200
mích thế nào, không ở được với nhau, cứ đến ở nhà Vũ Trọng Phụng. Đúng là
một anh thần kinh!
- Tôi ghét anh Vũ Đình Liên. Tôi biết hồi trước anh ta có chơi bời gì
đâu. Thế mà cứ nói dối là ngày xưa tôi cũng chơi bời cô đầu, cô đít, ra vào tiệm
ăn, tiệm hút... Giống như cái anh Vũ Ngọc Phan. Hay gì, đẹp đẽ gì cái đó mà
cũng phải nói dối, cứ “hư cấu” ra làm cái gì.
Ông lắc đầu, để tay lên ngực; “mùa rét, mệt”. Ông lấy một miếng dứa
ăn tự nhiên, uống một hớp rượu trong cái ly uống sâm banh – ly tròn có chân.
- Tôi đã viết trong bài đăng ở Tao đàn: Vũ Trọng Phụng chết ở ngôi
nhà ngay ngoài phố, gần Cầu Mới, chỗ Ngã Tư Sở, đường Hà Nội – Hà Đông.
- Tôi hỏi: Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện?
- Có, Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện, để kéo dài cuộc sống, vì anh
ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về nhà.
- Bác quen Vũ Trọng Phụng từ hồi nào?
- Không nhớ.
- Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
- ờ.
- Bác có đến chỗ ở cuối cùng của Vũ Trọng Phụng và có đưa ma Vũ
Trọng Phụng?
- Có. Tôi không thể nào nhầm, nhầm thế nào được! Tôi ghét cái anh
Vũ Đình Liên...
Tôi tranh thủ chuyển sang hỏi ông cái điều mà tôi luôn trăn trở:
“Người ta hay nói về phong cách Nguyễn Tuân. Nhưng bác lại ít nói về phong
cách. Quan niệm của bác về phong cách là thế nào?
Nguyễn Tuân ngồi im lặng, vẻ mặt như sắp nói một điều gì đã có quan
niệm rất rõ, Nghĩa là sắp phát biểu một tuyên ngôn rành mạch. Một lát, rồi ông
chỉ tay ra trước mặt, nói chậm rãi:
- “Những người viết mà được chế độ này chấp nhận, hay hay dở chưa
biết, nhưng được chế độ này chấp nhận về thế giới quan, nhân sinh quan. Trên
cơ sở cái nhân sinh quan, thế giới quan chung ấy, mỗi người lại có một cái
nhỡn quan riêng, tiếng Pháp gọi là vision. Đó là cái đẻ ra phong cách. Vì cái
đó mà anh thì thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa, người có sở
trường này, người có sở trường nọ. Rồi cách đưa vấn đề cũng khác nhau... Nó
đẻ ra tất cả.
Văn học có cái rất vui là phong cách, cách nói, cách quan niệm về
nghệ thuật khác nhau. Anh giảng dạy lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung,
về tư tưởng nên trở thành nhạt nhẽo vô duyên. Tại anh thôi, cái chỗ phong phú
nhất, vui nhất, “xôm” nhất anh lại đếch đi vào nên người ta chán”.
Như đã nói, lúc này tôi đang làm Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (1986).
Vì thế tôi thử dò ý xem Nguyễn Tuân có muốn viết gì cho tuyển tập này không.
Ông lắc đầu nói, giờ không viết gì được nữa.
Tôi nói có ý định làm một cuốn sách gọi là “Việt Nam , đất nước,
phong tục, con người qua các trang văn của Nguyễn Tuân”. Ông tán thành và
nói cứ làm đi.
Tôi lại hỏi ông, vì sao Tờ hoa bị phê phán? Ông Hoài Thanh, anh Chế
Lan Viên cho là ông ám chỉ sai lầm của cải cách ruộng đất?
Nguyễn Tuân nói:
- Vì ông Trường Chinh không thích nên tất nhiên là họ cũng không
thích.
Tôi gợi ý:
- Tờ hoa chỉ có cái chi tiết con ong bị đập, nó đốt lại thế thôi.
Nguyễn Tuân nói:
- ờ. Còn cái này nữa: con bướm – Con bướm cánh phấn sặc sỡ, đẹp
như những khẩu hiệu. Nhưng mà chả ai nói đến mật bướm cả. Còn con ong nó
rất hiền, nhưng đập nó, trêu ghẹo nó thì nó mới đốt cho.
Ông Trường Chinh không thích. Ông ấy nói với tôi như thế ở một cuộc
hội nghị văn nghệ gì đó trước giờ khai mạc. Ông ấy và tôi cùng ngồi chủ tịch
đoàn. Ông ấy nói: “Đả thằng phi công Mỹ thì anh viết mới được, nhưng tôi
không thích bài Tờ hoa của anh”.
Tiếp xúc nhiều với Nguyễn Tuân, tôi thấy ông không nói yêu ai, mến
ai bao giờ. Điều này trái hẳn với Xuân Diệu. Qua các bài viết của ông, tôi biết
ông rất quý Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Nguyễn Văn Bổng, Lý Hải Châu... Quý nhưng không thích nói ra
miệng. Theo anh Lý Hải Châu, ông cũng rất quý bác sĩ Trần Hữu Tước. Khi
Trần Hữu Tước mất, ông nói: “Sao những người tử tế thì chết, mà mấy thằng
đểu giả mất dạy thì cứ sống mãi!”.
Nguyễn Tuân đặc biệt rất quý Nguyên Hồng. Hôm làm lễ truy điệu
Nguyên Hồng ở Hà Nội (ngày 11 – 8 – 1982, tại 51 Trần Hưng Đạo), tôi được
chứng kiến tận mắt Nguyễn Tuân thương tiếc Nguyên Hồng như thế nào. Từ
hàng ghế quãng giữa hội trường, ông chống gậy lọm khọm đi lên phía sân khấu.
Ông khóc mãi không nói được.
Một lúc sau mới chậm rãi thuật lại một số kỉ niệm của ông với Nguyên
Hồng. Ông kể lại cái lần gặp Nguyên Hồng trên một chuyến tàu Hà Nội – Nam
Định. Nguyên Hồng được phóng thích từ Căng Bắc-Mê ra, còn ông thì bị đưa ra
đối chất với một số người bị bắt rồi cũng sẽ bị đưa đi tù. Một người ra tù, một
người vào tù. Ông nói với Nguyên Hồng: “Anh là người chuyên tô tượng đúc
chuông, còn tôi thì chuyên phá đình phá chùa”.
Cả hai cùng đi tù. Chi tiết này mấy anh ở Liên Xô không hiểu: sao
khác quan điểm mà đều bị tù? Tôi có đưa chi tiết này vào bài tựa viết cho tập
truyện ngắn của Nguyên Hồng in ở Liên Xô. Chính cái chuyện viết bài tựa này
cũng là một kỉ niệm khó quên. Ông nói: “Hôm ấy tôi hứa viết xong bài, nhưng
rồi lỡ hẹn. Bẩy giờ sáng, anh con trai Simonov dựng tôi dậy, bắt ra xe đến chỗ
làm việc. Anh ta nói: “Chúng ta chỉ đi ăn trưa khi nào viết xong bài tựa”. Cách
làm việc như sau: Tôi nói, một người dịch, một người đánh máy. Vì Nguyên
Hồng mà lần đầu tiên tôi phải làm việc như thế đấy.”
Ông nói tiếp về Nguyên Hồng:
“Người ta có bốn cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Nguyên Hồng bỏ qua hai
khâu lão, bệnh, đi thẳng từ sinh đến tử. Ai dám bảo Nguyên Hồng là lão. Văn
còn trẻ lắm!
Trước khi giác ngộ cộng sản, Nguyên Hồng theo đạo. Anh tin thiên
đường ở trên trời, dưới đất chỉ có khổ não và tội lỗi. Sau này giác ngộ cách
mạng, anh biết thiên đường có thể có trên mặt đất này. Nói đến đấy, ông dừng
lại và bỗng hô to: “Hồng ơi! Hãy yên nghỉ! Hồng ơi! Hãy yên nghỉ”. Ông vừa
nói vừa khóc.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Ngô Tất Tố. Ông đã viết một bài ca ngợi
hết lời tiểu thuyết Tắt đèn và nhận đóng vai Chánh tổng trong phim Chị Dậu.
Theo Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân đóng phim Chị Dậu chẳng qua vì có tình với
Ngô Tất Tố. Lúc ấy ông yếu lắm. Tuy chỉ đóng một thoáng thôi, nhưng phải đi
ngựa (phim quay ở đình Đồng Kỵ). Đêm trước ông bị sốt. May, sáng hôm sau
khỏi, ông lại uống rượu rất vui.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Lý Hải Châu. Hồi làm giám đốc Nhà Xuất
bản Văn học, Lý Hải Châu đã đấu tranh cho việc làm Tuyển tập Nguyễn Tuân,
Xuân Diệu... Anh Châu làm tình báo cách mạng từ trước 1945, đã từng bị thực
dân kết án tử hình. Anh là một trí thức rất có bản lĩnh. Tôi nhớ khi Tuyển tập
Nguyễn Tuân được xuất bản, Nguyễn Tuân nói: “Không có Lý Hải Châu thì
không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân”.
Nguyễn Tuân cũng có cảm tình với Nguyễn Văn Bổng và Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Ông khen Hoàng Phủ Ngọc Tường viết được, có văn hoá.
Nguyễn Tuân cũng rất quý ĐTM. Nhưng ông không đánh giá cao
ĐTM về tư cách nhà văn. Hồi ông vào Đại học Sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch
Thành, Thanh Hoá, ông nói với tôi: “Anh ĐTM là người tôi rất quý. Nhưng nếu
có ai hỏi, ĐTM có những tác phẩm gì, thì tôi lúng túng quá!”. Tôi để ý thấy
Nguyễn Tuân tỏ ra rất thích thú câu tâm sự rất riêng này của ĐTM vì ông nhắc
lại với tôi hai lần: “Tôi là thằng đàn ông biết độc có một cái l”. (ĐTM nói tiếng
Pháp: je suis un homme d’ un seul vagin). Nguyễn Tuân nói xong cười thích
thú, cuống mũi nhăn lại, cái mũi đã to, càng to hơn trên bộ ria Hoa Kỳ rất
Nguyễn Tuân.
Đối với Tố Hữu, một mặt ông không quên cái việc nhà thơ đã đánh giá
cao uy tín của ông đối với giới văn nghệ. Sau cách mạng tháng Tám, được Đảng
gọi ra Hà Nội lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên Tố Hữu thấy cần phải gặp là
Nguyễn Tuân và đến năm 1948 thì đưa ông lên làm tổng thư ký Hội Văn nghệ
Việt Nam . Ngoài ra Tố Hữu cũng là người giới thiệu ông vào Đảng. Dù sao ông
cũng không quên thiện ý ấy. Vì có lần tôi hỏi ông về Tố Hữu, ông nói: “Tố Hữu
là người đỡ đầu cho tôi về tư tưởng” (ông nói tiếng Pháp: parrain idéologique).
Và trong liền mấy năm, cứ vào dịp đầu xuân, ông lại gửi cho Tố Hữu một cái
thiếp chúc tết (bonne année) có in nghiêng một cành hoa tím (Tố Hữu có làm
một bài thơ gọi là Hoa tím tặng Nguyễn Tuân in trong tập Gió lộng). Nhưng về
sau, bẵng đi, Nguyễn Tuân không gửi nữa. Tố Hữu buồn lắm, nhờ Hà Xuân
Trường hỏi xem. Hà Xuân Trường nhờ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng Hiến ít có
quan hệ với Nguyễn Tuân nên lại nhờ tôi. Rất tiếc là tôi quên mất.
Đầu năm 1987 (1.1.1987), trong một cuộc liên hoan nhẹ ở Nhà xuất
bản Tác phẩm mới (65 Nguyễn Du), tôi có được dự, Nguyễn Tuân kể chuyện
vừa đến thăm Tố Hữu (lúc này Tố Hữu đã mất hết mọi chức vụ). Ông nói: “Văn
bây giờ chỉ viết về tương lai hay quá khứ thôi. Hiện tại không viết. Chỉ viết cái
lẽ ra nên như thế. Vì thế không thấy cái xấu, chỉ thấy cái tốt. Chỉ viết toàn cái
tốt là không tốt. Tôi nói thế với anh Lành, anh ấy cũng tán thành.
Ông Tố Hữu phải có một phen bị quật hẳn xuống như thế ông ấy mới
tỉnh ra, ông ấy phải rơi xuống như bọn mình thì mới thấy khác. Hôm tôi đến
thăm, ông ấy mừng lắm, vui lắm, tiễn tôi mãi ra xa. Tôi xua tay bảo ông về và
hỏi: “Cây táo của anh còn không? Cây táo ông Lành còn không? Cho tôi xin
mấy quả. Người ta nói cây táo có ma nên không có quả?”.
Tố Hữu cười một cách đau khổ - Nguyễn Tuân nhận xét một cách hóm
hỉnh.
Nguyễn Tuân yêu ai, quý ai thì không thích nói ra, nhưng ghét ai thì
nói thẳng, nói công khai, không chút dè dặt. Mà đã ghét thì thường phát ra
những câu rất ác.
Những người ông ghét khá nhiều. Theo tôi được biết, ấy là : Như
Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Phùng Bảo Thạch, Hoài Thanh, Vũ
Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức Phúc , Nam Mộc, Phan Cự
Đệ, Anh Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh...
Nhưng theo tôi, chỉ kể trong số người viết văn, ông ghét nhất ba người:
Như Phong, Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên.
Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Ông ghét Hoàng Trung Thông kể ra cũng dễ hiểu. Thông có thời gian
làm Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và từng quy chụp chính trị nhiều tác phẩm của
Nguyễn Tuân .
Tôi đã chứng kiến Nguyễn Tuân nổi nóng và đã chửi Hoàng Trung
Thông như thế nào khi tôi tìm được nguyên bản Bữa rượu máu để đưa vào
Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Vào năm 1973, tôi từng được nghe Hoàng Trung Thông và Lưu Quý
Kỳ nói chuyện về một hiện tượng mà các anh gọi là luồng gió đen hay luồng
gió độc gì đó thổi vào nền văn học miền Bắc nước ta, trong đó có những bài
Tình rừng, Giò lụa... của Nguyễn Tuân.
Nhưng Hoàng Trung Thông vẫn phục tài Nguyễn Tuân. Và khi về già,
cũng muốn có mối quan hệ tốt với ông. Năm 1986, Thông đăng trên Văn nghệ
bài “Anh Nguyễn Tuân”, một bài thuộc loại chân dung văn học. Thông lấy làm
đắc ý lắm. Anh nói với tôi: “Anh là nhà nghiên cứu, anh viết khác. Tôi là người
sáng tác, tôi viết khác”.
Tôi chắc Hoàng Trung Thông nghĩ rằng bài ấy Nguyễn Tuân có xem
và không ghét mình nữa, nên Tết năm ấy (1987) anh bảo con đèo đến chúc Tết
Nguyễn Tuân. Chẳng ngờ Nguyễn Tuân không tiếp.
Nghe nói Hoàng Trung Thông đã khóc.
Biết chuyện này, tôi bèn tìm đọc bài viết của Hoàng Trung Thông xem
thế nào. Tôi thấy viết như thế Nguyễn Tuân ghét là phải. Đại khái bài viết có
những câu như thế này: Anh nói Thiếu quê hương,”song chúng ta làm gì mà
phải đến nỗi thiếu quê hương”, “có những lúc tưởng như anh xa rời Đảng, rồi
anh lại gắn chặt với Đảng. Vì anh biết rằng anh không thể xa rời Đảng được”,
“Anh đã viết Tình rừng, dẫu rằng những bài văn đó có đôi chỗ sai sót, nhưng
trong đó vẫn đầy rẫy những tâm tình về sông nước, con người”, “Tôi biết có
lúc Nguyễn loạng choạng, nghiêng ngả. Nhưng khi anh vịn vào từng câu, từng
trang văn, anh đứng thẳng dậy, rồi anh đi, đi đàng hoàng và có lúc đi nghênh
ngang nữa để cùng với những bạn văn của mình đi đến đỉnh cao của văn
chương Việt Nam ”...
Đúng là có giọng tuyên huấn! Vẫn viết theo giọng tuyên huấn!
Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn ghét điều này nữa ở bài viết ấy: nguyên là
ngày xưa, có một lần Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông về Đông Anh cùng
với vợ chồng Nguyễn Hồng Phong – Ngọc Trai. Phong quê ở Đông Anh. Đêm
ấy họ đi xem một đoàn cải lương Nam Bộ biểu diễn vở gì đó ở bên cạnh thành
Cổ Loa.
Nguyễn Tuân nhớ gần đó có làng Quậy – rượu Quậy rất ngon – quê
một đào hát ông đã quen rất lâu. Họ bèn đến hỏi thăm thì được biết cô đào ấy đã
thắt cổ tự tử rồi vì bị quy là phản động gì đó trong cải cách ruộng đất. Buồn
quá! Họ uống rượu, rượu rất ngon, đúng là rượu Quậy. Nguyễn Tuân vừa uống
vừa khóc, vừa hát đi hát lại bài hát rất buồn của Đặng Thế Phong: “Ngoài hiên
giọt mưa thu thánh thót rơi...”
Trong bài viết của mình, Hoàng Trung Thông có đưa chuyện này vào.
Nhưng Nguyễn Tuân cho là anh đã diễn đạt không đúng tâm sự của mình lúc ấy
nên càng ghét: “Mình buồn cho những kiếp người chịu oan khuất, buồn cho
đời. Nó lại viết như mình khóc nhân tình vậy” – Chị Ngọc Trai nói lại với tôi
như thế.
Nguyễn Tuân cũng rất ghét Chế Lan Viên.
Một lần tôi đến Xuân Diệu. Xuân Diệu bảo tôi: “Mình nghe nói
Nguyễn Tuân vừa phát biểu một câu rất hay về Chế Lan Viên”. Và anh nhắc lại
cho tôi nghe cái câu rất ác ấy. Nhưng tôi muốn biết đích xác câu nói ấy từ chính
miệng Nguyễn Tuân kia, nên tìm đến ông. Tôi gạ chuyện: “Vừa rồi anh Xuân
Diệu cho tôi biết bác có nói một câu gì đó rất hay về Chế Lan Viên”.
Nguyễn Tuân ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cái anh Xuân Diệu từ ngày
vợ bỏ đến giờ có khá hơn” (Cho đến nay tôi vẫn không hiểu ý nghĩa của câu nói
đó. Khá hơn là thế nào? Tại sao vợ bỏ lại khá hơn?
Nguyễn Tuân nói tiếp: “Có hai chữ thi nhân và thi sĩ. Tôi thích chữ thi
nhân hơn. Thi sĩ là chỉ anh có nghề làm thơ. Còn thi nhân thì sang và đẹp từ
bản chất con người. Chế Lan Viên không đáng gọi là thi nhân. Thi sĩ thì có thể
được bao nhiêu phần trăm đấy”. Như thế nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, Chế Lan
Viên cũng chưa được coi là thi sĩ trăm phần trăm.
Ông tiếp tục: “Một hôm tôi đi vào phòng văn thư của Hội nhà văn. Tôi
đi vào đúng lúc Chế Lan Viên đi ra. Hình như anh ta đến để lấy vé máy bay đi
vào Sài Gòn. Anh giơ tay bắt tay tôi. Tôi không bắt. Chế Lan Viên ra rồi, các cô
văn thư hỏi tôi: “Sao bác không bắt tay anh ấy? Tôi hỏi lại: “Thế các vị có biết
vì sao có tục bắt tay không? Các cô không biết. Tôi nói: Ngày xưa ở phương
Tây, hai người tin cậy nhau, không mang theo vũ khí, họ bắt tay nhau. Tôi
không bắt tay anh Chế Lan Viên vì anh ấy trong người có hàng bồ dao găm”.
Ông lại nói tiếp một chuyện khác: “Anh Chế Lan Viên ở trong Nam
bắn tin ra ngoài này cho tôi, không hiểu sao, anh Nguyễn Tuân cứ thấy tôi là
lảng tránh không muốn gặp. Hôm ấy họp chi bộ, tôi nói với cô Lê Minh là bí
thư: “Cô ghi lại rồi bắn tin cho anh Chế Lan Viên hộ tôi: “Đúng là tôi tránh
mặt anh ấy thật. Lý do là tôi đã già rồi. Người già tính khí bất thường. Tôi sợ
gặp anh ấy, lỡ tôi nổi nóng lên, tát cho anh ấy một cái thì làm thế nào. Đồng
chí với nhau mà tát nhau thì phải kiểm điểm thôi”.
Nguyễn Tuân ghét Vũ Ngọc Phan vì, cũng giống như Vũ Đình Liên,
vốn xưa sống khuôn phép như một anh viên chức, thế mà bây giờ cứ nói là hồi
Pháp thuộc mình cũng chơi bời dữ lắm (Tô Hoài cho là Vũ Ngọc Phan không
dám chơi bời vì sợ Hằng Phương). Tô Hoài còn cho biết một lý do khác: ngày
trước túng tiền, Nguyễn Tuân thường đến vay Vũ Ngọc Phan nhưng từ khi đi tù
về (khoảng 1941, 1942, Nguyễn Tuân bị bắt giam ở Căng Nho Quan), Phan
không cho vay nữa. Nguyễn Tuân sai con trai là Toản đến vay, Vũ Ngọc Phan
từ chối. “Nó sợ liên quan đến thằng tù dây đây mà!” - Nguyễn Tuân nói thế.
Ông cũng rất ghét Phùng Bảo Thạch. Thạch chết, Nguyễn Tuân không
đến viếng. Thạch là tay thân Nhật, Nguyễn Tuân cho ẩn náu ở nhà riêng tại Ngã
tư Sở (ông gọi là Am Sông Tô). Vậy mà Thạch đã làm cho ông bị tù. Vì chứa
Thạch nên cũng bị coi là thân Nhật. Thạch bị bắt, bị tra hỏi, đã khai là Nguyễn
Tuân đang nằm ở xóm hát Khâm Thiên và đưa mật thám đến bắt. Nguyễn Tuân
vừa buông màn ngủ thì bị gọi dậy, còng tay luôn.
Ông cũng không ưa Phan Cự Đệ. Có lần ông nói với tôi: “Nghe nói
anh Phan Cự Đệ làm Tuyển tập Nguyên Hồng, tôi buồn quá!”.
Hoài Thanh cũng bị nhiều nhà văn không ưa. Nguyễn Tuân cũng vậy.
Ông gọi Hoài Thanh là thằng nịnh. Hồi Hoài Thanh ốm nặng, Nguyễn Tuân nói,
tôi định đến thăm Hoài Thanh để nhắc lại lời ông ta nói khi đi Trung Quốc về:
Mao Trạch Đông có một cái nốt ruồi rất lớn ở cằm, đúng là tướng đế vương.
Còn Anh Thơ thì Tô Hoài kể chuyện này. Một lần Nguyễn Tuân và
Anh Thơ cùng đi công tác ở Lai Châu. Hồi ấy không sẵn khách sạn như sau
này, còn hoang vu lắm. Lại vào lúc mưa to gió lớn. Người ta kiếm được một cái
phòng đưa hai người vào nghỉ. Tất nhiên mỗi người một giường. Nhưng Anh
Thơ nhất định không chịu, vì sợ... Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân rất bực và chắc
cũng ngượng nữa. Khi về Hà Nội, gặp lại trong một cuộc họp, Nguyễn Tuân nói
vào mặt Anh Thơ: “Bà làm như tôi chực hiếp bà hay sao!”.
Còn Nam Mộc? Nam Mộc từng viết một bài về tập Tuỳ bút Sông Đà
của Nguyễn Tuân. Tay này có vết về chính trị nên lên gân lên cốt ghê lắm. Nam
Mộc phê Nguyễn Tuân trong Sông Đà là “ngựa quen đường cũ”, chưa dứt bỏ
được những căn bệnh cũ như chủ nghĩa xê dịch, tư tưởng hoài cổ, rồi nào là
buồn rớt, nhắm nháp thiên nhiên... Tôi chắc Nguyễn Tuân ghét Nam Mộc lắm
nên có lần nói với tôi: “Thằng cha Nam Mộc, vợ nó bỏ là phải lắm!”. Ngoài ra
có chuyện này nữa, nhiều người biết: một lần kia, Nguyễn Tuân bệnh nặng phải
cấp cứu ở bệnh viện Việt Xô. Người ta đưa ông vào một phòng bệnh, đã có
Nam Mộc ở đó. Nguyễn Tuân không chịu ở chung với Nam Mộc, nhất quyết từ
chối không vào: “Hoặc tôi đi chỗ khác, hoặc Nam Mộc phải đi”.
Bệnh viện đành phải giải quyết theo nguyện vọng của ông.
Có một điều này, cho đến nay, tôi vẫn chưa hiểu được: gia đình
Nguyễn Tuân ngày xưa ở Thanh Hoá rất lâu. Cụ Tú Lan làm việc ở Toà sứ
Thanh Hoá rồi nghỉ hưu luôn ở đó. Nguyễn Tuân có thời gian bị giam giữ, quản
thúc ở Thanh Hoá. Có lúc làm thư ký ở nhà máy đèn, đồng thời làm thông tín
viên cho báo Trung Bắc Tân Văn thường trú ở Thanh Hoá. Viết văn, ông
thường ghi nơi viết là Thang Mộc ấp, tức Thanh Hoá gọi theo địa danh thời
phong kiến.
ấy thế mà có lần tôi thấy ông xử quá tệ với Thanh Hoá.
Một hôm có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá đánh xe ra Hà Nội
thăm Nguyễn Tuân. Họ đến Hoàng Ngọc Hiến nhờ đưa đi. Hiến chưa đến
Nguyễn Tuân bao giờ, giới thiệu tôi thay anh.
Tôi đi cùng với họ đến trước nhà Nguyễn Tuân ở 90 Trần Hưng Đạo.
Tôi bảo xe đỗ ngoài đường đợi tôi vào xem ông có nhà không. Tôi thấy ông
đang ngồi một mình ở phòng riêng. Tôi nói: “Có mấy anh ở Nhà xuất bản
Thanh Hoá muốn đến thăm bác. Họ đang đợi dưới kia. Ông xua tay: “Thôi anh
bảo họ về, tôi cám ơn”. Tôi nài thêm: “Họ có rượu ngon muốn biếu bác”. Ông
nói: “Tôi có rượu rồi, cám ơn”. Tôi lại nài thêm một lần nữa: “Họ nói muốn xin
bác cho in lại những bài bác viết về Thanh Hoá”. Ông vẫn một mực từ chối
“Được, anh cứ bảo họ, tôi đồng ý. Thôi bảo họ về đi”.
Người ta đánh xe từ Thanh Hoá ra thăm mà nhất định không tiếp. Rất
lạ!
Sau này Tô Hoài cho tôi biết , ông rất ghét Thanh Hoá. Ngày xưa ông
viết truyện Đôi tri kỷ gượng, giễu cợt lối văn bằng phẳng, thiếu cá tính của một
nhân vật tên là Mợi. Mợi là Thanh Châu, người Thanh Hoá. Nhưng Thanh Châu
thì có liên quan gì đến Nhà Xuất bản Thanh Hoá?
Nhân dịp tác phẩm Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng được tái bản, vợ chồng
Sơn – Hằng (Hằng là con gái, Sơn là con rể Vũ Trọng Phụng), tổ chức một cuộc
liên hoan ăn mừng tại nhà riêng ở Mọc Giáp Nhất (ngày 23.01.1983). Rất nhiều
nhà văn được mời tới dự: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư
và vợ con (vợ lạc đường không đến được), Như Phong, Hoàng Trung Thông,
Ông Lưu, nhà nhiếp ảnh từng quen biết Vũ Trọng Phụng. Bà Tuệ, vợ Nguyễn
Tuân, hàng năm đều có đi viếng mộ cụ Tú Lan, nhân tiện cũng viếng mộ Vũ
Trọng Phụng ở gần đấy. Vì thế cũng đến dự liên hoan.
Trong khi chờ đợi dọn tiệc, người ngồi trong nhà, người ở ngoài sân
trò chuyện với nhau.
Nguyễn Tuân nói chuyện với tôi và Bùi Huy Phồn ở ngoài sân. Ông
nói, lẽ ra kỷ niệm Vũ Trọng Phụng 70 tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã
đồng ý cả, nhưng Hoàng Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc
phản đối.
Nguyễn Tuân hỏi: “Phong Lê là thằng nào, tên thật là gì, tướng gian
ác có lộ ra mặt không, có phải dân Nghệ không? Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Như
Phong đúng là cùng một băng đảng với nhau.”
Tôi ngỏ ý mời Nguyễn Tuân đến nói chuyện với học viên sau đại học.
Ông nói, ngại đăng đàn diễn thuyết lắm, sẽ trả lời sau, nhưng không hứa hẹn gì.
Ông nói với Đồ Phồn, lát nữa chỉ dự ăn một lát rồi xin về sớm, vì còn mấy đám
cưới phải đi. Vả lại sợ rượu vào nói cà khịa, phiền : “Không phải sợ nói sai mà
sợ nói đúng mới gay go. Mình là loại quý tôc lọt lưới mà!”.
Nguyễn Tuân nhìn bao quát ngôi nhà của vợ chồng Sơn – Hằng, chê
kiến trúc không ra gì. Ông cười nói: “Đã lâu không đánh nhau với ai đâm ngứa
ngáy, lại cà khịa với cái nhà này”.
Tôi hỏi thăm Nguyễn Tuân về sức khoẻ. Ông nói, chả biết trả lời ra
sao. Già rồi, khoẻ yếu không biết thế nào. Hỏi thế cứ như là nhạo, là chế giễu.
Phải hỏi như hỏi những ông thủ trưởng chứ: “Anh có khoẻ không ạ!”.
Bùi Huy Phồn hỏi về chuyện bà Chu Thị Năm (Chủ cô đầu ngày xưa,
bồ của Nguyễn Tuân). Nguyễn Tuân nói: “ấy có bà ấy kia (bà Tuệ, vợ Nguyễn
Tuân), ông hỏi thế phiền lắm. Bà Tuệ nói: “Không, ngày xưa bà Năm đến chơi,
tôi vẫn tiếp bình thường”. Nguyễn Tuân chỉ bà Tuệ: “Những cái cách mạng
cho tôi được hưởng không nhiều lắm. Được hưởng nhiều là bà này này!”.
Tô Hoài đến góp chuyện. Tôi hỏi anh đang viết gì. Anh nói, sắp in một
tiểu thuyết feuilletion cho Thiếu niên tiền phong về loài chim. Viết để cho thiếu
nhi biết về loài chim, nó sinh hoạt, làm tổ, đẻ con, nuôi con như thế nào. Mình
có một cái vốn như thế, không viết, phí.
Tô Hoài nói riêng với tôi, vì có mặt Lưu Trọng Lư: “Người ta viết có
thời, tài có thời, hồn thơ có thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa
làm thơ mới thì chân thật, có hồn thơ, sau này tôi cho chẳng còn nữa. Nhiều
người như thế.
Còn viết văn học sử thì không phải cứ có tài liệu nhiều mà đủ. Phải
viết có hồn. Có tài liệu và có hồn. Anh Đệ, anh Đức có tài liệu mà viết không có
hồn. Anh (Mạnh) viết vừa có tài liệu vừa có hồn. Còn bọn mới thì chả có tài liệu
gì, cứ phóng ý ra thôi”.
Nguyễn Tuân bỗng xoay ra nói về Hoàng Văn Hoan: “Hoàng Văn
Hoan có viết một bài tiểu luận về Vũ Trọng Phụng, hình như gửi cho báo Nhân
dân. Tôi có đọc rồi để đâu, tìm mãi chưa thấy. Đúng là lưới trời lồng lộng thật.
Nó chửi Kiều là ăn cắp của Tầu và cho đề cao Kiều là đề cao con đĩ. Đấy là
một tội. Tội thứ hai là nói Vũ Trọng Phụng cũng viết về đĩ. Bây giờ ai là đĩ?
Chính nó là con đĩ. Nhưng nó chết thì lại có thằng Hoàng Văn Hoan khác. Có
những thằng Hoàng Văn Hoan ở Hà Nội này, khối ra đấy, lại có chức có quyền
nữa cơ chứ!”.
Như Phong đến góp chuyện, nói năm 1937, hai mươi tuổi, có đến nhà
Nguyễn Tuân ở Thanh Hoá. Rồi ông nhắc đến bài thơ của Nguyễn Vỹ ví nhà
văn Annam khổ như chó. Nguyễn Tuân cười nói: “Bây giờ nên sửa lại là nhà
văn Việt Nam khổ như sư tử, sư tử bị bẻ hết vuốt, hết móng”. Rồi ông chuyển
luôn sang giọng tâm tình: “Ngày xưa, nhà văn có tình với nhau lắm, hơn bây
giờ. Cái đêm trước ngày đưa ma Phụng, không ai ngủ được. Cánh ở Gia Quất,
cánh ở nhà chú Trô Mã Mây... không ai ngủ được”.
Tôi nói với Nguyễn Tuân: “Bài Một đêm họp đưa ma Phụng bác viết
rất hay”. Ông nói: “Bây giờ không viết được như thế nữa”.
Các mâm cơm dọn ra. Như Phong, Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông,
Lưu Trọng Lư ngồi một mâm, vừa nói chuyện vui, vừa khích bác lẫn nhau.
Hoàng Trung Thông nói không tán thành lời bình của Nguyễn Tuân về câu thơ
Kiều: “Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần”. Nguyễn Tuân nói: “Cái đó tuỳ ý mọi
người chứ, tôi không theo ai cả”.
Bỗng nhiên thấy Lưu Trọng Lư đùng đùng bỏ ra về. Hình như là do
Như Phong khen Nguyễn Vỹ thế nào đó. Lưu Trọng Lư chạnh lòng, vì do
Nguyễn Vỹ mà Lưu Trọng Lư bị mang tiếng là ăn cắp thơ của Nhật (Bài Tiếng
thu).
Lưu Trọng Lư nhất quyết bỏ về, bắt con không ăn nữa, đưa bố về ngay.
Hôm ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm.
Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn.
Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường hò chèo đò hoặc hát đường
trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người này người khác để giễu
cợt. (cũng chính trong buổi liên hoan ở nhà con gái Vũ Trọng Phụng ăn mừng
tái bản Vỡ đê, tôi đã được nghe Nguyễn Tuân nhại giọng Huế của một viên
chức thời Tây (Bố Hoàng Xuân Tuỳ, phán đầu toà, cùng làm việc ở toà sứ
Thanh Hoá với cụ Tú Lan, bố Nguyễn Tuân). Ông này thường nói với lớp trẻ
ngày nay: “Cạc anh giừ sưởng lẳm, cách mạng rồi cạc anh sưởng lẳm! Tui
trước làm việc với thằng Tây, khổ lẳm. Đêm nỏ còn gọi lên hỏi, có chi không? –
Dạ bẩm quan lớn, không thấy sở liêm phóng báo sang có việc chi. Thế mà nỏ
cũng xà lù mẹc. Tui bực quả, chào rồi ra về, đóng cửa đánh sầm một cải. Đấy,
thời trước làm với thằng Tây, khổ rửa!”.
Nguyễn Tuân nói xong, cười thích thú. Ông nhại giọng Huế rất đạt và
có duyên.
Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra Nguyễn Tuân vốn là một diễn viên kịch nói có
tài từng đóng vai chính trong các vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Ngã ba của
Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển vào đoàn tài tử đi sang Hồng Kông đóng
phim Cánh đồng ma.
Nguyễn Tuân rất thích truyện tiếu lâm, tiếu lâm ta, tiếu lâm Tây. Tôi
nhớ có một hồi, ở trong nhân dân ta, phát triển rất mạnh một loại truyện vui gọi
là tiếu lâm hiện đại nhằm giễu cợt những sự việc, những nhân vật đương thời.
Nguyễn Tuân có vẻ rất thích những truyện ấy. Có lần ông kể tôi nghe một
truyện về Phạm Tuân: “Cái hôm người ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ
trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt có tới dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu
đã nổ rầm rầm mà con tầu không thấy bay lên. Các công trình sư Liên Xô chạy
đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi mặt đều chẳng có gì trục trặc cả. Võ
Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị cho mình đến gặp Phạm Tuân. Tuy
biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật, nhưng vì nể một vị đại tướng lại
là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng ý.
Võ Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát , vừa quay ra thì con tầu
đã vọt thẳng lên trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào.
Giáp không nói, chỉ tủm tỉm cười.
Khi về nước, Lê Duẩn lập tức triệu ngay Giáp đến để hỏi. Giáp vẫn
không chịu nói. Duẩn nghiêm mặt: “Anh giữ bí mật quốc gia là đúng. Nhưng
tôi là tổng bí thư mà anh cũng giữ bí mật sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói
thật: “Có gì đâu, tôi thọc tay ngay vào túi quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái
đinh ốc nó vừa xoáy ở con tàu. Tôi quát: “Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là
con tàu bay vọt lên trời”.
ông còn kể tôi nghe một truyện nữa – một truyện tiếu lâm Tây. Đó là
lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân. Buổi sáng hôm ấy, như mọi ngày, ông có
thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng rồi tạt vào Hội Nhà văn một lúc. Lúc
đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi Bình Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh
Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã lâu lắm không gặp. Chính hôm ấy
ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái tâm sự rất riêng của Đặng Thai
Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một truyện tiếu lâm của Pháp: “Có một
lão giám mục kia, vào lúc hấp hối, phát biểu một nguyện vọng cuối cùng là
muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại đạo nó như thế nào. Người ta thông
cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông ta nói: “Tưởng thế nào, hoá ra
cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.
Nói dứt câu, Nguyễn Tuân cười khoái chí.
Nghe nói ở kỳ Đại hội văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948,
Nguyễn Tuân, ngay trên diễn đàn, dám kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”.
Hồi ấy sinh hoạt văn nghệ còn thoải mái lắm mới có thể có chuyện tếu như thế
được. Từ năm 1951 trở đi, đừng hòng được như vậy: Đảng ra công khai, biên
giới phía Bắc thông với phe xã hội chủ nghĩa, sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và
Mao Trạch Đông, chỉnh huấn về lập trường giai cấp chuẩn bị cải cách ruộng
đất... Rồi yêu cầu của chiến tranh giải phóng dân tộc phải tập trung cổ vũ chiến
đấu: Ta là chính nghĩa, là anh hùng, không được giễu cợt! Tiếng cười hầu như
mất hẳn trong đời sống văn học.
Tôi cho rằng, ở Nguyễn Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi là chất trẻ
trung tinh nghịch, thể hiện ở người và ở văn.
Trong cuốn 40 năm nói láo, Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính
độc đáo của Nguyễn Tuân. Đọc tập hồi ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm
trò tinh nghịch rất oái oăm, kỳ quái. Chẳng hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo
lên mái nhà ả đào chơi. Rồi bắt ả đào giả vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến
hàng xóm láng giềng tưởng thật chạy sang chia buồn... Cụ Nguyễn Lương Ngọc
còn kể tôi nghe chuyện này về Nguyễn Tuân: đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên
phóng tay đấm mạnh vào cửa kính cho vỡ toang ra. Chả để làm gì cả. Y như
người dư thừa sinh lực vậy. Hay là đang nửa đêm, dạy cặm cụi đánh giầy cho
tất cả quan viên... Nguyễn Tuân hay có những ý nghĩ nghịch ngợm: chẳng hạn,
tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho mình vài hình nhân nhà phê
bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê bình chắc cũng vui. Hoặc
đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị cho biết khi mình chết thì
sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin trước vài cái đi uống rượu, sau
này xin cứ trừ đi... Trong văn cũng thế. Như trong Một chuyến đi chẳng hạn,
ông nẩy ra ý nghĩ đem giam chung với nhau mấy thằng nghiện thuốc lá nặng,
rồi theo dõi xem chúng ứng xử với nhau như thế nào khi cạn bao thuốc. Còn
trong Sông Đà thì lại tưởng tượng tượng ra cái cảnh ở một bến nước kia, đàn
ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột ngột rút sạch, mọi người thấy
mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này trong những lần in lại, không thấy
nữa)...
Các vị Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Như Phong, Phan Cự Đệ... chắc cho
thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho đấy chính là cái chất trẻ trung hồn nhiên
rất có duyên của Nguyễn Tuân.
* *
*
Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất: ngông
nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng được
chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục vụ
tận tình.
Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở
Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích
xem tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về
nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa).
Nam sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết
đầu mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để
xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một
thượng khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang
tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân dung Nguyễn
Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân
vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào
cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất
ăn với cá bống kho tiêu là món Nguyễn Tuân thích.
ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp
khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp không.
Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc ấy
đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường
hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |