I. CƠ SỞ LÍ luậN



tải về 428.52 Kb.
trang4/5
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích428.52 Kb.
#28730
1   2   3   4   5

4.3 Vấn đề ô nhiễm không khí:

Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhin xa do bụi.

Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cá thế giới chứ không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Hàng năm có: 20 tỉ tấn cacbon điôxít, 1,53 triệu tấn SiO2, Hơn 1 triệu tấn niken, 700 triệu tấn bụi, 1,5 triệu tấn asen, 900 tấn coban, 600.000 tấn kẽm (Zn), hơi thuỷ ngân (Hg), hơi chì (Pb) và các chất độc hại khác.

Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và các cánh đồng.

Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO2, NOX, CH4, CFC đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng nhà kính là CO2, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH4 là 13%, ozon tầng đối lưu là 7%, nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%...

Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có nhiều khả năng lượng CO2 sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60°C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30°C.

Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất tăng 0,40°C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ tăng thêm 1,5 – 4,50°C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.





* Trên thế giới

Sự phát triển công nghiệp và đời sống đô thị dựa trên “nền văn minh dầu mỏ” đang làm không khí bị ô nhiễm bởi các chất thải khí SO2, NO2, CO, hơi chì, mồ hóng, tro và các chất bụi lơ lửng khác sinh ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu hay các chất cháy khác…. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, hiện có tới 50% dân số thành thị trên thế giới sống trong môi trường không khí có mức khí SO2 vượt quá tiêu chuẩn và hơn 1 tỉ người đang sống trong môi trường có bụi than, bụi phấn vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Những năm gần đây, lượng khí thải ngày càng tăng lên (trong vòng 20 năm tới sẽ tăng gấp 15 lần so với hiện nay). Sự ô nhiễm không khí có thể trực tiếp giết chết hoặc hủy hoại sức khỏe các sinh vật sống, gây ra “hiệu ứng nhà kính” và các trận mưa a xít không biên giới làm biến dạng và suy thoái môi trường, hủy diệt hệ sinh thái.

Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp và du lịch và việc đổ bỏ các loại chất thải vào đất, biển, các thủy vực đã gây ô nhiễm môi trường ở quy mô ngày càng rộng, đặc biệt là các khu đô thị.Nhiều vấn đề môi trường tác động tương tác với nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao.Ô nhiễm không khí, chất thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nước đang biến những khu vực này thành điểm nông về môi trường.

Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đô thị phát triển tăng nhanh hơn mức tăng dân số. Châu Phi là vùng có mức độ đô thị hóa kém nhất, nay đã có mức đô thị hóa tăng hơn 4%/năm soi vowismuwcs tăng dân số là 3%, số đô thị lớn ngày càng tăng hơn.Đàu thế kỉ XX có 11 đô thị hóa loại 1triệu dân, phần lớn tập trung ở Châu Âu và Bắc Mĩ. Nhưng đến cuối thế kỉ có khoảng 24 đô thị với số dân trên 24 triệu người.

Năm 1950, có 3 trong số 10 thành phố lớn nhất thế giới là ở các nước đang phát triển như Thượng Hải (Trung Quốc), Buenos Aires (Achentina) và Calcuta (Ấn Độ). Năm 1990, có 7 thành phố lớn nhất ở các nước đang phát triển. Năm 1995 và năm 2000 đã tăng lên 17 siêu đô thị.

Hiện nay trên thế giới, nhiều vùng đất đã được xác định là bị ô nhiễm. Ví dụ, ở Anh đã chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô nhiễm, tuy nhiên trên thực tế có tới 50.000, 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000 ha (Briges, 1991), còn ở Mĩ có khoảng 25.000 vùng, ở Hà Lan là 6.000 vùng đất bị ô nhiễm cầ phải xử lý.



* Tại Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay có 621 thành phố và thị trấn, chỉ có 2 thành phố trên 1 triệu dân (Hà Nội khoảng 2,2 triệu người kể cả ngoại thành; thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 4 triệu người với 1/4 là ngoại thành) và 2 thành phố với số dân từ 350.000 đến 1 triệu dân, tronh vòng 15 năm tới nếu không có sư quy hoạch đô thị hơp lý thì có khả năng thành phố Hồ Chí Minh và cả Hà Nội đều trở thành siêu đô thị tất cả những vấn đề về Môi trường rất phức tạp, đặc biệt là về mật độ dân cư.

Đặc biệt, lượng nước ngọt khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính con người làm tổn thương, một số nguồn nước bị nhiễm bẩn nặng đến mức không còn khả năng hoàn nguyên. Hiện nay đại dương đang biến thành nơi chứa rác khổng lồ của con người, nơi chứa đựng đủ các loại chất thải của nền văn minh kĩ thuật, kể cả chất thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang làm xuống cấp các khu vực ven biển trên toàn thế giới, gây hủy hoại các hệ sinh thái như đất ngập nước, rừng ngập mặn và các dải san hô.

* Tác hại của ô nhiễm không khí

Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm vùng họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây ung thư. Dầu tràn có thể gây ngứa rộp da. Ô nhiễm tiếng ồn gây điếc, cao huyết áp, trầm cảm, và bệnh mất ngủ.

Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là "kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng, không còn làm tròn trách nhiệm của một tấm lá chắn bảo vệ mặt đất khỏi bức xạ tia cực tím, làm cho lượng bức xạ tia cực tím tăng lên, gây hậu quả xấu cho sức khoẻ của con người và các sinh vật sống trên mặt đất.

* Biện pháp

Do sức ép đô thị hóa ngày càng tăng; công nghiệp phát triển sinh ra nhiều khí thải, chất thải rắn, rác thải độc hại; ý thức bảo vệ môi trường của người dân còn kém ; chính sách luật lệ về bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo thiếu đồng bộ; thiếu các biện pháp mạnh về giáo dục, kinh tế. Để giảm bớt phần nào các thách thức của môi trường, đứng ở góc độ quản lý nhà nước và trong phạm vị nước ta, Nhà nước có thể có các biện pháp sau

- Tích cực tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế quan trọng về môi trường như công ước luật biển, công ước bảo vệ tầng ôzôn, công ước RAMSAR.

- Xây dựng chiến lược lâu dài bảo vệ môi trường như chiến lược sử dụng nước ngầm. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm tài nguyên không tái tạo. Quản lý thống nhất phát triển dân số và tiêu dùng tài nguyên. Giảm bớt tiêu dùng quá mức và lãng phí tài nguyên.

- Thành lập các ban bảo vệ môi trường trung ương để phối, kết hợp hài hòa giữa các địa phương trong việc bảo vệ môi trường như Ban quản lý lưu vực sông.

- Điều tra nguồn tài nguyên quốc gia, xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch về huy động các nguồn tài nguyên khai thác.

- Dự báo và phòng tránh các thiệt hại do môi trường gây ra như dự báo bão.

Nhân ngày Môi trường Thế giới, Tổng thư ký LHQ, Kophi Annan, kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và chính quyền địa phương hãy chấp nhận thách thức môi trường đô thị. "Hãy tạo ra các 'thành phố xanh' để con người có thể nuôi dưỡng con cái và thực hiện các ước mơ của mình trong một môi trường được quy hoạch hợp lý, sạch sẽ và trong lành". 

Tại San Francisco, Mỹ, sẽ là thành phố tổ chức Ngày Môi trường Thế giới năm nay, với một loạt sự kiện tập trung vào các vấn đề môi trường đô thị, như tái chế chất thải, năng lượng tái tạo, bảo tồn tài nguyên, đạo đức về môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Tại Việt Nam, ngày Môi trường thế giới sẽ được tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk).

5. Sự gia tăng dân số.

Con người là chủ của Trái Đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị của các điiều kiện kinh tế- xã hội và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên xung lượng gia tăng dân số hiện nay ở một số nước đi đôi với đói nghèo, suy thoái môi trường và tình hình kinh tế bất lợi đã gây ra xu hướng làm mất cân bằng nghiêm trọng giữa dân số và môi trường.

Dân số vẫn là nguyên nhân chủ yếu tác động đến sự suy thoái và tàn phá môi trường trong hiện tại và tương lai. Tác hại của môi trường đối với con người chủ yếu là những tổn thất về sức khỏe, nǎng suất lao động và các tác hại khác.

5.1 Trên thế giới

Đầu thế kỷ XIX, dân số thế giới mới có một tỷ người nhưng đến 1927 tăng lên 2 tỷ người; năm 1960: 3 tỷ; năm 1974: 4 tỷ; năm 1987: 5 tỷ và năm 1999 là 6 tỷ người, trong đó trên 1 tỷ người trong độ tuổi từ 15- 24 tuổi. Mỗi năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu người. Theo dự tính đến 2015, dân số thế giới sẽ ở mức 6,9- 7,4 tỷ người và đến 2025 dân số sẽ là 8 tỷ người và 2050 sẽ là 10,3 tỷ người. 95% dân số tăng thêm nằn ở các nước đang phát triển, do đó các nước này sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế - xã hội, đặc biệt là môi trường, sinh thái. Việc giải quyết những hậu quả do dân số tăng của những nước này có lẽ còn khó khăn hơn gấp nhiều lần những xung đột về chính trị trên thế giới.

Nhận thức được tầm quan trọng của sự gia tăng dân số trên thế giới, nhiều quốc gia đã phát triển chương trình Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), mức tăng trưởng dân số toàn cầu đã giảm từ 2% mỗi năm vào những năm trước 1980 xuống còn 1,7% và xu hướng này ngày càng thấp hơn.

Theo dự tính, sau 2050, dân số thế giới sẽ ngừng tăng và ổn định ở mức 10,3 tỷ. Tuy nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tạo cân bằng giữa dân số và khả năng của môi trường. Các nước chưa liên kết được Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) với quy hoạch phát triển, thì cũng chưa thể gắn vấn đề dân số với hành động về Môi trường. Một câu hỏi đặt ra là liệu tài nguyên thiên nhiên và các hệ sinh thái của Trái Đất của sự tác động thêm bởi những thành viên cuối cùng của loài người chúng ta hay không? Hơn nữa, điều gì sẽ xảy ra vào năm 2025, khi người thứ 8 tỷ của Trái Đất sẽ ra đời vào năm 2025? Nếu người thứ 8 tỷ simh ra tại một nước phát triển, ví dụ như ở nước Mĩ thì người đó đương nhiên thuộc vào dân số tầng lớp trên, ít nhất theo nghĩa là có nhà tốt, có nước sạch, có điều kiện vệ sinh và được hướng giáo dục, chăm sóc y tế thích đáng, có việc làm, có thời gian giải trí. Song người thứ 8 tỷ cũng góp phần tiêu thụ những tài nguyên kỷ lục. Hằng năm, 270 triệu người Mĩ sử dụng khoảng 10 tỷ tấn nguyên liệu, chiếm 30% trữ lượng của toàn hành tinh; 1 tỷ người giàu nhất thế giới, kể cả người châu Âu và người Nhật tiêu thụ 80% tài nguyên Trái Đất. Nếu người thứ 8 tỷ được sinh ra tại một nước đang phát triển, nơi tập trung 3/4 dân số của thế giới thì người đó chỉ có lâm vào cơ hội nghèo đói và thiếu thốn; 1/3 dân số thế giới(2 tỷ người) đang sống với khoảng 2USD/ ngày; một nữa số người trên Trái Đất có điều kiện vệ sinh kém; 1/4 không được sống với nước sạch; 1/3 sống trong những khu nhà ở không tiện nghi; 1/6 không biết chữ và 30% những người lao động không có được cơ hội có việc làm phù hợp; 5 tỷ người còn lại trên Trái Đất chỉ tiêu dùng vẻn vẹn 20% tài nguyên Trí Đất. Việc tăng những kỳ vọng và nhu cầu thiết yếu để cải thiện điều kiện sống trong những nước đang phát triển càng làm trầm trọng thêm sự tổn hại về Môi trường. Một người hằng năm tiêu thụ 37 tấn nhiên liệu, kim loại, khoáng chất, thực phẩm và lâm sản. Ngược lại, 1 người Ấn Độ trung bình tiêu thụ hằng năm ít hơn một tấn. Theo Liên Hợp Quốc, nếu toàn bộ dân số tren Trái Đất có cùng mức tiêu thụ trung bình như người Mĩ hoặc Tây Âu, thì cần phải có 3 Trái Đất để đáp ứng tài nguyên cần thiết. Rõ ràng, cần phải quan tâm hơn nữa tới sự tiến bộ của con người và công bằng xã hội và phải coi đây là nhưng nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn nhân lực và cải thiện môi trường. Mỗi quốc gia phải đảm bảo sự hài hòa giữa: dân số, hoàn cảnh, tài nguyên, trình độ phát triển, kinh tế- xã hội.






Dân số và tài nguyên rừng

Dân số gia tăng dẫn đến thu hẹp diện tích rừng do khai thác gỗ, phá rừng làm rẫy, mở đường giao thông, tàn phá hệ sinh thái....Rừng nhiệt đới đang bị tàn phá với mức khoảng 11 triệu ha mỗi năm, 10 triệu ha rừng khác. Phần lớn ở vùng nhiệt đới khô, sự suy giảm diện tích rừng cũng do việc chặt gỗ, thả trâu bò tràn lan hoặc trồng trọt làm kế sinh nhai. 80% rừng nhiệt dới bị phá hoại mới đây bắt nguồn từ việc gia tăng dân số, nguồn tài nguyên động thực vật cũng theo đó bị suy giảm. Rừng bị tàn phá khiến cho khoảng 26 tỷ tấn đất bề mặt bị rửa trôi hằng năm, thiên tai, lũ lụt xảy ra thường xuyên và khốc kiệt hơn.



5.2 Ở Việt Nam

Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế-xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội. Chúng ta cần điều chỉnh quy mô dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tài nguyên, môi trường, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý, tạo điều kiện để phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Trong thời gian qua,công tác dân số ở Việt Nam được tiến hành đồng bộ, có hiệu quả, kiềm chế được tỷ lệ gia tăng dân số quá nhanh. Kinh tế đất nước tăng trưởng ổn định,  chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế từng bước được cải thiện. Số con trung bình của một phụ nữ trong tuổi sinh đã giảm rõ rệt, từ 3,5 con năm 1992 giảm xuống còn 2,3 con năm 2000 và tỷ lệ phát triển dân số giảm tương ứng từ 2,2% xuống còn 1,35%. 

Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, Việt nam bắt đầu có dấu hiệu báo động về gia tăng dân số. Năm 2003, tỷ lệ dân số của cả nước tăng mạnh trở lại lên tới 1,47% (so với năm 2002 là 1,32%). Đến năm 2004, tỷ lệ tăng dân số là 1,43%, đặc biệt tình trạng sinh con thứ 3 tăng mạnh ở các địa phương, chi tiết có thể tham khảo bảng sau:

Tỉnh

Tỉ lệ

Tỉnh

Tỉ lệ

Kon Tum

33,68%

Quảng Trị

25,10%

Gia Lai:

31,00%

Bình Thuận

23,55%

Hà Tĩnh:

27,75%

Quảng Nam

23,26%

Thừa Thiên - Huế

27,60%

Điện Biên

22,45%

Lai Châu

25,66%

Đắc Nông

21,02%.

(10 tỉnh đứng đầu cả nước về tăng tỷ lệ lệ sinh con thứ 3. Năm 2004)

Điều đáng nói hiện nay là tình trạng sinh con thứ 3 ở các đối tượng thuộc khối cơ quan nhà nước tăng mạnh. Hầu hết những người này chưa nhận thức đúng về Pháp lệnh Dân số, họ mới chỉ thấy quyền mà không hiểu rõ về nghĩa vụ. Trong Điều 10 của Pháp lệnh nói về quyền của mỗi cặp vợ chồng “ có thể quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng”. Nếu các cơ quan đơn vị không tích cực triển khai công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự gia tăng dân số. Khi đó với quy mô dân số lớn, gần 83 triệu người, kết quả giảm sinh chưa vững chắc, chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn của sự gia tăng dân số trở lại sẽ tạo sức ép lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội.



Dân số và tài nguyên nước

Tác động và ảnh hưởng chính của sự gia tăng dân số đối với tài nguyên nước như sau:

- Làm giảm bề mặt ao, hồ, sông;

- Làm ô nhiễm các nguồn nước do chất thải, các loại thuốc trừ sâu và thuốc diệt chuột, bọ;

- Làm thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy sông suối do phá rừng, xây dựng đập và công trình thủy lợi, rác thải bồi lắng,....

Chương trình nghiên cứu về nước của UNESCO chỉ rõ năm 1985 các nguồn nước sạch trên đầu người còn dồi dào với trên 33.000m3 /người/năm, nhưng hiện nay đã giảm xuống chỉ còn 8.500m3/người/năm



Dân số và khí quyển, biến đổi khí hậu:

Việc tăng dân số ở các nước đang phát triển và phát triển chịu 2/3 trách nhiệm trong việc gia tăng lượng cacbonđiôxit. Tại nhiều trung tâm công nghiệp lớn, các khí thải CO, CO2 và NOX đang ngày càng được đưa vào khí quyển. Môi trường không khí ở các thành phố đông dân và các khu công nghiệp đang ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Khí hậu toàn cầu biến đổi theo hướng nóng dần lên gần như là kết quả tác động trực tiếp của hoạt động ngày một gia tăng dân số.

Dân số và các vùng cửa sông, ven biển

Vùng cửa sông và ven biển của Việt Nam chịu hoạt động tự nhiên và của con người gây ra:

- Đánh bắt thủy hải sản, thậm chí bằng các phương pháp có tính hủy diệt như dùng lưới mắt nhỏ hoặc bằng chất nổ, đã làm suy giảm nguồn lợi thủy sản. Do dân số tăng cùng việc khai thác tràn lan liên tục 10 năm qua đã làm giảm bớt hoặc mất đi nhiều loại động vật biển có giá trị kinh tế.

- Diện tích rừng ngập mặn nơi vùng cửa sông(khoảng 300.000 ha) hiện đã bị thu hẹp đáng kể do việc khai thác chuyển đổi thành đầm nuôi tôm.

- Các rạn san hô bị tàn phá để dùng làm vôi.

- Nước vùng cửa sông, ven biển bị ô nhiễm do nước thải, rác sinh hoạt và công nghiệp, do khai thác dầu và khí đốt, do sự cố tràn dầu



Dân số và tập quán sinh sống di cư, du cư

Du cư, di cư là quá trình đã xảy ra hàng ngàn năm nay trong lịch sử nhân loại. Nếu di cư là do ép buộc(tị nạn) hoặc tự nguyện trước sức ép của nơi đi và sức hút của nơi đến về các mặt chính trị, khinh tế và xã hội thì du cư còn do nguyên nhân khác là lối sống và trong một số trường hợp còn là văn hóa của các cộng đồng du cư.

Di cư là sự chuyển đổi chỗ ở vĩnh viễn. Có hai loại di cư chính:

- Di cư nội bộ là di cư giữa các địa phương trong một quốc gia.

- Di cư quốc tế là di cư từ nước này sang nước khác.

- Di cư vì ép buộc và mất an ninhdo chính trị, chủng tộc hay tôn giáo, tái định cưở một nơi khác gọi là tị nạn. “Tị nạn Môi trường”là những người không có điều kiện để sống an toàn ở bản quán vì hạn hán, xói mòn đất, buộc họ phải rời đi nơi khác.

Gia tăng dân số, đặc biệt ở khu vực đang phát triển của thế giới, là một sức ép lớn, thậm chí quá tải với nguồn tài nguyên thiên nhiên mà hậu quả tất yếu là nguồn sản xuất trì trệ, nạn đói hoành hành. Vấn đề lại càng tồi tệ khi đi kèm với những hoạt động như chiến tranh, thiên tai,..

Tóm lại, mỗi yếu tố nói trên đều có sự ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác.



6. Suy giảm đa dạng sinh học trên Trái Đất

Sự đa dạng về các giống loài động thực vật trên hành tinh có vị trí vô cùng quan trọng. Việc bảo vệ đa dạng sinh học còn có ý nghĩa đạo đức , thẫm mĩ và con người.

Thành phần đa dạng sinh học trên Trái Đất


Nhóm sinh vật

Số lượng loài đã được miêu tả (%)

Số lượng loài ước tính (%)*

Động vật chân khớp

1,065,000 (61%)

8,900,000 (65%)

Thực vật ở cạn

270,000 (15%)

320,000 (2%)

Protoctists

80,000 (5%)

600,000 (4%)

Nấm

72,000 (4%)

1,500,000 (11%)

Thân mềm

70,000 (4%)

200,000 (1%)

Động vật có dây sống

45,000 (3%)

50,000 (<1%)

Giun tròn

25,000 (1%)

400,000 (3%)

Vi khuẩn

4,000 (<1%)

1,000,000 (7%)

Vi rut

4,000 (<1%)

400,000 (3%)

Nhóm khác

115,00 (7%)

250,000 (2%)

Tổng

1,750,000 (100%)

13,620,000 (98%)

Việc bảo vệ đa dạng sinh học còn có ý nghĩa đạo đức , thẫm mĩ và con người phải có trách nhiệm tuyệt đối về mặt luân lý trong cộng đồng sinh vật sống.Đa dạng sinh vật học là nguồn tài nguyên nuôi sống con người. Chúng ta sử dụng sinh vật làm thức ăn, thuốc chữa bệnh, hóa chất, vật liệu xây dựng và nhiều mục đích khác.

Mất đa dạng sinh học chúng ta cũng mất đi các dịch vụ tự nhiên của các hệ sinh thái tự nhiên, đó là: bảo vệ các lưu vực sông ngòi, điều hòa khí hậu, duy trì chất lượng không khí, hấp thụ ô nhiễm, sản sinh và duy trì đất đai.Tuy nhiên nhân loại đang phải đối mặt với một thời kì tuyệt chủng lớn nhất của các loài động thực vật. Thảm họa này tiến triển rất nhanh và có hậu quả nghiêm trọng.


Sự đa dạng về các giống loài động thực vật trên hành tinh có vị trí vô cùng quan trọng. Việc bảo vệ đa dạng sinh học còn có ý nghĩa đạo đức , thẫm mĩ và con người phải có trách nhiệm tuyệt đối về mặt luân lý trong cộng đồng sinh vật sống.Đa dạng sinh vật học là nguồn tài nguyên nuôi sống con người. Chúng ta sử dụng sinh vật làm thức ăn, thuốc chữa bệnh, hóa chất, vật liệu xây dựng và nhiều mục đích khác. Mất đa dạng sinh học chúng ta cũng mất đi các dịch vụ tự nhiên của các hệ sinh thái tự nhiên, đó là: bảo vệ các lưu vực sông ngòi, điều hòa khí hậu, duy trì chất lượng không khí, hấp thụ ô nhiễm, sản sinh và duy trì đất đai.Tuy nhiên nhân loại đang phải đối mặt với một thời kì tuyệt chủng lớn nhất của các loài động thực vật. Thảm họa này tiến triển rất nhanh và có hậu quả nghiêm trọng.



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id190496 229274
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Báo cáo thực tập tốt nghiệp LỜi mở ĐẦU
UploadDocument server07 id190496 229274 -> I. objectives
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Kieåm tra hoïc kì I moân: hoùa hoïc khoái 11 (2011-2012) Thôøi gian 45’ ÑEÀ 1 Caâu 1
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Chuyên đề: VI sinh vậT Ứng dụng trong xử LÝ phế thải I. Nguồn gốC phế thảI 1/ Phế thải là gì ?
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Ngaøy soaïn : Ngaøy daïy : I
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Noäi dung cô baûn cuûa cuoäc Duy taân Minh Trò Về chính trị
UploadDocument server07 id190496 229274 -> Giáo án sử 8 Tuần: 12 Ngày soạn: 06/11/2011
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 200 câu hỏi về môi trường (Phần 4) (03-07-2096 15: 37)
UploadDocument server07 id190496 229274 -> 1. Cn b ng c¸c ph­¬ng tr×nh ph¶n øng sau
UploadDocument server07 id190496 229274 -> TỔ HÓa trưỜng thpt lê quý ĐÔn tam kỳ CÂu hỏI Ôn tập hoá chưƠng đIỆn ly. LỚP 11

tải về 428.52 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương