211
tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại
đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một
thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội
An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài.
Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào
Hội An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn
Tuân hôm sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi
chứ có sửa soạn gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi
ấy chuyện xe cộ không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường
bồ bịch với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải bao gái mà lại
được gái bao. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô
đào hát nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.
Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ.
ấy là ngày làm lễ bế giảng trường Nguyễn Du khoá một long trọng
lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ
viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần
lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi.
Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo
ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái
tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Nguyễn Đình Thi... không tài à?
Tôi cho Nguyễn Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách.
Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên)
khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy biết thế là hèn. Vì thế người có
nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một người như Nguyễn Tuân là rất
sang cho giới nhà văn.
Trong nhiều tác phẩm của mình, nhất là trong Chiếu lư đồng mắt cua,
Nguyễn Tuân thường vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng, bẩn thỉu, nhếch
nhác, rượu chè be bét, suốt ngày chui rúc vào cái màn hôi hám của ông Thông
Phu, một con nghiện bị bệnh bại liệt bán thân bất toại. Uống rượu thì say đến
mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà hò hét như thằng điên...
Thực ra trong đời thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở Việt Bắc bà
Trần Minh Tước cùng làm việc với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc vốn
quen thân với Nguyễn Tuân, nói với tôi: “Ông ấy đến cái maillot, cái quần lót
cũng giặt là cẩn thận”.
Còn uống rượu thì không bao giờ quá chén. Tô Hoài gọi là uống rượu
ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không say bét như Hoàng Trung Thông...Ông
Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về tư tưởng, từng bị cánh nhân
văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không bê tha truỵ lạc như nhiều
tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất nể Nguyễn Tuân về
212
nhân cách.
Tôi lại nghe nói, sau 1975, một số nhà xuất bản ở Sài Gòn tự nguyện
trả tiền nhuận bút cho những nhà văn “tiền chiến” sống ở miền Bắc, mà trước
1975, họ có in lại sách này sách khác để bán. Các vị đều nhận cả, riêng Nguyễn
Tuân từ chối.
Trở lại câu chuyện Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở Liên Xô. Trong
thời gian Nguyễn Tuân ở Liên Xô, người ta cử một cô gái Nga làm phiên dịch
cho ông. Cô gái rất đẹp - đẹp như tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp
như tượng thần Vệ nữ ở Milô chăng?). Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình
mười bông hồng tươi. ở Nga, giữa mùa rét, hoa hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi
một cái bàn là điện hay một cái áo bay có 7 rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không
nói. Mua về, ông tặng luôn cho cô gái phục vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì
cô biết Việt Nam còn nghèo lắm, lại đang có chiến tranh, sao ông nhà văn này
lại chơi sang thế, không dành tiền mua quà cáp gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự
mình đi mua một ít hàng rồi gói ghém, bắt Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các
nhà văn nước ông có như thế cả không? Nguyễn Tuân nói, tôi chỉ là một nhà
văn xoàng ở Việt Nam thôi. Ông nói thế, chắc là để làm sang cho giới văn nghệ
Việt Nam vốn rất nhếch nhác mỗi khi ra nước ngoài.
Hoạ sĩ Đào Đức còn kể chuyện này: Một lần Nguyễn Tuân cùng Kim
Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người ta chưa cấp tiền. Nhà văn Simônốp ngỏ
ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn Tuân từ chối, Kim Lân chả lẽ lại
nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình cảm thấy cứ y như là bị móc ví
mất 50 rúp.
Mọi người đều biết, Nguyễn Tuân là người ham chơi, ham “xê dịch”.
Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân cách. Vào lúc đã cao tuổi, ông có được mời
sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông nói với tôi: “Già rồi sang đấy mà chết ở
đấy thì nhục quá!”.
Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ được trọng là vì thế. Mình không giữ được
nhân cách thì ông ấy giữ hộ - đại diện giới nhà văn giữ hộ.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là ngông. Đúng thế. Nhưng chơi ngông không
dễ đâu. Không có tài, không có đức, chơi ngông làm sao được! Ngông có cả
một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những bậc chơi ngông xưa nay đều là
những tấm gương đạo đức cả - Tản Đà gọi là “thiên lương”:
“Hai chữ thiên hương thằng Hiếu nhớ”
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Tuân
đều thế cả. Sau Nguyễn Tuân, hình như trong giới văn học, không còn ai dám
chơi ngông nữa thì phải.
ở Nguyễn Tuân tôi thấy có một cái gì rất cổ điển, không phải chỉ trong
văn đâu mà trong lối sống, tác phong sống. Ông không chỉ viết văn cho hay, cho
đẹp mà còn muốn sống đẹp nữa.
Chất cổ điển chính là ở chỗ đó. Các cây bút hiện đại chỉ lo sản xuất văn
chương cho nhiều, cho tốt, còn sống thế nào cũng được, cốt sao cho khoẻ, cho
sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi... là
như thế.
Người xưa tư duy nguyên hợp (syncrétique), óc phân tích chưa phát
triển nên thường không phân biệt thực và hư, chân và ảo, con người và thiên
nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Cho nên người quân tử nói năng cũng có văn
vẻ, ăn uống cũng có phép tắc, chào hỏi cũng có điệu bộ, ngôn ngữ tình yêu cũng
kiểu cách, khóc than cũng lên bổng xuống trầm (văn tế), thậm chí đánh nhau mà
như vũ đạo... Cho nên Trần Hưng Đạo truyền hịch mà thành văn chương,
Nguyễn Trãi viết cáo mà hình tượng tầng tầng lớp lớp... Từ đó, không phân biệt
sự sống và nghệ thuật, cuộc đời hay sân khấu...
Nguyễn Tuân là một trí thức Tây học, một cây bút hiện đại. Những tác
giả phương Tây mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc là những nhà văn vào loại hiện
đại nhất như Marcel Proust, André Gide... Tuy nhiên ở ông vẫn có một cái gì
giống như Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà... Không phải chỉ làm nghệ
thuật mà trước hết sống cho đẹp, cho nghệ thuật. Và về nhân cách vẫn phảng
phất cái cốt cách trượng phu quân tử.
Nguyễn Tuân là cây bút có phong cách nghệ thuật rất sâu. Nhưng trong
cung cách sống nhiều khi ông cũng cố tình tạo cho mình một phong dạng
(manière) riêng khá kiểu cách: từ cách để ria mép, cách cầm cái can, ngậm cái
píp, cách đi đứng... không phải ông không có ý tạo dáng cho đẹp. Ông sành sỏi
hát ả đào, đấy cũng là một cái thú chơi cổ điển. Trước cách mạng tháng Tám,
hồi còn ở Thanh Hoá, ông mở một hiệu sách đặt tên là Thư Trang, về Hà Nội,
làm cái nhà ở Cống Mọc, ông gọi là Am Sông Tô...nghĩa là cũng thích văn vẻ
Ngay sau cách mạng tháng Tám, đến dự Hội nghị Văn hoá cứu quốc
giữa Hà Nội, ông vẫn mặc áo gấm, đội khăn xếp... tôi cho cũng là một cách
“diễn” đấy thôi – diễn trò ngông nghênh nghệ sĩ trước bàn dân thiên hạ...
Một con người như thế, tất không thích ai đến thăm khi ốm đau. Ông
có bệnh thấp khớp mãn tính nặng, mỗi lần phát bệnh, chân tay sưng tấy, co
quắp, phải vệ sinh tại chỗ, trông chẳng “mĩ thuật”, chẳng “nghệ sĩ” tí nào.
Một lần tôi đến ông, đúng lúc ông ốm. Ông đang ngồi ở mép phản,
thõng chân xuống. Có một người nữa quay lưng lại hình như một người nhà
đang làm gì để giúp ông. ông nheo mắt nhìn tôi từ xa, lúc đầu ngờ ngợ, sau
nhận ra, ông có vẻ bối rối, luống cuống:
- Sao, có việc gì thế?
- Không có gì. Đến thăm bác thôi.
- Thế thì cám ơn, cám ơn. Thôi để lúc khác nhé.
Sợ tôi chưa hiểu, ông chỉ xuống cái bô ở gậm phản...
Tôi ngượng quá, vội bỏ ra.
Một lần khác, tôi đến thăm ông cũng đúng vào lúc ông ốm. Nhưng lần
này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy có dán một tờ giấy lớn ghi mấy dòng chữ:
“Bệnh nhân Nguyễn Tuân không tiếp khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến,
xin gọi và xướng tên hai lần. Không có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho.
Cám ơn”.
Đến thăm mà phải xướng tên, ai còn đến làm gì!
Như đã nói, tôi gặp Nguyễn Tuân lần cuối cùng vào buổi sáng ngày
thứ bẩy 25 – 7 – 1987 ở trụ sở Hội nhà văn, 65 Nguyễn Du.
Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải nhận xét và nói một câu rất gở:
“Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!” Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết, chỉ sợ ốm
kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe câu nói
của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho mình vài
anh phê bình... Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa: “Vừa rồi có mấy anh
nhà văn nước ngoài đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc nào?”.
Tôi nói, thường vào ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà phê
bình họ đi ngủ cả rồi!”.
Tôi thấy ông cầm trên tay một điếu thuốc lá nhưng không hút, lại còn
xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa. Ông nói: bác sĩ nói phải hạn chế hút. Mỗi ngày
một điếu thôi, tránh hít sâu vào. Còn rượu thì cấm hẳn. Và phải tránh có xúc
động mạnh. Rồi ông cười: “Làm nghề viết văn mà phải tránh xúc động thì còn
viết gì được nữa!”.
ấy thế mà đúng 3 ngày sau ông qua đời.
Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội. Chị Ngọc Trai tổ chức một bữa nhậu.
Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh viện và tịch luôn.
Anh Đình Quang nói, lẽ ra ông chưa chết. Ông tự tử đấy. Ông nằm
cùng với một bệnh nhân nào đó. Ông khó ngủ, dậy bật đèn lên. Ông kia tắt đi.
Người bật lên, người tắt đi, cứ thế mấy lần. Bực quá, ông uống một liều thuốc gì
đó và đi luôn.
Chuyện chả biết có thật thế không. Nhưng anh Nguyễn Xuân Đào, con
trai Nguyễn Tuân lại bảo không phải. Ông chết là vì đêm ấy ông uống đến nửa
chai rượu. Thế thì có trời cứu!.
Nhưng như thế thì cũng là một cách tự sát chứ sao! Vì chính ông đã
biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc lá còn được hút mỗi ngày một điếu. Còn
rượu thì cấm hẳn.
Như vậy thì điều anh Đình Quang nói không hẳn đã sai.
Chung quanh những người nổi tiếng và độc đáo, thiên hạ thường thêu
dệt ra lắm giai thoại. Chung quanh Nguyễn Tuân xưa nay cũng lắm giai thoại.
Thí dụ, nhiều người, tôi cũng thế, nghe nói và tin ở câu chuyện này: Võ
Hồng Cương, bí thư đảng đoàn Bộ Văn hoá đến thăm Nguyễn Tuân. Đứng dưới
sân, Cương gọi vọng lên lầu (Nguyễn Tuân ở trên tầng 3, nhà số 90 Trần Hưng
Đạo): “Anh Nguyễn Tuân có nhà không?”. Nguyễn Tuân mở cửa sổ nói chõ
xuống: “Nguyễn Tuân có nhà nhưng không tiếp khách” (Có “dị bản” khác:
Nguyễn Tuân mở cửa sổ trả lời Võ Hồng Cương: “Nguyễn Tuân đi vắng”).
Nghe có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!. Nhưng sự thật có chuyện ấy không? Tô
Hoài nói, Nguyễn Thành Long nó bịa ra thế thôi. Tôi hỏi Nguyễn Tuân rồi.
Chuyện bịa, không có đâu.
Một thí dụ khác: Tạ Tỵ trong Nam, hồi trước 1975, có viết một cuốn
sách về chân dung một số nhà văn. Anh ta dựng đứng lên một chuyện về
Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh viện Phủ Doãn. Ông thèm rượu
quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường chốn ra bờ hồ Hoàn Kiếm uống rượu
và chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!
Tôi đọc bài viết này của Tạ Tỵ đúng vào thời gian luôn tiếp xúc với
Nguyễn Tuân để làm Tuyển tập.
Giờ lại nghe chuyện anh Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!.
Quan Hoa, cuối thu năm 2006.
Chương XIV: Nguyên Hồng
Bài nghiên cứu văn học đầu tiên của tôi là bài viết về Nguyễn Hồng. ấy
là một chương trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 –
1945, viết chung giữa Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Vinh, xuất
bản năm 1963.
Thỉnh thoảng tôi có gặp Nguyễn Hồng, thường ở trụ sở Hội nhà văn
(65 – Nguyễn Du), đôi khi ở báo Văn Nghệ (17 Trần Quốc Toản).
Nguyễn Hồng cũng đến tôi mấy lần, khi ở nhà K2 , khi ở nhà B2 khu tập
thể cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội. Có lần ông ở cả ngày, ăn với gia đình tôi
hai bữa cơm.
Trông bộ dạng Nguyễn Hồng, không ai nghĩ là một nhà văn. Mặt đen
sạm, để râu dài. áo cánh màu xanh chàm, bốn túi, mũ lá, dép lốp xỏ cả hai quai
hậu, đi xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mất cả chắn xích lẫn chẵn bùn, đèo đằng sau
một bị cói vừa đựng tài liệu, vừa đựng một chai rượu cuốc lủi, kèm theo mấy
thanh giang chẻ lạt.
Lần thứ nhất, ông đến tìm tôi khi tôi ở khu nhà lá thuộc dãy nhà K2 ,
chung quanh toàn là cán bộ giảng dạy văn học mà không ai biết dó là nhà văn
Nguyên Hồng. Họ cứ nghĩ là một ông phụ huynh học sinh ở quê ra xin xỏ gì đó
cho con đang học vợ tôi. Ông dắt xe vào khu nhà tập thể, hỏi thăm đúng vào
thằng con tôi đang đá bóng ở đầu dãy nhà. Nó không thèm dẫn ông về nhà, mà
cứ đứng từ xa chỉ chỏ.
Nhưng nghe chị Ngọc Trai nói về Nguyên Hồng mới thật thương.
Ngọc Trai từng ở với Nguyên Hồng trong một lớp bồi dưỡng nhà văn tại Quảng
Bá. ấy là lớp học của một số cây bút trẻ chuẩn bị đi B. Ngọc Trai phụ trách
quản trị. Nguyên Hồng phụ trách chuyên môn. Học viên đi B được hưởng tiêu
chuẩn ăn cao hơn. Ngọc Trai và Nguyên Hồng không đi B nên không được
hưởng tiêu chuẩn ấy. Vì thế ăn chung một chế độ, Ngọc Trai và Nguyên Hồng
phải góp thêm tiền. Nguyên Hồng quyết định ăn nửa suất cơm. Ngọc Trai
khuyên thế nào cũng không nghe.
Bữa ăn, học trò thương thày cứ chia cho Nguyên Hồng cả suất như mọi
người. Nguyên Hồng không bằng lòng: “Lại có đứa nào ăn gian đây! Tao có
nửa suất mà sao lại như mọi người?” Ngọc Trai bàn hai người ăn chung,
Nguyên Hồng không nghe. Nguyên Hồng rất đạo đức và gương mẫu. Sáng dạy
ông tập thể dục. Cũng đeo gạch vào balô chạy, rồi tập đi. Ngọc Trai khuyên
không nghe.
Nguyên Hồng đi liên hệ công tác với Vụ Tổ chức Trung ương. Ngọc
Trai đề nghị liên hệ ôtô. Nguyên Hồng cũng không nghe, cứ đi xe đạp, vì cho là
gần, ngay Bách Thảo thôi mà. Còn người ta coi thường vì có vẻ lúi xùi thì
không lo. Ông nói: “Khinh trọng là do nhân cách của mình chứ!
Nguyên Hồng đi xe đạp cùng Ngọc Trai. Buồn cười lắm. Xe không có
chuông. ông vừa đi vừa hô bọn trẻ con trên đường: các cháu cho bác đi nhờ nào,
xe đạp đây!... cứ thế suốt dọc đường.
Nguyễn Tuân rất bực với Nguyên Hồng: “Này sao anh lại tự làm khổ
mình như vậy, anh có đến nỗi nào!”. Nguyên Hồng nói: “Anh khác, tôi khác,
tôi làm sao giống như anh được! Người ta có số cả. Số tôi nó thế!”
Có lẽ số Nguyên Hồng thế thật. Sống cũng khổ, chết cũng khổ.
Khi Nguyên Hồng chết, nhà còn có năm bơ gạo, một con gà nhỏ.
Trong túi còn đúng 20 đồng. Hàng xóm cho vay cỗ quan tài. Nguyên Ngọc báo
anh em lên đưa ma, nói, Nguyên Hồng nghèo lắm đấy, không có gì thết đãi đâu.
Chưa làm điếu văn vội, Nguyên Ngọc trước hết lo chạy lên tỉnh, lên huyện, lên
đảng uỷ xã bàn với họ cho tiền, cho lợn, cho gạo để làm ma. Hôm đưa ma
Nguyên Hồng, tôi không lên được. Ngô Thảo có tả quang cảnh đám ma thật là
tội nghiệp: xe tang từ trên đồi đi xuống dốc, phải hò nhau đẩy trở lại làm phanh.
Phường kèn toàn là thương binh cụt tay cụt chân (phải là thương binh mới được
vào hội kèn, ăn công điểm của hợp tác xã).
Nguyên Hồng có người con cả là Hồng Hà (Nguyên Hồng sinh Hồng
Hà khi gia đình ông ở bãi Phúc Xá, bờ sông Hồng) dạy tiếng Anh ở Đại học Sư
phạm Ngoại ngữ Hà Nội, cũng ở gần khu nhà ở của cán bộ khoa Văn Đại học
sư phạm chúng tôi. Một lần biết ông đang ở chỗ Hồng Hà, tôi đến thăm. Không
thể tưởng tượng được nhà ở của một cán bộ giảng dạy đại học mà lại khốn khổ
đến thế. Như một cái lều vịt, dựng trên một bãi rác, sau lưng là một dãy nhà xí,
cái nào cũng mất cửa.
Nguyên Hồng đang ngồi uống rượu. ông nhắm rượu với một đĩa rau củ
cải luộc (ngọn rau, lá rau chứ không phải củ cải). Vậy mà ông cũng nhắm nháp
ra vẻ đắc ý lắm. Nguyễn Đình Thi còn nói với tôi, có lần còn bắt gặp ông nhắm
rượu với cơm nguội. ấy là cái hồi ông phụ trách trại bồi dưỡng nhà văn trẻ ở
Quảng Bá - người ta thường gọi đùa là ông Đốc Hồng. Ông dặn mọi người, sau
10 giờ tối, ông đóng cửa phòng, làm việc riêng, không tiếp khách. Hôm ấy,
Nguyễn Đình Thi có việc gì đó khẩn cấp cần gặp ông. Anh đẩy cửa phòng
Nguyên Hồng sau 10 giờ tối, thấy ông đang nhắm rượu với cơm nguội. Nguyễn
Đình Thi cười: “Đấy, nhà văn Việt Nam ăn chơi như thế đấy!”
Trở lại chuyện tôi đến thăm Nguyên Hồng ở nhà Hồng Hà.
Ông nói: “Chỗ này giống hệt như nơi ngày xưa tôi viết Bỉ vỏ. Chỗ viết
Bỉ vỏ như thế nào? - Đây, ông viết trong lời Tựa cuốn tiểu thuyết: “Bỉ vỏ đã viết
xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của
một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro. Bỉ vỏ đã viết
xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ con
khóc...”
Trò chuyện với Nguyên Hồng, tôi mới biết ông bị tù từ tuổi thiếu niên.
Ông có một người chú dượng thường ức hiếp, hành hạ vợ, tức là một bà cô của
ông. Ông tức quá, rút dao đâm ông này và bị đưa đi trại cải tạo trẻ con hư (đâu
như ở Bắc Giang).
Lần thứ hai ông bị tù vì tham gia phong trào thanh niên dân chủ của
Đảng cộng sản cuối thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 – 1939) ông bị
bắt về tội tàng trữ tài liệu cộng sản, giam ở Căng Bắc Mê, Hà Giang.
Không phải ngẫu nhiên mà ông hay viết về nhà tù: Bà Vỷ, Khói ken
nếp và xà lim, phóng sự Tù trẻ con, Tù đàn bà, Tiểu thuyết Bỉ vỏ, Cơn bão đã
đến...
Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Nguyên Hồng rất hăng hái
hoạt động. Ông cùng Như Phong tích cực viết cho các báo chí tiến bộ như Thế
giới, Mới, Người mới. Rất phục những chiến sĩ cộng sản trong nhóm Tin tức,
muốn sáng tác theo khuynh hướng tả thực xã hội chủ nghĩa. Sau khi viết Bỉ vỏ,
Những ngày thơ ấu, ông có vị trí khá nổi nên có quan hệ với Mười Cúc, Nguyễn
Thiện Chân. Lê Quang Hoà, Bùi Vũ Trụ... Ông say mê đọc Le Travail,
Rasssemblement, Bạn dân, Thời thế. Đọc Gorki, L.Tolstoi, La Resurrection,
Voyage à Moscou của Henri Barbusse, sách của Hải Triều viết về ba nhà văn
cách mạng. Đọc Ngục Kontum của Lê Văn Hiến, Một ngày ngàn thu của Tôn
Quang Phiệt... Rất mê Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (b) Liên Xô. Ngày
1.5.1938, ông đi nghe Trần Huy Liệu diễn thuyết ở Đấu Xảo. Phan Bôi có mở
một lớp Mác xit, ông có dự cùng với Trần Quang Huy, Đào Duy Kỳ, Nguyễn
Hữu Dụng, Thành Ngọc Quảng, Nguyễn Thường Khanh, Như Phong, Đào Văn
Trường, Trần Đình Chi. Lớp mở ở Phạm Phú Thứ. ông nói, nghe giảng chán bỏ
mẹ, đọc sách thú hơn. Ông nhớ có đọc một cuốn sách vẽ Gorki như con gà ủ
các nhà văn trẻ...
Lúc ấy ông tự coi mình đích thực là cộng sản rồi. Ông quyết chuyển đề
tài viết về giai cấp vô sản. Ông viết về công nhân, về thợ mỏ, về phu đồn điển:
Một quả đấm, Đến cây số 13, Người đàn bà Tầu, Đẹp, Những giọt sữa...Ông đi
vào mỏ Vàng Danh và viết Thanh niên trong bụi đen... Tinh thần lúc ấy hết sức
lạc quan tin tưởng. Ông viết Nắng mới (Đăng trên báo Người mới) với tinh thần
ấy.
Năm 1939, thực dân bắt đầu khủng bố.
Tháng 9 – 1939, ông bị bắt. Lý do: tàng trữ tài liệu cộng sản. Đó là
cuốn Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ. Lúc bị bắt, ông đọc câu thơ Tố Hữu và
rất lấy làm tự hào:
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bặch linh hồn trong bụi bẩn.
ở Căng Bắc Mê, Tô Hiệu mở lớp huấn luyện về lý luận. Dự lớp có Tô
Quang Đẩu, Ngô Minh Loan, Hồ đen, Trần Các, Tô Dĩ, Phan Bôi, Xuân Thuỷ,
Nguyên Hồng. Ông nói, chúng tôi hát rất hồn nhiên, rất say sưa, say lý tưởng,
sống cứ như trong mơ...
Trong tù có những hình ảnh rất đẹp. Ông nhớ hình ảnh chị Bùi Đình
Đổng bụng chửa, ung dung vào xà lim với chồng, dắt theo đứa con lên ba. Đẹp
nhất là hình ảnh Tô Hiệu, áo cổ lọ, mũ nồi, ngực dẹt, tiếng khàn khàn vì bị tra
tấn, làm việc say mê chuẩn bị cho lớp huấn luyện. Ai dự lớp huấn luyện coi như
không được tha.
Trong tù, có tin Liên Xô ký hiệp ước với Đức. Lúc ấy, vấn đề đặt ra là:
Lý tưởng và lòng tin? Không có lòng tin thì làm sao chống lại được sức mạnh
của đế quốc hết sức ghê gớm lúc bấy giờ.
Nhưng nghe Tô Hiệu giảng bài, sức thuyết phục còn hơn cả sách vở.
Cái feu, cái ánh sáng ở con người Tô Hiệu rất thuyết phục! Lớp học mỗi ngày
giảng ba buổi. Giờ khác thì soạn bài, ghi trên giấy cuốn thuốc lá, thuốc lào, giấy
gói bánh khảo. Tô Hiệu viết từ 9 giờ tối đến 2 giờ đêm... Sáng đi làm cỏ vê thì
chuyển tài liệu cho các trại.
Vợ chồng Bùi Đình Đổng và Tô Hiệu, sau này được Nguyên Hồng
dùng làm nguyên mẫu cho mấy nhân vật cách mạng của ông trong bộ tiểu
thuyết Cửa biển.
ở tù ra, Nguyên Hồng lấy vợ. Chả quen biết gì nhau đâu, chỉ nhờ mối
lái mà lấy nhau. Đám cưới không có chú rể. Người ta đưa dâu về nhà chồng ở
xóm Cấm, Hải Phòng, nhưng chú rể, tuy đã ra tù, vẫn phải chịu chế độ quản
thúc ở Nam Định.
* *
*
Nguyên Hồng rất giầu tình cảm, rất dễ xúc động, hay khóc. Các con
hay cười bố về chuyện này. Mẹ ông chết năm 1973, ông thương khóc như mưa
như gió, dữ dội quá, làm cho vợ ông sợ quá, phát ốm. Lúc sống, mẹ con hay gắt
nhau, thế mà lúc chết thì khóc như thế. Hôm tôi lên Nhã Nam ăn một trăm ngày
Nguyên Hồng, bà Nguyên Hồng nói với tôi như vậy.
Ông Hoài Thanh cho biết, Nguyên Hồng có lúc đang nói trên diễn đàn
hội nghị, bỗng dừng lại: “Các đồng chí cho tôi khóc một lúc đã”.
Hoài Thanh có vẻ nghi ngờ sự chân thật của Nguyên Hồng, vì thấy có
một cái gì không bình thường trong cách biểu hiện cảm xúc của ông. Thực ra
chính vì ông có một trái tim khác thường – một trái tim lớn. Cho nên trong suốt
cuộc kháng chién 9 năm, đi đâu ông cũng cõng balô tập bản thảo tiểu thuyết
Sống mòn dày cộp của Nam Cao. Mùa hè ông có thể ngồi quạt cho các bạn bè
ngồi viết văn. Trước cái chết oan ức và vô cùng thảm khốc của Lan Khai, ông
gửi cho vợ Lan Khai những dòng chữ như viết bằng máu:
Sống lầm than, chết cũng lầm than
Viết mọi rợ, chết vì mọi rợ.
Một ngọn đèn xanh, hai dòng lệ đỏ...
Kim Lân còn chứng kiến Nguyên Hồng vừa viết văn vừa khóc. Khóc
nức nở. Vừa đấm lưng vừa khóc. Thương cả nhân vật do mình hư cấu ra. Trong
Cửa biển, có nhân vật tên là Gái Đen, phu bến tầu Hải Phòng. Người rất tốt, gia
đình có truyền thống yêu nước, nhưng lấy nhầm phải một thằng phản bội cách
mạng, có mang với nó. Đau khổ quá, lúc trở dạ đẻ, cô quằn quại, vật vã, đẻ
xong thì chết. Ngồi viết ở Đồi Cháy, Nhã nam, đến chỗ Gái Đen chết, ông vừa
khóc vừa chạy xuống bếp, nói với cô con gái đang nấu cơm: “Con ơi, Gái Đen
chết rồi!”. Hôm ở trụ sở báo Văn nghệ, thuật lại chuyện này, ông cũng khóc.
Nói chuyện với ông, tôi rất ngại. Vì ông khóc mà mình chẳng thấy xúc
động gì cả, y như thằng không có tình cảm. Mà nhìn người đàn ông râu ria ngồi
khóc, trông rất tội.
Giầu lòng thương người nên Nguyên Hồng quan niệm chủ nghĩa hiện
thực không tách rời tình cảm đối với nhân dân lao động. Cho nên ông không
thoả mãn với chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng.
Ông không thích Mạnh Phú Tư, Tô Hoài, cho là nhạt, không có tâm
huyết, thiếu tình người. Ông thích Hồ DZếnh, đánh giá cao Am cu li xe của
Thanh Tịnh là vì thế. Nguyên Hồng cho tả thực xã hội (hồi ấy người ta không
nói hiện thực mà nói tả thực) phải gắn bó với người lao động nghèo khổ, yêu
thương và có trách nhiệm với người cùng khổ. Vì thế, ông cho Nguyễn Công
Hoan không phải là tả thực. Cũng vì thế mà trong thời kỳ Mặt trận dân chủ
Đông Dương, chịu ảnh hưởng của phong trào cộng sản, ông bắt ngay lấy học
thuyết giai cấp. Ông tự thấy không phải không có tinh thần yêu nước và lòng tự
hào dân tộc, nhưng say giai cấp hơn. Đây là chỗ khác với phần lớn các cây bút
tiểu tư sản đương thời. Họ nhậy cảm với vấn đề dân tộc, còn chuyện giai cấp thì
rất khó “vào”.
Nguyên Hồng thì say giai cấp. Ông viết Người đàn bà Tầu (1939), ca
ngợi tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản.
Người đàn bà Tầu, ông coi đấy là một bước rẽ của mình về tư tưởng và
nghệ thuật.
Nhưng cũng là bước rẽ vào nhà tù - ông nói với tôi như vậy.
* *
*
Lần thứ hai, Nguyên Hồng tìm đến tôi, khi gia đình tôi đã chuyển lên ở
nhà B2, tầng năm. Lần này ông ở lại với gia đình tôi cả ngày
Thông thường người uống rượu, thích thuốc lá, trà tầu. Nguyên Hồng
đi đâu cũng xách theo chai rượu, nhưng không hút thuốc lá, uống trà tầu. Trời
nóng ông chỉ xin một cốc nước lạnh.
Hôm ấy đứa con gái tôi mới học lớp một. Nó đi học về, phàn nàn là cô
giáo bắt làm một bài tập kể tên các loài chim có ích. Nguyên Hồng đã gợi ý
giúp nó làm bài tập ấy.
Tôi nhớ lần gặp ấy, Nguyên Hồng có nói một câu mới nghe có vẻ vô
lý, nhưng nghiệm ra thấy rất đúng: “Thày giáo Mạnh này, bọn văn xuôi chúng
tôi rất dại, chỉ có bọn làm thơ là khôn”.
Sự thật quả có thế. Mấy ông văn xuôi thường hay bị đánh: Nguyễn
Tuân (Phở, Tình rừng, Tờ hoa...), Nguyên Hồng (Con hổ ở Suối Cát), Nguyễn
Huy Tưởng (Một ngày chủ nhật), Tô Hoài (Mười năm, Dế mèn phiêu lưu ký),
Nguyễn Thành Long (Cái gốc), Nguyễn Khải (Đối mặt), rồi Phùng Quán, Trần
Dần, Nguyên Ngọc, Nguyễn Dậu, Hà Minh Tuân... Còn bọn làm thơ, phần lớn
là quan chức cao cấp, được Đảng tín nhiệm: Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên,
Xuân Diệu, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi. Thế hệ sau là Bằng Việt, Hữu Thỉnh,
Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa... Tất nhiên có ngoại
lệ, nhưng không nhiều. Phần lớn đúng như Nguyên Hồng nói.
Trong hoàn cảnh của chính thể ta, tôi cho Nguyên Hồng là người cứng
cỏi hơn cả, bản lĩnh hơn cả. Hồi anh Nguyễn Đình Nghi đến thăm tôi, tôi có
tặng anh cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, trong đó có
bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết. ở bài này, tôi có ý chê Nguyễn Đình Thi thiếu
dũng khí. Nguyễn Đình Nghi đọc sách và phôn cho tôi, ý nói nên thông cảm với
giới văn nghệ dưới chính thể này. Anh nói, anh là con ông Thế Lữ, nên được
tiếp xúc nhiều với giới nhà văn. Anh biết, chẳng ai có dũng khí được đâu, kể cả
Phan Khôi, Nguyễn Tuân.
Đúng thế thật. Nguyễn Tuân vẫn được tiếng là ngang bướng, vậy mà
tôi nghe nói, có lần ông vừa uống rượu vừa khóc: “Tôi được như thế này là vì
biết sợ”.
Nguyên Hồng không sợ. Hồi ông phụ trách thư ký toà soạn tuần báo
Văn, tờ báo bị quy là Nhân Văn ngóc đầu dậy, ông không chịu, không cho mình
là sai. Ông từ chối kiểm thảo, từ chối đi thực tế cải tạo tư tưởng, trong khi hầu
hết đều tự kiểm thảo và đi thực tế: Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn
Khải, Tô Hoài đi Tây Bắc, Điện Biên, Huy Cận đi vùng mỏ, Đào Vũ đi nông
thôn...v.v
Nguyên Hồng không đi. Ông khinh tuốt, cho tất cả chúng nó đều hèn.
“Tao đéo chơi với chúng mày nữa” - ông tuyên bố thế và bỏ ra ngoài biên chế,
đưa cả gia đình lên Nhã Nam , trở lại Đồi Cháy, nơi ông sơ tán thời khángchiến
chống Pháp. Ông đã phải trả giá rất đắt cho thái độ cứng cỏi này. Đang có nhà
cửa, việc làm ở Hà Nội mà lại bỏ đi như thế, ở thời bao cấp, là một hành vi hết
sức dũng cảm, thậm chí liều lĩnh. Lên Nhã Nam , một phiếu gạo của ông (13 cân
rưỡi) nuôi 9 người: một vợ và 7 con bé lắt nhắt. Lại còn mẹ ông nữa lúc ấy còn
sống. Đói theo nghĩa đen! Vợ đi chăn bò cho hợp tác xã, mùa đông phải gặm
một con cá mắm khô cho đỡ rét. Các con thì mò cua bắt ốc. Ăn ngô ăn khoai
thay cơm.
Hôm cúng 100 ngày Nguyên Hồng (Nguyên Hồng mất ngày 2.5.1982,
một trăm ngày là 10.8.1982), tôi có lên dự cùng với Nguyễn Xuân Sanh và
Vương Trí Nhàn.
Này đây là Đồi Cháy, ấp Cầu Đen đây. Nơi từng hội tụ một số gia đình
văn nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp: Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyên Hồng,
Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn. Ngày xưa không biết quang cảnh thế nào, còn giờ
đây chỉ có căn nhà của Nguyên Hồng. Nhà lợp ngói, tường đất (gọi là tường
trình). Một cái bếp. Trên chái nhà thấy còn treo một cái bàn thấp, nhỏ, gỗ tạp,
giống như một cái kỷ nhưng rất thô sơ. Nguyên Hồng thường đặt bàn lên
giường ngồi viết, hoặc đem ra gốc cây khế góc sân, giải chiếu ngồi làm việc.
Khoảng 9, 10 giờ sáng ngày 2.5.1982 – bà Hồng kể - Nguyên Hồng
đang làm việc ở gốc khế, xoay ra vác đất đắp vào chân tường nhà bếp. Tường xi
măng mà không có móng, sợ chuột đào đổ, nên phải đắp đất cho vững. Bà Hồng
bảo thuê thợ, ông không nghe. Trời mưa lất phất. Ông thấy mệt, giải chiếu nằm
nghỉ ở bờ tre. Bà Hồng dìu về nhà ngang, sau lên nhà trên. Ông tắt thở khoảng 2
giờ chiều. Trước khi chết chỉ đập đập tay xuống giường có vẻ bực bội, nói với
vợ, gọi cho Hội nhà văn. Bà Hồng thở dài “Ông ấy cả đời chả bao giờ được
sướng. Uống rượu chả có gì nhắm cũng khề khà. Trông dáng dấp như anh cụ li
xe ngồi nhắm rượu ở vỉa hè. Túng thiếu thế, nhưng có tiền (tiền sách) là cúng
ngay cho xã để xây dựng trường học (300 đồng)”.
Tôi thấy trong nhà có một cái tủ ọp ẹp, không có khoá, mở ra thấy chất
đầy bản thảo của Nguyên Hồng. Tôi tìm thấy một cuốn nhật ký. Đọc mấy trang,
thấy hoàn cảnh gia đình Nguyên Hồng hồi ấy thật bi đát. Tôi có ghi được mấy
đoạn:
21.4.1968. Nhà tôi đi lĩnh ngô về thì bị hen. Tôi lại phải làm cơm...
24.4.1968. Sáng tôi đi chợ Nhã Nam mua dây khoai cho lợn ăn bữa
cuối cùng. Khoai lang bán 11 đồng một gánh, tôi không dám mưa. Mua thêm
chục mớ rau muống để về cấy. Tôi đến hàng chị Lương xem ra làm sao, nhưng
không mua được gì cả. Tôi đã bắt đầu viết bản thảo ba “Đôi chim tan lạc và
anh bộ đội”.
26.4.1968. Tôi sang huyện. Mua đôi dép cho Thư 5đ5 và bé Diệu cái
bàn chải đánh răng. Xin mua được 3 thếp giấy và 2 cân dầu.
28.4.1968. Nhà tôi trả trâu. Cái Nhã cắt cỏ, cái Thế đi chăn lần cuối
cùng: “Trâu ơi! Tao giả mày, tao nhớ mày lắm!”. Nó tần ngần mãi khi đưa trạc
cho cái Hạnh.
Mẹ tôi đi xin cơm cho con mèo mướp. Vợ tôi nhá ngô cho các gà con.
Tôi giằm ngô, những hột nở mềm nhất cho mèo ăn.
Chủ nhật trống rỗng. Bầu Hội đồng nhân dân tỉnh. Nhã bắt được 40
con cua. Nhã nấu canh cua với rau khoai lang. Tôi nhắm rượu với mấy con cua
con xào tỏi... Thư, Nhã làm đất trồng rau dền. Bãi rau muống đã hái được.
29.4.1968. Cái Diệu khoe “Nhà cái Quỳnh sắp nhịn đói, nhà ta nhịn
đói đã từ lâu rồi!”. Hôm nhà tôi ốm, nó cũng khoe với các bạn Quỳnh, Các
:”Bu tao sắp chết rồi!”
Nhà tôi rên lên: “Phải, tao sắp chết rồi đây”
Tình cảnh Nguyên Hồng như thế mà không ai dám cứu. Hội nhà văn,
Tỉnh uỷ Bắc Giang, Hội Văn nghệ Hải Phòng đều sợ, không dám hỏi han gì
đến.
Nhưng hoàn cảnh như thế mà Nguyên Hồng vẫn viết, hết Cửa biển (4
tập, mỗi tập 500 trang) lại Núi rừng Yên Thế. Lao động như thế, ăn uống như
thế, ông sống được đến ngoài 60 tuổi kể cũng giỏi!.
Bản lĩnh Nguyên Hồng như thế nên Nguyễn Tuân rất phục. Khi
Nguyên Hồng mất, người ta làm lễ viếng ở 51 Trần Hưng Đạo. Nguyễn Tuân
phát biểu, vừa nói vừa khóc. Ông còn nói với chị Ngọc Trai: “Người ta cứ bảo
tôi bướng, chứ tôi bướng sao bằng Nguyên Hồng!”
Chính trong lễ viếng Nguyên Hồng hôm ấy, chị Lê Minh, phụ trách
mục Văn nghệ trên báo Nhân dân, đặt tôi viết một bài về Nguyên Hồng. Tôi
viết một hơi bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, lấy chuyện mau nước mắt
của ông làm lời kết: “Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy liệu
có bao giờ khô cạn được chăng?”.
* *
*
Nguyên Hồng, trong sinh hoạt, có nhiều cái hết sức nhếch nhác. Xem
Cát bui chân ai của Tô Hoài thì đủ rõ. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông lâm vào
tình trạng nhục nhã, ê chề như trường hợp kể sau đây.
Tôi có một anh bạn thân tên là Trần Văn Lộc. Lâu ngày quá, giờ tôi
không còn nhớ đã quen Lộc trong trường hợp nào và từ bao giờ.
Hồi xưa anh học Sư phạm trung cấp ở Khu học xá Việt Nam tại Nam
Ninh (Trung Quốc). Sau lại về học tiếp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Có một hồi
không hiểu sao anh lại tự sát nhưng cứu được. Tôi đến thăm anh ở bệnh viện,
anh ôm lấy tôi khóc ồ ồ, rất tội.
Trần Văn Lộc là em ruột Trần Văn Nhung. Hồi Nhật đảo chính Pháp ở
Hà Nội (9.3.1945), Trần Văn Nhung theo Nhật đánh Pháp và bị tử thương.
Thời gian học ở khu học xá Nam Ninh, Lộc bị bệnh sa ruột (gọi là sa
đì) phải vào chữa ở bệnh viện Nam Ninh. Đúng lúc ấy, Nguyên Hồng cũng sang
điều trị tại đấy, và cũng bị bệnh ấy. Bị bệnh này thì phải giải phẫu. Giải phẫu thì
phải làm vệ sinh cẩn thận, trước hết phải cạo hết lông ở quanh dương vật rồi bôi
thuốc sát trùng.
Nguyên Hồng lên bàn mổ trước. Mấy cô y tá Trung Quốc trẻ trung,
hồng hào, trắng trẻo, làm công việc này một cách rất tỉ mỉ, cẩn thận, nên kéo dài
rất lâu. Nguyên Hồng hoảng quá. Phải làm sao át đi những ý nghĩ bậy bạ. Ông
bèn nghĩ đến đất nước đang có chiến tranh, khói lửa mịt mù, nhân dân cực khổ.
Nhưng không sao át được. Cái ấy dần dần cương lên. Nhưng cô y tá cứ tiếp tục
công việc một cách tỉ mỉ kỹ lưỡng. Cuối cùng một việc “quốc sỉ” đã xẩy ra, nó
vọt vào áo của cô y tá. Cô gái cứ coi như không có chuyện gì, thản nhiên lau
chùi đi và tiếp tục công việc của mình.
Giải phẫu xong, Nguyên Hồng về phòng, kể nỗi nhục nhã này với Trần
Văn Lộc.
Lộc sợ quá, vội buông màn, tự làm vệ sinh trước.
Con người này quá giầu xúc cảm, lại giầu tưởng tượng. Xuân Diệu nói
Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn là thế.
Nhưng lý trí yếu, không làm chủ được. Nguyên Hồng có 7 con. Vợ cứ
đẻ sòn sòn. Xuân Diệu thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông
cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Ông bực với Nguyên Hồng: “Sao đẻ
nhiều thế?”. Nguyên Hồng có câu trả lời rất lạ: “Vì vợ tôi nó xấu”.
Xuân Diệu kể với tôi chuyện này, và nói anh không hiểu được ý nó
muốn nói gì.
Tôi nghĩ chắc là không làm chủ được cảm xúc, không làm chủ được
bản năng thế thôi.
* *
*
Nhưng Nguyên Hồng có mấy ông con thật không ra gì. Luôn oán bố.
Bố chết rồi vẫn thù oán. Tô Hoài nói với tôi như vậy. Đang yên đang lành ở Hà
Nội, đùng đùng đưa cả nhà lên cái quả đồi sỏi đá heo hút, khiến vợ con đói
khát, phải mò cua bắt ốc, ăn khoai ăn sắn. Nhưng bố chết rồi vẫn còn thù oán thì
quá tệ. Mà cái lý do ông bỏ biên chế, bỏ Hà Nội, phải nói là rất đáng phục chứ!
Hồi Hải Phòng tổ chức một cuộc hội thảo về Nguyên Hồng nhân ngày
giỗ đầu của ông (Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng),
người ta cho xe đón Hồng Hà (anh con cả của Nguyên Hồng) đi dự. Anh ta
không đi.
Vào khoảng 1986, 1987, tôi có biên soạn cuốn Nguyên Hồng, con
người và sự nghiệp. Tôi nói với Hồng Hà về bảo mẹ kể lại những kỉ niệm về bố
rồi viết lại cho tôi một bài để đưa vào tập sách. Anh ta không làm.
Thế mà sinh thời, Nguyên Hồng từng làm một bài thơ dài rất thống
thiết: “Hồng Hà, con ơi!”
Tôi lo lắng cho cái tủ không khoá ở Nhã Nam dựng các bản thảo, nhật
kí của Nguyên Hồng, nay có còn không?
Nguyên Hồng còn có một người con trai khác tên là Giang vẫn ở Nhã
Nam. Hôm tôi lên thăm mộ Nguyên Hồng, có gặp Giang. Anh ta không nói gì
về sự nghiệp của bố mà cứ khuyên tôi nghiên cứu Tản Đà. Mà cứ nói đi nói lại
mấy lần. Trong khi đó, chưa có ai sưu tầm tài liệu để làm Toàn tập Nguyên
Hồng.
Đúng là Nguyên Hồng chết rồi vẫn khổ!
Láng Hạ 30.12.2007.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |