Hồi Ký Hà Nội 2008



tải về 3.53 Mb.
trang19/23
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích3.53 Mb.
#34905
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

CHÚ THÍCH CỦA DIỄN ĐÀN :


(1) Năm 1979. "Đề dẫn" của Nguyên Ngọc (bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam) và bài viết của Hoàng Ngọc Hiến (văn học Việt Nam 1945-1975 là một nền "văn học phải đạo") là dịp để Tố Hữu, Chế Lan Viên... mở một cuộc càn quét, truy lùng "bọn chống đảng" trong giới văn nghệ.

(2) Anh Thơ và Đặng Thai Mai.

(3) Đúng ra là bà Nguyễn Phước Đại, sau 1975 mở quán "Blibliothèque".

(4) François Jullien.



Chương XX: Nguyên Ngọc

Trong một bài chân dung viết về Nguyên Ngọc, tôi gọi anh là con


người lãng mạn. (Nguyên Ngọc, con người lãng mạn).
Cũng có thể nói, Nguyên Ngọc là người của cái tuyệt đối. Anh không
chấp nhận sự nửa vời, trạng thái lừng chừng. Phải tuyệt đối anh hùng, phải tuyệt
đối trong sáng. Không phải anh chỉ nghĩ thế, mà còn sống như thế. Rất dũng
cảm, thích mạo hiểm. Anh từng đi đánh thổ phỉ ở Tây Bắc. Từng đi ngựa theo
một đoàn buôn thuốc phiện lậu từ Cao Bằng đi Lai Châu. Đi B dài cùng Nguyễn
Thi. Nguyên Ngọc ở lại khu Năm, còn Nguyễn Thi thì vào tuốt Nam Bộ. Họ
chia tay nhau bên một khu rừng xà - nu bạt ngàn, hẹn trở về phải đi đường số
một. ở khu Năm, Nguyên Ngọc sống và chiến đấu như một anh hùng. Một nhà
văn như thế thì tìm đâu ra nhân vật trong đời sống thực tế quanh mình. Mà nhất
thiết anh phải viết về chủ nghĩa anh hùng. Đó là quan niệm thẩm mĩ của anh.
Viết Đất Quảng, anh tìm được một nguyên mẫu mà anh cho là lý tưởng. Viết
đến tập II, thì được tin cái anh nguyên mẫu nọ té ra cũng dao động, lập tức đốt
ngay bản thảo.
Tìm đâu ra những con người tuyệt đối như thế? Phải bịa ra sao?
Không, Nguyên Ngọc tìm lên núi cao và ra tận biển khơi. Anh tìm đến những
con người như thuộc thời hồng hoang nguyên thuỷ, cái thời chưa có kinh tế thị
trường, chưa có chuyện danh và lợi làm vẩn đục lòng người...Sống như tự
nhiên, như tảng đá, gốc cây, con thú rừng. ấy là Đinh Núp, Thnú ở Tây Nguyên,
là Thào Mỵ ở Hà Giang, Mèo Vạc, là những chiến sỹ anh hùng trong Đường
mòn trên biển...
Nguyễn Khải thường nhắc lại lời Nguyễn Minh Châu nói với Nguyên
Ngọc khi Ngọc vừa trở ra Bắc sau 1975: “Bọn mình cố phấn đấu để trở thành
anh hùng, còn ông thì cố phấn đấu để trở thành người bình thường”.
Đầu óc Nguyên Ngọc chỉ có cái tuyệt đối, cái phi thường mới lọt vào
được. Cho nên nói chuyện với anh, thấy anh toàn say sưa kể những chuyện như
sử thi, như thần thoại vậy.
Anh cho bài viết của tôi về anh, đã nói đúng cái môi trường có tác
động tới anh từ nhỏ: phố cổ Hội An và bãi biển Cửa Đại, nơi còn giữ được
trong thời hiện đại không khí hoang sơ, hoang dã, với những con người rất đỗi
hồn nhiên, trong sáng. Từ đó, năm 17 tuổi, cuộc kháng chiến đã đưa anh lên
tuốt Tây Nguyên, lên tận đỉnh Ngọc Linh. Hồi ấy, tâm hồn lãng mạn của anh đã
từng mơ ước gặp được một mối tình sơn nữ.
Nguyên Ngọc trên đường đời đã vớ được cây xà nu. Anh liền lấy nó
làm nhân vật tư tưởng của anh. Anh đích thực là một cây xà nu, thẳng băng,
nhọn hoắt, chọc thẳng lên trời.
Con người như thế, tuy người ta rất phục, nhưng không ai chịu nổi,
không ai theo được. Sống thế mệt quá, căng thẳng quá! Anh mà làm lãnh đạo
thì kể cũng khó đoàn kết được quần chúng. Hôm tôi trò chuyện với Nguyễn
Đình Thi trên đường đi Tam Kỳ (năm 2000), Nguyễn Đình Thi cho biết, hồi
bọn Tàu đánh ta ở biên giới, Nguyên Ngọc lúc ấy làm bí thư đảng đoàn Hội nhà
văn, định đưa anh em lên mặt trận biên giới đấy.
Một con người không biết mềm mỏng trong giao tiếp, rất cứng. Anh rất
ghét Nguyễn Đình Thi, cho là thằng giả dối. Trong hội nghị, hễ Thi phát biểu,
anh bỏ ra ngoài. Anh rất khinh Huy Cận. Anh cho con người nhân cách bẩn như
thế viết hay sao được. Người ta nói, thơ Huy Cận trước cách mạng hay đấy chứ!
Anh nói dứt khoát: “không hay!”. Anh rất ghét bọn chấp hành Hội nhà văn từ
khoá năm, khoá sáu và tờ Văn nghệ của Hữu Thỉnh. Văn nghệ đưa đến, anh vất
ngay vào sọt rác. Hội cấp tiền bồi dưỡng sáng tác cho anh, anh từ chối. Nhà anh
ở khu tập thể quân đội số 8 – Lý Nam Đế. Từ cổng đi vào gặp rất nhiều nhà văn
quen thuộc. Anh đi một mạch thẳng, chẳng trò chuyện với ai, khinh tuốt.
Nguyễn Văn Hạnh nói, Nguyên Ngọc không có tâm lý làm nhân vật số
hai. Anh chỉ có thể làm nhân vật số một. Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Nguyên
Ngọc. Tố Hữu từng nói với Tô Hoài: “Nguyên Ngọc cứ để nó làm bí thư đảng
đoàn thì nó sẽ làm vua”. Nguyên Ngọc thì bướng. Tố Hữu thì hách, tất nhiên rất
ghét nhau.
Hồi Nguyên Ngọc làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, anh tổ chức một
cuộc hội nghị nhà văn đảng viên. Anh đưa ra một bản đề cương chống giáo
điều, đổi mới văn học. Tố Hữu đến, lên phát biểu đã phê phán quyết liệt bản đề
cương coi là hiện tượng ngược dòng. Vậy mà khi kết luận hội nghị, Nguyên
Ngọc vẫn khẳng định bản đề cương đã được hội nghị nhất trí tán thành. Rõ ràng
là bất chấp thái độ Tố Hữu.
Tối hôm đó ở 4 Lý Nam Đế (Trụ sở Văn nghệ quân đội), Nguyên Ngọc
đang ngồi với Nguyễn Khải, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Trọng Oánh, Giang
Nam, thì Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo đến: “Tôi khuyên các anh
đến xin lỗi anh Tố Hữu, tôi đưa các anh đến”. Không ai nói gì. Nguyên Ngọc
trả lời: “Cám ơn anh, tôi tự thấy chả có gì phải xin lỗi cả. Còn nếu cần đến anh
Tố Hữu thì tự tôi đến cũng được, không cần anh phải dẫn đi. (Chế Lan Viên
ghét Nguyễn Đình Thi, muốn đưa Nguyên Ngọc lên để hạ Nguyễn Đình Thi. Vì
thế không muốn Nguyên Ngọc đổ).
Nguyên Ngọc yêu ghét rất phân minh. Người anh ghét chủ yếu là
những nhân cách xấu: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Vũ Quần Phương, Phạm
Tiến Duật, Đào Vũ, Hà Xuân Trường, Phan Cự Đệ... Anh rất quý Trần Độ,
Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Hoàng Ngọc Hiến...
Nhưng Nguyên Ngọc hoàn toàn không phải là con người khắc khổ. Tôi
bia bọt với anh nhiều lần. Anh sống rất thoải mái. Có chất nghệ sĩ. Tô Hoài từng
đi một chuyến công tác với Nguyên Ngọc lên Tây Bắc. Ông nhận xét, Nguyên
Ngọc về tình cảm thì mềm, chỉ lý luận và cách ứng xử thì cứng. Nguyên Ngọc
là đối tượng hấp dẫn của một cô gái Mèo xinh đẹp tên là Vàng Thị Mỹ ở Đồng
Văn, Mèo Vạc, Hà Giang. Cô làm phiên dịch cho bộ đội. Tô Hoài nói, ba mươi
năm gặp lại Vàng Thị Mỹ, thấy vẫn đẹp. Cô ghi vào cuốn sổ tay của mình:
“Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! (Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng là tên một
tác phẩm của Nguyên Ngọc ). Chắc nhớ và yêu Nguyên Ngọc lắm mới viết như
thế. Và Nguyên Ngọc chắc cũng yêu cô. Vì anh tả Thào Mỵ đẹp tuyệt vời, đẹp
như tiên “Khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như
những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên
đỉnh Săm Pun...” Văn như thế thì cũng đa tình đáo để. Cho nên, Nguyên Ngọc
tư tưởng rất cấp tiến, thích những lý thuyết mới mẻ, cởi mở. Rất ghét giáo điều.
Yêu cầu dân chủ và đổi mới thật sự. Cho nên Nguyên Ngọc tán thưởng Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Chiều chiều, Ba
người khác của Tô Hoài...
Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải là hai tính cách đối lập. Một đằng rất lý
tưởng, rất lãng mạn. Một đằng thiết thực và tỉnh táo. Một đằng dũng cảm, một
đằng thì nhát. Nhưng Nguyên Ngọc thích Nguyễn Khải vì Nguyễn Khải chân
thật.
Nguyên Ngọc và Tô Hoài cũng là hai cực đối nghịch. Một đằng quan
niệm con người là con người, tầm thường vậy thôi. Một đằng quan niệm con
người là thiên thần, là thơ, là lý tưởng. Nhưng họ gặp nhau ở tư tưởng câp tiến.
Nguyên Ngọc nói với tôi nhiều lần: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ.
Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào”.
* *
*
Hiện nay Nguyên Ngọc đang giúp Quảng nam xây dựng một trường
Đại học dân lập ở Hội An. Tôi hỏi anh, xây dựng trường theo kiểu gì? Anh nóivắn tắt: “Theo kiểu Mỹ”. Nguyễn Khải cho là ảo tưởng, là phiêu lưu. Nguyễn
Văn Hạnh thì nói: “Nguyên Ngọc có thể gọi là một nhà tư tưởng, có thể đặt tên
phố như một danh nhân. Nhưng quản lý một trường học thì không được.”
Nguyên Ngọc mời anh làm hiệu trưởng. Anh từ chối.
Nguyên Ngọc trước sau vẫn là một con người lãng mạn.
Láng Hạ, 9.1.2008.

Chương XXI: Hoàng Ngọc Hiến


Hoàng Ngọc Hiến là một trong hai người bạn đồng tuế thân nhất của


tôi (người thứ hai là Phạm Luận, cán bộ giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thể
gọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ cái hay đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn
toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm bảo vệ nhau.
Tôi với Hoàng Ngọc Hiến như có duyên trời xe kết vậy.
Anh ở tận Nghệ Tĩnh, tôi ở Việt Bắc. Thế mà tình cờ gặp nhau. Tôi
cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh lên Thái Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp,
anh thì chạy cải cách ruộng đất cũng vọt lên đấy. Anh có một người học trò tên
là Lới, trong đoàn uỷ cải cách ruộng đất, báo cho biết phải chạy ngay lên Việt
Bắc vì lý lịch xấu, có thể nguy. Và anh ta lấy quyền đoàn uỷ viên giải quyết
ngay cho Hiến (Trong cải cách, bố Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa chủ và bị tù).
Lên Thái Nguyên, anh dạy văn ở trường Lương Ngọc Quyến. Còn tôi lúc đó là
cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường đến Lương Ngọc Quyến là trường trọng
điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về chuyên môn.
Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà
Nội. Thầy Nguyễn lương Ngọc cho Hiến có hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ
lý cho Trần ĐứcThảo. TRần Đức Thảo thấy Hiến là đảng viên, không nhận. Vì
thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô
viết.
Từ Đại học Sư phạm Hà Nội, Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên
cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ
tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học Sư phạm Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào.
Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại học Hà Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở
về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ Đức Uyên bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí
thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa xét lại Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống
anh vào Vinh.
Từ Vinh, tôi được chuyển ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại
gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn Du. Anh phụ trách trường này, còn tôi
được mời đến dạy.
Rồi nhờ có Phan Ngọc Thu, một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học
Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà Nẵng, tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình
độ đại học và bồi dưỡng giáo viên chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào
giúp. Thế là lại gặp nhau luôn, khi ở Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long. Tôi thích đi, Hiến cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui
đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới là đi, để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra
tôi hay mời anh đến làm phản biện cho nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh
đến ngay...
Tuy nhiên tôi và Hiến có những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn
học nước ngoài, thích lý luận, thiên về tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông
Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và thiên về nghiên cứu văn học sử và phê
268
bình văn học.
Hiến rất thích nhận xét khái quát, đúc thành những mệnh đề chắc nịch,
tuy có phần cực đoan, chẳng hạn:
- Đặc điểm người Nghệ Tĩnh: “Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.”
- Phân loại cán bộ giảng dạy đại học: “Có hai loại động vật và thực
vật. Loại động vật, suốt ngày lăng xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác,
không nghiên cứu được cái gì nên hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến
loe loé thế thôi, chẳng làm nên sự nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy
nghĩ, như cái cây cắm rễ xuống đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được.”
- ý kiến sinh viên nhận xét thầy: “Nói chung chê thì đúng, khen thì
thường sai...”
Hiến cái gì cũng muốn giải thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ:
Anh nói:
“ Lê Hoài Nam nếu cao hơn 5 phân, số phận khác hẳn”. Lê Hoài Nam
là chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và
Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Anh người thấp lùn, hơi dị dạng.
Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể như vậy nên Lê Hoài Nam rất ngại xuất hiện ở
chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi dần, lùi dần vào nơi hẻo lánh:
Vinh, rồi Quy Nhơn.
Có lần tôi nhận xét, các danh nhân thế giới thường là người ở các tỉnh
nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành danh nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất
ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi, Lomonosov, Napoléon... Hiến giải
thích luôn: “Vì ở Thủ đô lắm cái hấp dẫn làm cho con người ở đây phung phí
hết tinh lực, Người các địa phương tinh lực không mất, về Thủ đô được phát
huy lên”.
Vì sao Hồ Chí minh chết đúng vào ngày Tuyên ngôn độc lập 2.9? Hiến
giải thích : “Vì ông cố tình chết vào ngày ấy. Ông Hồ là đáo để lắm. Chỉ cần
dứt đứt các giây dợ ở ống thở ôxy là chết chứ gì”.
Hiến thường có những nhận xét rất gọn và rất ác về người này người
khác trong giới đại học. Hồi ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp
xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội – Vinh hay Hà Nội – Thanh Hoá) dọc
đường, thường “luận anh hùng” trong thiên hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí
dụ:
- NĐN (một giáo sư tiến sĩ được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm
Hà Nội) chỉ là một giáo viên cấp III giỏi.
- Không nên đánh giá ĐVK (giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà
Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta là người không có trí khôn.
- HL (cán bộ dạy sử của Đại học Sư phạm Vinh) kết tinh mọi cặn bã
của dân Nghệ Tĩnh.
- Có một giáo sư văn học, trước khi dự lớp, anh đánh giá là một con sư
tử (về chuyên môn, khoa học), khi dự lớp về, anh nói: chỉ là một giáo viên phổ
thông.
269
- Một vị giáo sư văn học khác, anh cho chẳng hiểu văn là gì cả.
- Anh nhận xét ĐT, một cây bút phê bình khá tài hoa ở hải ngoại, chỉ là
một ông chánh tổng Annam ở Paris.
- PTL (giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Hiến nói: “Một điều
nhục nhã của mình là đồng hương với PTL. Thậm chí chỉ quen biết PTL thôi
cũng đã là một sai lầm, một sai lầm không thể sửa chữa được”.
Hiến có những nhận xét rất cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ.
Nhưng anh rất tin ở trực cảm của mình.
Trường Đại học Sư phạm Vinh có chủ trương cán bộ giảng dạy phải
theo sát thực tế phổ thông. Ai đã đi hướng dẫn thực tập sư phạm thì không nói
làm gì, những những người không hướng dẫn thực tập cũng phải về ở một đoàn
thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ, gọi là tham quan thực tập. Hiến cũng phải
về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần chỗ khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách.
Đêm ấy, LBH và Hiến cùng ngủ trong một căn phòng kê hai cái giường song
song. LBH hỏi Hiến một cách trịnh trọng: “Anh là người sâu sắc, từ ngày anh
về trường này, anh nhận xét tôi là người thế nào?”. Hiến trả lời luôn: “Cậu là
người thiếu nhân cách”. LBH ắng đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến.
Nhưng rồi gặng hỏi Hiến: “Anh cho dẫn chứng?”. Hiến bí không tìm ra dẫn
chứng. Mãi sau cũng cố đưa ra một ví dụ: “Chẳng hạn, cậu không biết tiếng
Pháp mà cứ làm như biết”.
Trong quan hệ hàng ngày với tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn
nhiên, chân thật, dễ tính, nên được anh em mến. Nhưng hình như anh có máu
phiến loạn, thích gây sự với lãnh đạo.
Hồi những năm 60 của thế kỷ trước, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết
một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể
coi là thường, không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc
Hiến thì phải nói: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá”.
ở Đại học Sư phạm Vinh, Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm
giáo dục, vì không chịu đi thực tế, luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng
dẫn sinh viên thực tập sư phạm. Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết
điểm này, có Lê Hoài Nam là đảng uỷ viên của trường xuống dự. Hiến nói: “
Tôi cho rằng không đi thực tế mà nắm được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn
phải đi thực tế một lần. Anh Lê Hoài Nam không đi lần nào mà nắm được thực
tế mới giỏi chứ!”
Những câu nói như thế, tôi chắc Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận.
Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao giờ cũng chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết
rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói chuyện với anh nhiều lần, tôi thấy anh bao
giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn thận.
Trở lại tính thích gây sự của Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít
ở khoa (Đại học sư phạm Vinh), hay ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào
dịp công đoàn khoa văn xếp loại cán bộ theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng
nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là không có khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả
khoa không có trường hợp nào phải xếp loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ
270
đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch: khi Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ
trương của Chi bộ là phải, nhân cuộc xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm
Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp loại được dự kiến như sau: người được xếp
loại tự xếp loại trước. Anh em trong tổ có ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến
sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ trưởng sẽ điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót
của Hiến, đại khái như sau: Anh Hiến chỉ đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm
này, khuyết điểm khác... Nhưng gần đây anh đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh
nước uống cho anh em tập tự vệ, vậy ta chiếu cố xếp lên loại A...
Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài bản đã dự kiến thế là bị
phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh, anh ta vẫn tìm được cách
thực hiện phương án cũ: “Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại B là đúng (Phân tích
khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có một vài tiến bộ nên ta
chiếu cố xếp lên loại A”. Hiến nhất định không nghe, chỉ nhận loại B thôi. Anh
nói: “Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi chẳng tiến bộ gì cả. Còn nếu các
anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của tôi thì tôi xin mách: tôi rất tiến bộ về
chuyên môn, soạn bài rất kỹ”. Mà đúng như vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy
một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc. Anh muốn ý tưởng của mình phải được
trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn tượng và có sức thuyết phục.
Hoàng Ngọc Hiến có một phản ứng khá dữ dội, chung quanh vụ “hiện
thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ
thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận
điểm nổi tiếng “hiện thực phải đạo”). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi
đến anh một buổi chiều. Anh kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài
“hiện thực phải đạo”, anh bị đánh rất mạnh. Trên tạp chí cộng sản, Hà Xuân
Trường có bài đả Hiến. Hiến viết bài tranh luận lại. Tạp chí cộng sản không
đăng, cho người đến mời anh lại toà soạn để nói chuyện. Tay phái viên đến mời
anh, nói xong, lấy cái điếu cầy định làm một hơi. Hiến quát ngay: “Thôi, không
hút. Đi ngay, không hút sách gì cả!”. Đến toà soạn tạp chí, mấy biên tập viên đã
chờ sẵn: “Nào mời anh lên gác. Chuyện văn chương phải nói nơi kín đáo”.
Hiến lại bác lại ngay: “Chuyện văn chương không việc gì phải kín đáo!”.
Hiến giải thích với tôi: “ấy đối với bọn này cứ phải tấn công như thế,
tấn công ngay từ thằng đến mời”.
Ban biên tập tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: “Hiện nay bọn Tàu
đang gây sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ
nghĩa bá quyền Bắc Kinh, không đăng bài của anh được”. Hiến phản ứng ngay:
“Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để
đánh bọn cường bạo trong nước!”.
Năm 1980, người ta tổ chức một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện
bảo tàng cách mạng xế xế Nhà hát lớn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông.
Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh, Huế ra họp.
Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh
nhắc lại cái câu đã nói ở trụ sở tạp chí cộng sản: “Tại sao ta thừa giấy để đánh
bọn cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong
271
nước!”.
Đến giờ nghỉ. Mọi người, hoặc tản ra dạo chơi ngoài vườn hoa, hoặc
ngồi trò chuyện với nhau trong hội trường. Tôi cũng ngồi lại trong hội trường
nói chuyện với mấy anh bạn cũ ở Vinh, ở Huế. Hiến cũng ở lại hội trường,
nhưng ngồi một mình cách vài hàng ghế, trước mặt chúng tôi. Hà Xuân Trường
lững thững từ hàng ghế đầu đi xuống chỗ Hiến, vỗ vai anh thân mật. Hiến gạt
phắt tay Trường ra: “Tôi không phải hạng người cho anh vỗ vai nhé!”. Trông
Hiến lúc ấy rất dữ. Hà Xuân Trường sững người và hơi ngượng. Anh phân bua
với chúng tôi: “Đấy, các anh xem, anh Hiến anh ấy như thế đấy!”.
Buổi trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi
tôi: “Sao, cậu thấy mình nói có được không?”. Tôi khen: “Khá lắm!”. Chị Tố
Nga, vợ Hiến, mách luôn: “Lẩm bẩm suốt đêm làm gì mà không khá!”.
Thì ra Hiến không phải chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa.
Hiến thế mà cũng là một tay đấu khẩu khá nhanh trí và đáo để.
Cũng vào khoảng trước sau năm 1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà
Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa học, đề tài: giáo dục tư tưởng qua giảng
dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại học Sư phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị.
Không biết bản báo cáo viết của anh gửi ra như thế nào, nhưng anh trình bầy
miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại cố tình diễn đạt cho thật ấn tượng về
cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng thẳng nói đi nói lại: “Những gì chi bộ
Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp
ta không nói. Ta chỉ nói những điều chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát
thanh, báo Đảng không nói, không viết”.
ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người
lãnh đạo hội nghị rất lo ngại (lãnh đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ
nhiệm khoa và Trần Thanh Đạm phó chủ nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải
uốn nắn lại. Anh động viên Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng
viên dự bị hay cảm tình đảng gì đó lên phê phán Hiến. Tôi không nhớ ý kiến
của cô Hoàng thế nào, chỉ nhớ một câu mỉa mai của Châu: “Đứa trẻ con ngồi
trên vai bố, cứ tưởng mình cao hơn bố”.
Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự khoe: “Tôi đã
góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học có tranh luận
học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây được cuộc tranh luận
cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên vai anh Đỗ Hữu
Châu”.
Sau hội nghị này, Trần Thanh Đạm gửi giấy cho chi bộ Đảng của khoa
Văn Đại học Sư phạm Vinh phản ánh về sự “lệch lạc tư tưởng” của Hiến.
ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến – Anh vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn
phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê được hai cái ghế salon và một cái bàn
nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố Nga, vợ Hiến giải chiếu ngồi trên
nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói đi nói lại xa xả: “Tôi không thấy
có ai ngu như anh Hiến!”. Nói mãi chán, chị bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với
tôi: “Hắn nói thế mà đúng. Như ta vẫn nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!”. Té ra,
anh lại ngẫm nghĩ về lời nói của vợ, như một đối tượng nghiên cứu.
Chị Tố Nga, vợ Hiến, là một người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt
sát chồng trước mặt khách khứa bạn bè, thậm chí trước cả học trò của chồng.
Nhưng đám học trò của anh đã có kinh nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được,
chứ người khác tưởng bở, cũng phụ hoạ theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn
Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường, bỏ ngoài tai, xem như nói ai đó, chẳng dính
dáng gì đến mình.
Hoàng Ngọc Hiến, tư duy khoa học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời
sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ dạ, cả tin.
Vào khoảng 1987, Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng có mời tôi và
Hiến vào nói chuyện với giới văn nghệ trong ấy. Chúng tôi ở với nhau độ một
tuần lễ, sau đó, Hiến vào Sài Gòn, tôi ra Hà Nội.
ít ngày sau, tôi đang ngồi ở nhà (tại Đồng Xa) thì thấy Hiến đạp xe tới.
Lúc đó mới độ 8 giờ sáng. Tôi hỏi ra bao giờ. Anh nói ra sáng nay, tàu 7 giờ
sáng tới Hà Nội. Tôi ngạc nhiên: vừa về Hà Nội đã vội đến tôi làm gì! Hoá ra
anh vừa tham gia một đảng gọi là đảng “Nhân dân hành động” và ra Hà Nội để
phát triển Đảng. Người đầu tiên anh định kết nạp là tôi. Anh nói, không sợ gì
cả. Tay thủ lĩnh là một tay tiến sỹ ở Mỹ về. Rất trí thức. Đảng này đã thống nhất
với cộng sản chuẩn bị ra đa đảng. Trong đảng này có một uỷ viên bộ chính trị
và một thiếu tá công an cộng sản. Đảng phát triển chủ yếu vào trí thức.
Anh lại hỏi, thằng Thanh nhà ông vào Sài Gòn đã có việc làm và nhà
cửa gì chưa, để anh lo giải quyết cho.
Tôi không tin, từ chối: “Cậu định làm chính trị à? Không sợ công an
à?”
Hiến có vẻ xem thường, cho tôi là thằng nhát.
ít lâu sau tôi được biết đảng này phát triển mạnh ở vùng Vĩnh Long,
vừa bị bắt một loạt. Tôi vào Cần Thơ, Dạ Ngân bảo thế.
Một thời gian sau, tôi gặp lại Hiến ở trụ sở văn nghệ.
Tôi hỏi Hiến: “Biết gì chưa?”
Hiến: “Biết rồi! Biết rồi!”
Tôi lại hỏi: “Có sao không?”
Hiến: “Không sao, không sao – Nhưng này, đừng nói với ai nhé!”
Dương Thu Hương khi biết chuyện này, nói với tôi: “Ông Hiến mà là
đàn bà thì chửa hoang hàng tỉ lần”.
Tôi cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có số “quý nhân phù trợ”. Nghĩa là
luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân vật Pie Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà
bình của L.Tolstoi. Người to lớn, ra trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến
trường, nhưng tên đạn cứ tránh không dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng,
mà lại thắng một tay thiện xạ... Hiến cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức
có quyền, hành động nhiều khi dại dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi
Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe cái vụ “phải đạo” của anh hồi 1980, anh có một cú
thoát hiểm rất ngoạn mục. Người ta tổ chức hẳn một cuộc hội nghị để đánh anh.
Lê Đức Thọ trực tiếp chỉ đạo. Loại có vấn đề như tôi, không được mời. Hơn 50
người được mời có chọn lọc để nhằm phê phán Hiến. Hiến là người thứ 50
(avant dernier) được phép phát biểu. Người cuối cùng là Chế Lan Viên (thứ 51)
. Người ta bố trí một tay sắc sảo như thế để có thể đập tan ý kiến của Hiến và
hội nghị kết thúc luôn.
Giờ nghỉ, Lê Đức Thọ trò chuyện với Hiến mới biết Hiến là người
đồng hương với mình. Cùng quê Đức Thọ, Hà Tĩnh (Lê Đức Thọ ở Nam Định,
nhưng quê gốc ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, anh em Lê Đức Thọ đều lấy biệt danh có
chữ Đức hoặc chữ Thọ: Đinh Đức Thiện, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ)
Thế là Hiến gặp may. Vì tình đồng hương, Lê Đức Thọ đã cứu anh. Ai
đó trong hội nghị nói Hiến chịu ảnh hưởng tư tưởng mỹ học của Kant. Thọ
dõng dạc khẳng định trước hội nghị: “Hoàng Ngọc Hiến chẳng kăng kiếc gì hết,
Hoàng Ngọc Hiến là Mác Lênin”.
Tình thế thành ra đảo ngược. Chế Lan Viên chót đánh Hiến, thấy thế,
đâm hoảng, bèn lảng qua chỗ Hiến đang ngồi với Lê Đức Thọ, nói khẽ với anh:
“Lúc nãy tôi có nói điều gì quá, anh bỏ qua đi cho nhé!”.
Sau này, Chế Lan Viên còn nhờ tôi nhắn lại với Hiến hai lần như thế.
Lại còn nói phách “Tôi có trọng anh Hiến thì tôi mới tranh luận với anh ấy
chứ!”.
Có lẽ vì hay gặp may mà Hiến luôn luôn lạc quan.
Lại vẫn cái vụ “hiện thực phải đạo”. Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy,
Khái Vinh có mời tôi, Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân
Nhật Tân đã lục tục đem đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài
mà khổ, bị đánh dữ quá!. Xuân Diệu nói: “Con người ta có trải qua đau khổ thì
mới nên người”. Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: “Những điều tôi
được nhiều hơn những điều tôi mất”. Và anh dẫn chứng: “Đứa con gái tôi vào
Sài Gòn, giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có
một anh phi công cho lên ngồi ghé phụ bay ra không mất tiền, vì biết là con
ông “hiện thực phải đạo”. Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại
học, rất cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện
đến luyện giúp miễn phí vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Đó là chưa kể
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài “hiện thực phải
đạo” đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới trí thức cấp
tiến.
Đúng là Hoàng Ngọc Hiến có quý nhân phù trợ thật.
Hồi Hiến sang Mỹ, có một bọn Việt kiều chống cộng quá khích định
hành hung anh. May sao lại có một thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta
tới bảo vệ – Mới đây Hiến kể với tôi như vậy.
* *
*
Tôi rất tin cậy Hoàng Ngọc Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều
mặt, đặc biệt là trong việc dùng thuốc. Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng
xương... Tất nhiên tôi có chịu ảnh hưởng anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài
liệu nào anh cho là hay hoặc nghĩ ra điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi.
Trò chuyện với Hiến bao giờ cũng có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của
mình. “Dữ quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư”. Người xưa nói thế,
vận dụng vào trường hợp Hoàng Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò
chuyện với Hiến bao giờ cũng thu lượm được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét
giáo điều và nghĩ cái gì thì nghĩ đến nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu
sau đây của Hiến là những ý kiến nghe được:
Nghiên cứu khoa học, quan trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình
và viết bằng lời văn của mình. Đọc người khác rất cần, song phải thấm thế nào
đó để trở thành của mình, để khi nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết
bằng lời văn của mình.
Quán tính của con người là thường quy những điều chưa biết vào cái
sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi. Do lười nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay chuyển được
quán tính, được cách nghĩ là khoa học.
Khoa học trước hết là đặt vấn đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn
rất khó. Thường chỉ chỉnh lại một tý. Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng
hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti vi cho hình nét hơn, âm rõ hơn.
Thí dụ, nói Đam Săn anh hùng dũng cảm là đúng. Nhưng thực ra tính
cách Đam Săn phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng mạn, ngỗ nghịch...
đặc biệt là một cá tính tự do.
Nói Số đỏ đả kích những ông chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng, nhưng
đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một xã hội hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng
buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí nhố, lố bịch... , kể cả bình dân.
Hiến khẳng định vai trò quan trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi
cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng lay động toàn bộ năng lực tinh thần của người
nghiên cứu. Trong giây phút ấy, con người, cùng một lúc, có vô số liên tưởng,
kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất sáng suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối
về nhân sinh, về văn học mới có cảm hứng dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng
làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng phát huy trực giác, khiến cảm nhận được
cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng trực giác. Sau đó mới dùng suy lý lôgic
chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán đoán trực giác của ai đó, chỉ ra chính
xác bản chất một đối tượng nào đấy, không cần lý lẽ chứng minh gì hết).
Phân tích tác phẩm gay nhất là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý
gì cả. ý là một ý nghĩa mới đích đáng trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang
suy nghĩ để giải đáp. Tác phẩm chẳng giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết,
là vô nghĩa.
Phân tích tác phẩm là phân tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề.
Phân tích một chi tiết mà mở ra cả một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích
một chi tiết như thế có sức thuyết phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan.
Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay
là có được một hai từ đích đáng kết tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là
cái thần của bài viết.
Hiến nghĩ thế nên rất chăm chỉ học chữ, học từ.
Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì học được chữ “bõ hờn”
của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi ở nhờ hồi kháng
chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều học ở sách vở. Thí dụ
chữ “hương nguyện”, “phường hương nguyện” anh học được của Mạnh Tử khi
nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ tương đương với chữ philistin
chăng?
Có những chữ thông thường nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới
nào đấy. Như “kể lại nội dung” và “viết nội dung”. (Bài “Kể lại nội dung và
viết nội dung” (Văn học gần ...và xa. NXB giáo dục 2003). Hay như chữ “trí
thức bình dân” trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB
Giáo dục 2006)... Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới.
Gần đây Hoàng Ngọc Hiến say mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của
Francois Fulien. Anh lấy làm khoái chí học được ở F.Julien, sự phân biệt giữa
tư duy Đông và Tây. Tây là chân lý (Vérité). Đông là dịch lý (transformation).
Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về đúng hay sai. Một đằng chủ trương “cùng”
hay “thông”. Đúng sai không quan trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông,
là được việc, là có hiệu quả thực tế...
* *
*
Như đã nói, Hoàng Ngọc Hiến sống rất hồn nhiên, tự nhiên.
Hồi chống Mỹ, sơ tán ở Thạch Thành, Thanh Hoá, không mấy khi có
được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh em kiếm được một đĩa thịt. Hiến vừa ăn,
vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: “Ăn thịt ngon thật!”.
Tối tối, anh rất chịu khó cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải
thiện, tin rằng ba con ốc sên bằng một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như
vậy).
Hiến hay nghĩ ra những chuyện kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ
như chuyện phân loại cán bộ khoa văn trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn
cướp và ăn cắp. Hình như tư duy khoa học mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa
lý, người ta phải thư giãn đầu óc bằng những chuyện vô nghĩa lý.
Hiến đúng là vui đâu chầu đấy.
Có một lần Ngô Thảo nhân quen một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến
và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một nhà hàng. Xe đón tôi trước, đón Hiến sau.
Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn bị ra ngõ để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến,
cầm máy trả lời: “Lão ấy mời đi họp thì đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng
giờ lắm!”.
Một lần khác, mới năm ngoái đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì
mời chúng tôi lên dự lễ khai trương ngôi trường phổ thông dân lập do anh vừa
xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà Nội lên dự cho thật long trọng. Nhưng
hôm ấy nhiều người trong danh sách mời không đi được vì bận việc hay đang đi
công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ quá, tôi nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến
chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết cũng không mời Hiến.Tôi gọi điện.
Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm đến chỗ hẹn.
Cái giống nghệ sĩ thật sự bao giờ cũng rất tự nhiên – nói như Lưu Công
Nhân, “tự nhiên như ruồi”. Họ rất khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính
trong sinh hoạt đời thường. Khoa học cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa
học cũng là một loại nghệ sĩ, nhất là khoa học về văn chương.
Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn nhiên, tự nhiên, “tự nhiên như
ruồi”.
Hiến là dân Nghệ Tĩnh nhưng lại chê dân Nghệ “cái gì cũng biết, trừ
hạnh phúc”. Nhưng chính Hiến cũng rất Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể
dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc lá, thuốc lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút
thuốc lá là thích nhất. Anh nói “Khi nào sắp chết sẽ hút lại”). Gần 80 tuổi vẫn
cả ngày ôm cái máy vi tính để lấy thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách,
dịch sách, viết sách... Tôi là dân Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này.
Hiến đích thực là dân Nghệ, đúng thế, nhưng là một tay Nghệ “cái gì
cũng biết, kể cả hạnh phúc”. Vì tôi biết chưa bao giờ anh từ chối một lạc thú
trần thế, trần tục nào.
Láng Hạ, 20.5.2007.


tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương