Hvth : Hà Thị Xuyên danh mục các chữ viết tắT


Quản lý nhà nước đối với tôn giáo



tải về 0.51 Mb.
trang4/15
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.51 Mb.
#19763
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15

1.1.2. Quản lý nhà nước đối với tôn giáo


1.1.2.1. Khái niệm "Quản lý nhà nước" và “Quản lý nhà nước đối với tôn giáo”

Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.



Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.

Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, UBND các cấp).

Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính quốc gia đã nêu: QLNN là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại của Nhà nước; là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người [38].

Vậy, chủ thể QLNN là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực Nhà nước tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng QLNN là toàn bộ công dân Việt Nam và những người không phải là công dân Việt Nam đang sống, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.



Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể quản lý.

Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.

Theo đó, QLNN đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều tập trung, trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn, đó là các hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động đó là gì? Về việc này, tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã nêu: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo”[77, tr.2].



Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ của tôn giáo được các tín đồ thực hiện. Còn người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Vậy, hoạt động truyền đạo chính là để củng cố và phát triển tín đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo đó.

Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo thể hiện sự tuân thủ nghiêm ngặt những quy định, phép tắc, thoả mãn đức tin tôn giáo của cá nhân hay cộng đồng tín đồ.

Hoạt động quản lý tôn giáo là các tổ chức, giáo hội tôn giáo thực hiện các quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.

Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo.

Từ đó chúng ta thấy, chủ thể QLNN về tôn giáo nếu theo nghĩa rộng của khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp các cấp.

Còn khách thể QLNN đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của người có đạo.

Chúng tôi, trong luận văn này thường dùng khái niệm “QLNN đối với tôn giáo”, hoặc “QLNN về tôn giáo”, khi đó được hiểu là “QLNN đối với các hoạt động tôn giáo”.

Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ, đó là những người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. [77, tr.2]. Người làm công tác QLNN đối với tôn giáo, với họ, có một đòi hỏi bắt buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, với tư cách là khách thể QLNN.



Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có bản chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và tầng lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vô thức và ý thức, một số tín đồ hoạt động tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn giáo. Một đặc điểm khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước như mọi công dân khác. Là người có tín ngưỡng tôn giáo, họ có niềm tin ở Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây chính là đặc điểm quan trọng cần phải nắm vững.

Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ thần học cao; được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa quản lý nền hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tự, nguyện vọng của tín đồ. Như thế, họ có vị trí, vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ yêu quí, trân trọng và bảo vệ.

Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ chức khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo hiến chương, điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tôn giáo có liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài.

Ngoài ra, khách thể QLNN về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một thực thể vật chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn đồ dùng việc đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư hương, chuông mõ, nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong sinh hoạt tôn giáo, nhưng đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu đạt. Ngoài ra, phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn hoa, trường học, nhà dòng, cơ sở từ thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản của giáo hội và là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức tôn giáo quản lý.

Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho công tác QLNN về tôn giáo có hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.

Một vấn đề khác cũng cần nhận thức rõ, đó là vấn đề pháp nhân và thể nhân tôn giáo. Pháp nhân tôn giáo, đó là bộ máy tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận. Còn thể nhân tôn giáo, đó là cá nhân tôn giáo (tín đồ) được tổ chức tôn giáo công nhận.



1.1.2.2. Tính tất yếu tăng cường QLNN đối với tôn giáo

Vì sao phải tăng cường công tác QLNN đối với tôn giáo, việc này được xuất phát từ các lý do khách quan và cơ bản.



Thứ nhất, hoạt động tôn giáo có liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, với chức năng quản lý xã hội của mình, để đảm bảo cho xã hội ổn định, phát triển bình thường, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.

Thứ hai, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đời sống tôn giáo, vậy để đường lối, chính sách, pháp luật được hiện thực hoá, để đồng bào có và không có tôn giáo đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.

Thứ ba, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng tôn giáo hống phá cách mạng, vậy để đập tan âm mưu đó và để đồng bào lương - giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất yếu Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.

Thứ tư, Việt Nam mở cửa, hội nhập để phát triển, theo đó, các thế lực thù địch cũng thông qua con đường hợp tác, liên doanh, du lịch... thâm nhập vào những vùng nhạy cảm về tôn giáo, mua chuộc một số chức sắc, tín đồ tôn giáo, vậy để hội nhập quốc tế có nhiều thành công, Nhà nước phải tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.
1.1.2.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung của QLNN về tôn giáo

Nội dung cơ bản của QLNN về tôn giáo được ghi nhận tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và được cụ thể hoá tại Nghị định số 22 của Chính phủ, hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh trên. Còn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước ta mới chỉ có Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tôn giáo, và Nghị định số 26 (năm 1999), Về các hoạt động tôn giáo. Như vậy, cho đến thời điểm này, công cụ trực tiếp cho QLNN về tôn giáo chính là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, còn luật thì chưa có.



Vì thế vừa qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở nội dung tôn giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc” [33, tr.245].

Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước - bổ sung, phát triển, năm 2011, khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [33, tr.81].

Theo đó, quan điểm về vấn đề tôn giáo tại đây có những điểm mới là “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật”.

Từ đó, công tác QLNN về tôn giáo, từ mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cho đến phương pháp, cần phải được xác định rõ và bổ sung cho phù hợp với quan điểm của Đảng. Về mục tiêu, theo chúng tôi, đó là:



Thứ nhất, QLNN đối với tôn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, để các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, theo hướng tuân thủ pháp luật. Rằng: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" [77, tr3].

Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những gia trị văn hoá và mặt tích cực, khắc phục những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong sự phát triển của đất nước theo định hướng XHCN.

Thứ ba, QLNN đối với tôn giáo phải góp phần củng cố, phát triển đồng bào có và không có tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ tư, QLNN về tôn giáo phải đảm bảo tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.

Với mục tiêu đó, công tác QLNN đối với tôn giáo phải được dựa trên 3 nguyên tắc sau:



Một, phải đứng vững trên đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.

Hai, phải đảm bảo để mọi tôn giáo hoạt động theo hướng tuân thủ hiến pháp, pháp luật; để những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo; hoạt động mê tín dị đoan phải bị phê phán và loại bỏ.

Ba, phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Còn về nội dung QLNN đối với tôn giáo, xuất phát từ quan điểm của Đảng và theo quy định pháp lý, có thể khái quát như sau:



Trước hết, với tính cách là một quy trình của QLNN đối với tôn giáo thì bao gồm những nội dung:

- Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch năm năm và hàng năm thuộc lĩnh vực tôn giáo;

- Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;

- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;

- Qui định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;

- Qui định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;

- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo;

- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo.

Tất cả những nội dung trên đều có ý nghĩa xác định cụ thể, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì thế không thể xem nhẹ một nội dung nào.



Tiếp theo, QLNN về tôn giáo với tính cách là giải quyết bằng quyền lực nhà nước các hoạt động tôn giáo ở những lĩnh vực cụ thể khác nhau, thì nó bao gồm các nội dung sau:

- Quản lý nhà nước các hoạt động tín ngưỡng;

- Quản lý việc đăng kí hoạt động của tổ chức tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo;

- Quản lý việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc;

- Việc đăng kí người vào tu và hoạt động của dòng tu, tu viện, hội đoàn tôn giáo;

- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn giáo;

- Quản lý về đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo;

- Về việc đăng kí hoạt động tôn giáo (thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ sở tôn giáo);

- Quản lý việc xây, sửa, cải tạo các công trình tôn giáo;

- Về đất đai, tài sản tôn giáo;

- Về hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành các ấn phẩm tôn giáo;

- Quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ dùng việc đạo;

- Quản lý việc mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, giải thể trường đào tạo;

- Quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện nhân đạo của các tôn giáo;

- Quản lý việc quan hệ quốc tế của các tổ chức và cá nhân tôn giáo;

- Quản lý về việc đình chỉ hoạt động tôn giáo.

Những nội dung quản lý như trên được quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và trong Nghị định số 22/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên cho đến nay, nó đã và đang có nhu cầu phải bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập ở các chương sau.

QLNN đối với tôn giáo có một số phương pháp chủ yếu được áp dụng như: Phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp cưỡng chế và phương pháp tổng hợp.

Như vậy, QLNN đối với tôn giáo là tất yếu, không chỉ ở nước ta mà còn đối với các nước khác. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung cụ thể của QLNN về tôn giáo cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Vậy, chủ thể quản lý cần nắm vững quan điểm lịch sử cụ thể để công tác này có hiệu quả, hiệu lực cao nhất.

1.2. TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở BẮC NINH



tải về 0.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương