Mb.
trang21/30
Chuyển đổi dữ liệu16.11.2017
Kích1.9 Mb.
#34383
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30

II. KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN


Như chúng ta đã biết, một trong những nguyên nhân buộc Nhật Bản phải điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế là do sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng trong những năm 1990 của thế kỷ trước. Trong suốt thập niên 1990 qua, các khoản nợ khó đòi của các tổ chức tài chính ngày càng phình lên, mà người phải gánh chịu hậu quả trực tiếp là các doanh nghiệp tư nhân, những người kinh doanh dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng và của các tổ chức tài chính. Việc cải cách cơ cấu của các công ty tư nhân nói riêng và các công ty nói chung đã và đang trở thành một yêu cầu bức thiết đối với chính phủ cũng như đối với bản thân từng công ty. Ngoài các giải pháp cải cách cơ cấu của chính phủ đối với các công ty nói chung như khuyến khích và hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty mới hình thành kinh doanh có hiệu quả, nới lỏng một số quy chế đối với các công ty này; khuyến khích các công ty chuyển từ chế độ thuê mướn suốt đời và tuyển dụng theo thâm niên sang chế độ tuyển dụng theo năng suất, hiệu quả công việc hỗ trợ các công ty đơn giản hoá cơ cấu tổ chức của mình; tạo ra sự lưu động trên thị trường lao động; cải cách chế độ thuế đối với các công ty vừa và nhỏ; hỗ trợ các công ty tiến hành thông tin hoá và tạo sự liên kết giữa sản xuất và nghiên cứu... thì bản thân các công ty tư nhân cũng phải tự tìm ra các giải pháp để đơn giản hoá cơ cấu, nâng cao hiệu quả trong quản lý và trong hoạt động kinh doanh.

1. Nguyên nhân của cải cách và điều chỉnh cơ cấu của các công ty tư nhân


Bối cảnh chung của một nền kinh tế đang suy thoái với tốc độ tăng trưởng chậm đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh các công ty, đặc biệt là đối với công ty tư nhân. Song có thể dễ dàng nhận thấy 4 nguyên nhân chủ yếu sau đã thúc ép các công ty phải tiến hành cải cách và điều chỉnh cơ cấu của mình.

a- Hiệu quả kinh doanh suy giảm và năng lực cạnh tranh suy yếu.

Như chúng ta đã biết, nguyên nhân sâu xa của cải cách cơ cấu đầu những năm 1990 là do sự dư thừa về đầu tư trang thiết bị và thuê mướn. Nhưng vào cuối những năm 1990, trong bối cảnh chung của nền kinh tế đang suy thoái thì cải cách cơ cấu không chỉ còn nghĩa là cắt giảm chi phí cố định như giảm đầu tư, giảm tuyển dụng mà còn có nghĩa là “sắp xếp tổ chức lại” các nguồn lực kinh doanh của công ty, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.



b. Áp lực của thị trường vốn.

Nếu trước đây, các công ty có thể dễ dàng vay vốn dài hạn hoặc ngắn hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng thì nay, do sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng chính “main bank”, do sự giao động của hệ thống ngân hàng bởi sự phá sản của một số ngân hàng và tổ chức tín dụng thì các công ty buộc phải chú trọng hơn vào thị trường vốn được huy động từ các cổ đông và các nhà đầu tư của thị trường chứng khoán. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài được coi trọng hơn với tư cách là những nhà đầu tư chính của thị trường vốn và có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành giá cả cổ phiếu trên thị trường. Các chỉ số về hiệu quả của đồng vốn đầu tư như ROA, EVA1 được các công ty coi như thước đo hiệu quả kinh doanh của mình.



c. Sự thay đổi một số luật lệ và chế độ kế toán.

Chủ trương công khai hoá thông tin và đưa chế độ kế toán đạt tới chuẩn mực quốc tế của chính phủ đã buộc các công ty phải thay đổi hệ thống kế toán của mình cho phù hợp như chuyển từ “chế độ kế toán đơn lẻ” sang “chế độ kế toán tập trung”, áp dụng rộng rãi chế độ chuyển giao cổ phần và chuyển đổi cổ phần...



d. Ảnh hưởng của cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin.

Công nghệ thông tin phát triển không chỉ làm tăng hiệu quả thông tin nội bộ mà còn làm tăng khả năng thông tin giữa các công ty. Điều này vừa góp phần làm giảm chi phí thông lin liên lạc, vừa rút ngắn thời gian và làm tăng khả năng tiếp cận thị trường của các công ty.


2. Các giai đoạn và hình thức


Theo tạp chí “Thống kê kinh tế hàng tháng” của Ngân hàng Nhật Bản, cho đến năm 2000, các công ty đã, đang và sẽ tiến hành cải cách cơ cấu theo các hình thức và giai đoạn được thể hiện trong biểu đồ 1.

a. Theo hình thức thu hẹp quy mô của công ty.

Quá trình này được tiến hành thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 là xoá bỏ tài sản nợ khó đòi, giai đoạn 2 tiến hành giảm nhân công và chi phí cố định. Qua biểu đồ 1 có thể nhận thấy tất cả các công ty trong các ngành chế tạo và phi chế tạo đã hầu như hoàn thành quá trình này.



b. Theo hình thức tổ chức cơ cấu lại nội bộ công ty.

Quá trình này cũng được tiến hành thành 2 giai đoạn (xem biểu đồ 1). Giai đoạn 1 tiến hành xoá bỏ và tổ chức lại những bộ phận hoạt động kém hiệu quả. Ở giai đoạn này, các ngành chế tạo, bán lẻ và thương mại đã hoàn thành quá trình này. Giai đoạn 2 bao gồm việc mở rộng và xây dựng lại chiến lược hoạt động kinh doanh mới. Cho đến năm 2000 các ngành cung cấp nguyên liệu, các ngành điện máy và ngành thương mại đã hoàn thành hoặc hoàn thành 1 phần quá trình này. Qua kết quả “Báo cáo điều tra về hoạt động của công ty năm 1999” do Cục Kinh tế kế hoạch tiến hành đối với các công ty có vốn trên 10 tỷ yên, ta thấy trong vòng 5 năm trở lại đây, có khoảng 45% số công ty đã kết hợp một số bộ phận kinh doanh trong công ty, và gần 40% đã tiến hành sắp xếp lại các bộ phận kinh doanh trong công ty. Và trong vòng 5 năm tới, số công ty sẽ hình thành công ty con từ một số bộ phận kinh doanh sẽ tăng từ khoảng 17% lên gần 35%, và số công ty sẽ tiến hành kết hợp một số hoạt động kinh doanh với công ty sẽ tăng từ 9% lên gần 25%. Một điểm dễ nhận thấy nữa là số công ty sẽ bán lại một phần cho công ty khác cũng sẽ tăng đáng kể trong 5 năm tới, từ 22% lên 32%.



c Theo hình thức cơ cấu tổ chức lại.

Quá trình này cũng bao gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 tiến hành liên kết với các công ty khác về vốn và nghiên cứu phát triển. Các ngành cung cấp nguyên liệu, ngành công nghiệp ô tô, các ngành điện máy và các công ty Front Runner1 đã hầu như hoàn thành quá trình này, ngành sắt thép sẽ tiến hành quá trình này vào thời gian tới. Riêng các ngành phi chế tạo không thấy dấu hiệu nào của quá trình cải cách này. Giai đoạn 2 bao gồm việc kết hợp hoạt động kinh doanh với các công ty khác để cùng nhau sản xuất hoặc tiêu thụ cùng một loại sản phẩm. Và giai đoạn cuối cùng, giai đoạn 3 sẽ tiến hành giảm bớt trạng thiết bị, thay thế người máy ở hầu hết các khâu sản xuất. Ngành công nghiệp ô tô đã hầu như hoàn thành quá trình này. Ngành sắt thép và các ngành cung cấp nguyện liệu đang nghiên cứu tiến hành quá trình này trong những năm tới (xem biểu đồ 1). Cũng qua kết quả “Báo cáo điều tra về hoạt động của công ty 1999” do Cục Kinh tế kế hoạch tiến hành đổi với các công ty có vốn trên 10 tỷ yên như nếu ở biểu đồ 3, ta thấy trong vòng 5 năm trở lại đây, hơn 55% số công ty đã thành lập công ty con và hơn 50% số công ty đã thành lập bộ phận kinh doanh mới trong công ty. Một điểm dễ nhận thấy nữa là số công ty sẽ liên kết hoạt động với công ty khác sẽ tăng nhanh từ 31% lên 50%; và số công ty sẽ mở rộng đối tượng được phép mua bán cổ phiếu của công ty trên thị trường sẽ tăng từ 20% lên trên 35%. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các công ty sẽ đẩy mạnh quá trình cải cách và tổ chức lại trong thời gian tới.



Biểu đồ 1: Tình hình cải cách cơ cấu của các công ty/doanh nghiệp

Giai đoạn

Ngành chế tạo

Front Runner*

Ngành phi chế tạo

Sắt thép

Các ngành cung cấp nguyên liệu

Công nghiệp ô tô

Các ngành điện máy

Bán lẻ

Công ty kinh doanh tổng hợp

Thương mại

Theo hình thức thu hẹp quy mô

Giai đoạn 1

Xử lý tải sản nợ khó đòi

























Giai đoạn 2

Giảm nhân công, chi phí cố định

























Theo hình thức tổ chức cơ cấu lại nội bộ công ty

Giai đoạn 1

Xóa bỏ, tổ chức lại những bộ phận hoạt động kém hiệu quả

























Giai đoạn 2

Mở rộng, xây dựng lại chiến lược và hoạt động kinh doanh mới

























Theo hình thức tổ chức lại

Giai đoạn 1

Liên kết các công ty khác (về vốn, R&D)

























Giai đoạn 2

Kết hợp hoạt động kinh doanh với các công ty khác (cùng sản xuất, cùng tiêu thụ)

























Giai đoạn 3

Giảm trang thiết bị



























Chú giải:





Cho đến năm 2000 đã hầu như hoàn thành cải cách cơ cấu




Cho đến năm 2000 đã hầu như hoàn thành hoặc hoàn thành một phần cải cách cơ cấu…




Sẽ tiến hành cải cách cơ cấu vào kỳ tiếp theo (năm 2001)




Chưa thấy có dấu hiệu của cải cách cơ cấu

* Front Runner: Các doanh nghiệp có thành tích kinh doanh tốt và đang tiến hành cải cách cơ cấu theo kiểu phương Tây.

(Ví dụ như đồ điện gia dụng, sản xuất bột giặt, dược phẩm…)



Каталог: uploaded -> 2011
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo viện nghiên cứu phát triểN giáo dụC
2011 -> TÌnh hình và xu thế phát triển giáo dụC ĐẠi họC Ở MỘt số NƯỚc thuộc khu vực châU Á thái bình dưƠNG
2011 -> LUẬt pháp về biển và VÙNG biểN
2011 -> VĂn phòng quốc hộI
2011 -> Nghị quyết số 9-nq/tw ngàY 02 tháng năM 2005
2011 -> MỘt số quy đỊnh của bộ luật tố TỤng hình sự VỀ hoạT ĐỘng đIỀu tra và truy tố ĐỐi với ngưỜi chưa thành niên phạm tộI
2011 -> Nguyên tắc lập luận hợp lý VÀ nguyên tắc VI phạm mặc nhiên trong pháp luật cạnh tranh giới thiệu chung

tải về 1.9 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   30




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương