Hi-đồng Giáo-hoàng "Công -ý và Hoà-bình"



tải về 0.61 Mb.
trang11/15
Chuyển đổi dữ liệu27.02.2022
Kích0.61 Mb.
#51028
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15
f 1522850011
SINH 11, DannhapvaoGHXHCG, BLANK, Danh mục tài liệu mới tháng 6 năm 2022
VI- Kết luận
Để giải quyết một cách tận căn vấn đề, ngay cả sự xung đột về học thuyết liên quan đến các quyền con người kéo dài mãi cho đến nay, các đề nghị của Đức Gioan XXIII và Công đồng hàm ngụ hai chiều kích. Chiều kích triết lý đề nghị lấy chiều hướng tự nhiên của cá nhân hiểu biết và hành động theo chân lý làm điểm khởi phát cho mọi suy tư về cuộc sống xã hội; chiều kích pháp lý - chính trị, là trao cho nhà nước vai trò tạo lập những điều kiện để thực thi tự do nhằm thực hiện quan điểm nầy, chứ không phải áp đặt một ý tưởng nào bất kỳ do một nhóm đặc biệt nào đó bày ra. Tương quan giữa chính quyền với tự do lương tâm hẳn còn là một trong những điểm tế nhị nhất liên quan đến sự thăng tiến các quyền con người trong nhiều thập niên sắp đến; và nổ lực đào sâu hơn nữa sự hiểu biết về con người và ơn gọi của nó có thể soi sáng cho vấn đề nầy.

Cái nhìn tổng lược lịch sử nêu lên trên đây, cho thấy những liên hệ đã dẫn đến việc hình thành lý thuyết về các quyền con người, cũng như xác định nội dung các quyền ấy trong khuôn khổ của một quốc gia có một quốc giáo. Sự thay đổi có tầm quyết định xảy ra vào đầu bán thế kỷ nầy là xác định các quyền con người trong khuôn khổ của một quốc gia đa nguyên và dân chủ. Sự thay đổi đó phải được xem như là một tai nạn lịch sử, hay như là một dấu chỉ đầu tiên cho thấy có một sự biến thái sâu xa các điều kiện sinh hoạt của Giáo hội trong thế giới? Chắc chắn rằng sau khi đã nhìn nhận sự chính đáng trên bình diện lý thuyết về một tình trạng như thế, Giáo hội hẳn đã đánh cuộc với hình thức đa nguyên (ở đây chúng ta nhớ lại bài giảng trong ngày Giáng sinh 1797 của Đức Hồng y Chiaramonti, tức là Đức Giáo hoàng Piô VII trong tương lai). Sứ điệp của Đức Piô XII trong ngày lễ Giáng sinh 1944 có thể xem là một cử chỉ đầu tiên của một giáo hoàng, đã từng phân tích các điều kiện đương thời của cuộc sống kinh tế và xã hội để kết luận về việc phổ cập hoá khuynh hướng nầy. Một vài năm sau đó Ngài lại lặp lại rằng: Hẳn nhiên "Giáo hội (...) xem, tình trạng thống nhất của dân tộc trong tôn giáo ngay thật và sự đồng tâm hiệp lực giữa tôn giáo và nhà nước là một lý tưởng. Nhưng Giáo hội cũng biết rằng, từ dạo nào đó, thời cuộc biến chuyển theo chiều ngược lại, nghĩa là hướng đến tình trạng đa nguyên tôn giáo và chấp nhận các quan điểm sống khác nhau ngay trong cùng một cộng đồng quốc gia mà người công giáo chỉ là một thiểu số nào đó tuỳ mức độ". Đức Đức Gioan XXIII và Công đồng tiếp tục xác nhận sự chọn lựa nầy trong quan điểm cho rằng ngày nay hoà bình có thể xây dựng được giữa các xã hội có những gia sản tinh thần khác nhau; và ý thức về nhân phẩm đã trở thành mãnh liệt, buộc các cơ sở pháp lý chính trị phải thích ứng với đòi hỏi của các cá nhân muốn sự chọn lựa của lương tâm phải được xã hội nhìn nhận.

Xã hội ngày nay trao phó cho chính quyền hai vai trò xem ra rất khó dung hợp. Một mặt chính quyền phải làm sao để có tối đa người tham gia trách nhiệm trong việc tổ chức cuộc sống cộng đồng nhưng đồng thời nó có phận vụ ngăn cản tình trạng "băng rã xã hội" trước sự kiện có nhiều ý kiến đa biệt và thiếu đường hướng. Chức phận thiết yếu của chính quyền nay là lượng giá các đòi hỏi của trật tự công cộng và thiết định khuôn khổ trong đó các loại tự do có thể thể hiện. Các quyền công cộng đang thao dợt một thứ cân bằng khó khăn giữa các đòi hỏi trái nghịch; chúng không được biến thành một bộ phận để thi hành chương trình của một ý hệ và, mặt khác, chúng phải cẩn thận xác định nội dung của công ích vào một thời điểm nhất định.

Như vậy, phận vụ của chính quyền trong những năm sắp đến sẽ được xác định; nó phải hành xử "không bằng đường lối máy móc hoặc chuyên chế nhưng tác động trước hết như một sức mạnh đạo đức, dựa trên tự do và tinh thần trách nhiệm. Bởi lẽ "Chính quyền trước hết là một sức mạnh đạo đức" nên nó phải có sự tán thành một cách tự do của những người thuộc quyền:

"Chính quyền trước hết là một sức mạnh đạo đức. Nên những kẻ nắm quyền phải ưu tiên kêu gọi đến lương tâm và bổn phận của mọi người trong việc hăm hở phục vụ công ích. Nhưng mọi người bình đẳng nơi phẩm giá tự nhiên của mình; không ai có quyền thiết định sự ưng thuận tự bên trong nơi người khác; quyền đó dành cho Thiên Chúa, là Đấng duy nhất thấu hiểu và phán xét những quyết định sâu kín của mỗi người".

Những cuộc thảo luận phổ biến rộng rãi trong những năm sắp đến sẽ không giới hạn trong lãnh vực học thuyết. Người ta sẽ cần phải giải quyết các vấn đề cụ thể để quyết định xem làm thế nào dung hợp được, trong cuộc sống thiết thực, giá trị của công ích và sự độc lập của những lựa chọn cá nhân. Hai thí dụ nêu lên đây giúp ta xác định sự thách đố mà nhiều người buộc phải nói lên lập trường của mình.

Những thủ thuật di truyền học có thể tạo quá nhiều bất ngờ. Vị hồng y tương lai O 'Connor đã nêu lên vấn đề nầy trong một bài diễn văn năm 1981:

"Một ngày nào đó người ta có thể "sản xuất" những con người có khả năng chống lại các áp lực trong không gian hoặc có những cách để bay thay vì đôi tay?...Việc cố tâm làm ra những "loại người" để cử động như cơ phận của vũ khí không còn được xem là một ý tưởng vu vơ".

Tất cả những nghiên cứu trong ngành sinh học di truyền như thế không phải hoàn toàn hướng đến các mục tiêu quân sự; và các nhà khoa học đòi hỏi phải có tự do nghiên cứu. Vậy nhân danh quyền nào để qui định sinh hoạt của họ một khi lương tâm họ cho phép, hoặc ngay cả việc sinh hoạt đó là một bổn phận đối với họ nếu ta chấp nhận nguyên tắc tự do lương tâm?

Đường hướng mà người ta muốn dùng để có giải pháp cho vấn đề, chính nó lại dấy lên những câu hỏi mới khác nữa:

a- Cần nhắc lại ở đây tầm quan trọng của đối thoại; cần tạo nên một sự tin tưởng lẫn nhau giữa những người ngay từ đầu có một cái nhìn khác biệt về các lợi ích nền tảng của con người.

b- Giải pháp mang lại cho các vấn đề tự do và nhân quyền không phải chỉ rút ra từ các lập trường triết học; nó còn có một chiều kích pháp lý - chính trị. Các định chế quốc gia hoặc các cơ quan quốc tế cần bảo đảm một sự cân bằng giữa các lập trường dị biệt.

c- Ở đây người ta thường hay vấp phải sự kiện là dư luận quần chúng đồng hoá việc chính quyền cho phép với giá trị đạo đức. Đấy là một tình trạng rất tai hại cho diễn tiến cuộc đối thoại; để tránh tình trạng đồng hoá sai trật đó, các người tham dự cuộc đối thoại lại tìm cách dấy lên một lập trường có tính cách học thuyết và chống đối nhau kịch liệt thay vì tìm kiếm một điều nào đó có thể kéo gần họ lại với nhau.

d- Một trong những lý do sâu xa của thái độ nầy phải chăng là vì dân chúng đã từng có thói quen chấp nhận những khuôn thước cư xử từ Giáo hội và các quyền bính dân sự, khi các quyền bính dân sự được hiểu là luôn áp dụng những đường hướng của Giáo hội? Vi thế, phương thuốc đề nghị là nên tìm trong nổ lực tham gia có trách nhiệm của các thành phần xã hội chính trị. Trong Sứ điệp truyền thanh vào dịp lễ Giáng sinh năm 1944, Đức Piô XII đã phân biệt rõ rệt gìữa dân chúng "sống và tự sinh hoạt bằng cuộc sống riêng của mình" và khối quần chúng "tự nó là một cái gì bất động, chỉ bị đẩy đưa từ bên ngoài"; Ngài xem khối quần chúng nầy là "kẻ thù chính của chế độ dân chủ chân thật và của lý tưởng tự do và bình đẳng nơi chế độ dân chủ đó!". Nếu sự tham gia có trách nhiệm là con đường dẫn đến việc cũng cố ý thức và bảo vệ các quyền con người, thì sự tham gia ấy hàm ngụ rằng mỗi cá nhân ấn định cho mình một lằn mức, mà vượt qua lằn mức ấy thì đức tin sẽ cấm cản không cho phép mình hỗ trợ chính sách liên hệ, và mình phải có thái độ từ khước hay chống đối lại Nhà nước cũng như chọn lựa các phương thức thích ứng cho thái độ nầy.

Người ta trách cứ Kitô hữu thường hay chọn vị thế có thể đứng ra bên ngoài những đường lối chính trị chính thức, mà dư luận quần chúng hoặc truyền thông tuyên dương là đúng đắn; và bấy giờ người ta hiểu ngầm là việc Kitô hữu ngồi lại với mọi người để đối thoại và cỗ võ các loại tự do tân thời chỉ là một biện pháp có tính cách chiến thuật. Thiên hạ hay nhắc lại lời nói dí dỏm được cho là của Louis Veuillot: Chúng tôi đòi các ông sự tự do nhân danh các nguyên tắc của các ông, chúng tôi lại từ chối sự tự do theo kiểu các ông nhân danh các nguyên tắc của chúng tôì.

- Người ta có thể lưu ý là trong trường hợp có sự từ chối không tham gia vào một sự thoả thuận nào đó, thì chính vì người Công giáo đã bị từ chối không có được một ý kiến riêng của mình; phía đa số người ta từ chối thuyết phục họ, đa số đó nhằm áp buộc họ nhận chân lý riêng của mình mà thôi.

- Tất cả mọi chính sách về nhân quyền dựa trên sự tôn trọng kẻ khác và nhân nhượng nhau đòi hỏi các quy luật đối thoại phải được minh định rõ ràng hơn. Ở đây thiết yếu không phải là kết án dứt điểm, nhưng lấy sự bất đồng do một hoàn cảnh tạo ra làm khởi điểm để cùng nhau tìm kiếm một giải pháp thoả đáng. Không thể có một xã hội quốc tế nếu các qui thức chung không được mọi người nhìn nhận.

Việc nghiên cứu tiến trình phát triển các quyền con người trong lịch sử có thể giúp ta đưa ra các mệnh đề sau đây:

1- Tiến trình liên tục của lịch sử tư tưởng Tây phương được thực hiện qua việc đào sâu ý niệm về phẩm giá con người.

2- Ngày nay việc khai triển ý niệm đó trong thực tế hàm ngụ chủ trương đa nguyên, vì người ta đang sống trong bối cảnh của tình trạng thâu hoá các nền văn minh và hệ thống xã hội khác nhau.

3- Nhà nước không còn được xem là có được sứ mệnh để áp đặt quan điểm về các quyền con người, để tự biến thành một hệ thống ý thức hệ hoặc một hệ thống tôn giáo nào.

4- Giáo hội phải trở thành dấu chỉ của khát vọng con người hướng về sự hiệp nhất vuợt lên trên các nét dị biệt. Kitô hữu có phận vụ diễn tả yêu sách đó trong cuộc sống hằng ngày của mình, không muốn áp đặt quan điểm của mình nhưng từ chối hợp tác với những hành động được đánh giá là đi ngược lại những lợi ích thực sự của con người, dù phải chịu những hệ quả nào đi nữa.




tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương