Hồi Ký Hà Nội 2008


Chương XII: Nguyễn Công Hoan



tải về 3.53 Mb.
trang13/23
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích3.53 Mb.
#34905
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   23

Chương XII: Nguyễn Công Hoan

Nguyễn Công Hoan là người cùng làng với vợ tôi và có họ với vợ tôi:

Làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, ngày xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh, ngày nay

thuộc tỉnh Hưng Yên.

Tôi nhớ Nguyễn Công Hoan nói đùa: “Nếu nói chuyện nhãn, tôi nhận

quê ở Hưng Yên. Nếu nói chuyện văn chương thì tôi nhận quê ở Bắc Ninh”.

Nguyễn Công Hoan mất lâu rồi. Lúc ông còn sống tôi chỉ được gặp vài

lần, khoảng 1967, 1968.

Một lần tôi cùng họp với ông ở Viện Văn học. Ông tỏ ra rất ghét Vũ

Đức Phúc. Ông nói, anh Phúc chỉ viết để cho cấp trên xem thôi. Ông cho rằng

những người viết văn học sử chỉ thấy hiện tượng mà không giải thích đúng đắn

vì không hiểu hoàn cảnh lịch sử gì cả.

Thí dụ, nói nhà văn Vũ Trọng Phụng phức tạp. Hiện tượng thì đúng,

nhưng lí do vì sao. Vũ Trọng Phụng viết đủ các thứ báo: Nhật Tân, Tiểu thuyết

thứ bẩy, Hà Nội báo, Loa, Tiểu thuyết thứ năm, Sông Hương... Bấy giờ, mỗi tờ

báo ra đời đều phải tìm con đường hấp dẫn độc giả. Vũ Trọng Phụng bị lôi kéo

viết cho Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ năm, Sông Hương thì khiêu dâm (Giông

tố, Thị Mịch, Làm đĩ), nhưng khi viết Tiểu thuyết thứ bẩy thì không khiêu dâm

nữa (Người tù được tha). Vũ Trọng Phụng không phải mật thám. Mật thám, biết

ngay. Vũ Trọng Phụng mật thám sao lại nghèo! Mật thám còn viết văn làm gì!

Phân tích tác phẩm, phải hiểu tác phẩm viết năm nào, năm ấy như thế

nào mà có tác phẩm ấy. Thí dụ, năm 1935, trong Nam bộ nó bỏ kiểm duyệt. ở

Bắc thì đến 1937 mới bỏ. Từ 1937 đến 1939, viết tự do. Kiểm duyệt báo nếu

cần chỉ gọi chủ báo lên xạc thôi. Tác giả thì tha hồ. Vì thế tiểu thuyết lịch sử Đề

Thám, Hàm Nghi ra đời. Châtel sang Việt Nam, hướng thanh niên vào phong

trào thể thao thể dục. Tôi viết Tinh thần thể dục.

Nhân tiện gặp Nguyễn Công Hoan ở đấy, tôi tranh thủ hỏi mấy câu:

- Hồi Hải Triều và Hoài Thanh tranh luận với nhau chung quanh tác

phẩm Kép Tư Bền của bác, bác có đọc họ không?

- Họ viết trên báo địa phương (Huế), tôi đọc làm gì!

- Thế hồi ấy, bác tự thấy mình là vị nhân sinh hay vị nghệ thuật?

- Tôi chỉ cốt viết cho hay thôi. Các báo mời viết, gợi đề tài này khác,

thấy đề tài nào hay thì viết. Tôi không phục vụ chính trị, chỉ phục vụ nghệ thuật

thôi.

Ông nói tiếp: “Họ đấu tranh với nhau chỉ lấy mình làm một cái cớ



thôi. Hải Triều hồi ấy có mời tôi vào Huế để tiếp xúc với độc giả Kép Tư Bền và

ký tên vào sách cho những người đến mua. Ban ngày tôi ở chỗ Hải Triều, hiệu

sách Hương Giang, ban đêm tôi về ngủ với Hoài Thanh. Ban ngày ở với thằng

vị nhân sinh, ban đêm ở với thằng vị nghệ thuật.”

Nguyễn Công Hoan quan niệm chuyện đời, chuyện văn rất đơn giản,

cứ như trò đùa vậy thôi:

188

Năm 1928, 1929, tôi bắt đầu viết truyện ngắn. Hồi ấy ở Lào Cai.



Thấy tôi hay đùa, Tương Huyền, anh Tam Lang, bảo tôi viết. Tôi từ chối. Hắn

nói mày không viết tao đánh. Tôi viết ba truyện đưa Tương Huyền xem. Tương

Huyền nói: “Thế này là xã hội tiểu thuyết chứ còn thế đéo nào nữa!”. Hồi ấy do

giáo dục gia đình và do tiềm thức mà viết thế thôi. Không ai nghĩ sau này thành

nhà văn. Cứ ấm ức, hậm hực viết ra cho thoải mái. Tôi tán thành nghệ thuật vị

nghệ thuật của Hoài Thanh. Các nhà nghiên cứu cứ quy ý thức này ý thức khác,

sai cả.”

Ông nói: “Ngày nay toà soạn báo là toà không soạn. Ngày xưa toà



soạn là phải soạn, cứ ngồi tán với nhau rồi thấy có gì hay là viết. Thí dụ: Hồi

Vũ Trọng Phụng viết Vỡ đê, Ngô Tất Tố nói: “Thằng Phụng viết thế khỉ nào

được nông thôn. Để tôi viết cho mà xem. Thế là Tắt đèn ra đời”.

Về cuốn Bước đường cùng tôi được đề cao quá. Người ta giải thích



do tôi có ý thức thế nào đó mới viết ra thế. Tôi ngượng quá. Bước đường cùng

và Tắt đèn không có ý thức đả đế quốc phong kiến gì cả (tiềm thức có thể có).

Chúng tôi chỉ muốn viết tiểu thuyết phong tục (roman de moeurs). May làm sao

lại thành chống đế quốc phong kiến.

Tôi thích truyện ngắn hơn. Còn Bước đường cùng thì thường thôi.

Kháng chiến, mất bản thảo. Trong thành còn giữ được một cuốn. Có thằng nó

in ra. Năm 1954, ta vào thành in lại. Tác phẩm tồn tại đến ngày nay là do thế.

Tôi thành ra nổi tiếng. Lý do rất đơn giản!

Nhà văn Việt Nam phải học tiếng Việt Nam. Ta quen nói kiểu trí thức



mất rồi, quên tiếng nói nhân dân.

Người dân nói “Trăm nghìn người mới có một”. Mình lại nói “trường

hợp cá biệt”. Tiếng Việt rất trong sáng, dễ hiểu. Sao cứ bịa ra những tiếng khó

hiểu. Nhiều tiếng của nhân dân, bây giờ chắc nhiều người không biết nghĩa là

gì: tại sao gọi “bến ôtô”, “bến tàu điện”? Tại sao gọi là “bát đàn, bát sứ, bát

kiểu”. Tại sao gọi là “bít tất” “Mọi nhẽ” là gì? (mọi nhẽ nghĩa như vân vân...)

Nghe Nguyễn Công Hoan nói, thấy ông không suy nghĩ điều gì sâu

sắc. Ông hay nói, “đơn giản thế thôi”, hoặc do “gặp may” hay do “tiềm thức”.

Mọi sự đối với ông rất đơn giản. Và xem ra, ông chẳng coi cái gì là quan trọng

cả. Thích gì viết thế. Thấy gì hay thì viết. Cứ theo bản năng, theo thói quen mà

làm. Con đường nghệ thuật của ông ba, bốn mươi năm khi tiến khi lùi, khi tạt

ngang tạt ngửa, khi viết truyện ngắn khi viết truyện dài, khi viết truyện tình, khi

viết truyện xã hội, khi trào phúng, khi nghiêm trang, khi lãng mạn, khi hiện

thực... Rồi thấy cái gì bở ăn, cứ làm tới, đâm ra, nói như Hoài Thanh: “nói dài,

nói dai, nói dại”..., không biết cái hay cũng có giới hạn của nó, đâu phải cứ đào

mãi mà được. Cho nên lúc thành công, lúc thất bại. Mà thành công hay thất bại

hình như ông cũng chẳng biết tại sao...

Tôi gọi thế là con đường nghệ thuật không tự giác (l’ itinéraire

inconscient)

Tô Hoài cho tôi biết: “Hồi đầu kháng chiến chống Pháp, cụ Hoan phụ



trách dạy văn hoá trong quân đội. ở chỗ sơ tán, cụ “nhẩy dù” khiếp lắm! Trong

189

cuộc chỉnh huấn 1952, tôi gợi ý cụ kiểm thảo chuyện ấy. Cụ đấu tranh tư tưởng

dữ dội, mồ hôi trán chảy ròng ròng...”

* *


*

Nguyễn Công Hoan có một cô con gái cũng viết văn, bút danh Lê

Minh (tên thật là Nguyễn Tài Hồng). Lê Minh rất đanh đá và có nhiều việc làm

rất vô lối. Chẳng hạn, chị tập hợp in lại những bài của nhiều người viết về

Nguyễn Công Hoan. Chỗ nào khen giữ lại, chỗ nào chê cắt đi.

Tôi có một lần, hướng dẫn một cô làm luận án thạc sĩ về tiểu thuyết

của Nguyễn Công Hoan (một cô khác làm về truyện ngắn). Cô này tên là Bùi

Thị Hoài. Tôi giới thiệu Hoài đến Lê Minh để mượn sách. Lê Minh bắt Hoài

làm luận án phải do chị hướng dẫn. Rất chướng và rất hách.

Thấy vậy, tôi bảo Hoài không đến Lê Minh nữa. Tiểu thuyết Nguyễn

Công Hoan thực ra tìm không khó lắm.

Nguyễn Công Hoan nếu còn sống, chắc cũng ớn cô con gái của mình



lắm.

Láng Hạ, 23 – 5 – 2007



Chương XIII: Nguyễn Tuân

 

Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của bà chị cả tôi. Tất

nhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa xê dịch của

Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất.Thời kháng chiến chống

Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái – thực sự

cảm thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn Tuân quả là có thật. Hồi về Hà

Nội học Đại học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà

Nội, từ phố này sang phố khác, bắt chước Nguyễn Tuân làm “Một người lữ



hành trong thành phố chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào,

thưởng thức những tiếng rao đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong

xuất hiện rất đúng hẹn cho mỗi thời khắc.

Tôi chính thức được tiếp xúc với Nguyễn Tuân khi dạy ở Đại học Sư

phạm Vinh. Trường Vinh cử tôi ra đón Nguyễn Tuân vào nói chuyện về ký

chống Mỹ. ấy là vào năm 1965, 1966 gì đó.

Xe đi từ sáng sớm, nhưng đến cầu Khuất thì phải dừng lại rất lâu. Cầu

sắt bị phá. Người ta bắc cầu phao. Nhưng buổi sáng người ta phải dỡ phao cho

thuyền bè qua lại. Vì thế mãi đến trưa xe mới đến đồi Kim Tân. ở đây có một

hàng bán miến gà. Xe dừng lại để ăn trưa. Nguyễn Tuân không ăn, tuy tôi bảo

nhà hàng làm cho một bát miến gà đặc biệt (Hồi chiến tranh chỉ có loại miến

làm bằng bột đao, nhưng vào thời ấy, thế là đã sang lắm rồi). Ông lấy trong túi

ra gói cơm nắm, xắt ra mấy lát, ăn với ruốc. Sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái

nắp uống.

Trong cuộc đi này, tôi thấy Nguyễn Tuân biết rất nhiều chuyện, nào là

các làng nghề chung quanh Hà Nội (làng này chuyên chữa kính, làng kia

chuyên cắt tóc, làng nọ chuyên làm thợ may...), nào là những nhân vật có tiếng

ở xã này, huyện nọ, nào là những chuyện vui thời kháng chiến chống Pháp trên

đường số 6 từ khu Ba lên Việt Bắc... Và ông hay đố chữ. Nhờ Nguyễn Tuân

hôm ấy tôi mới biết được, tiết canh đánh giỏi là “tiết canh xâu lạt”, người theo

đạo Thiên chúa mà bỏ đạo, gọi là “dở người”. Thí dụ “ông tôi đã dở người”,

Nam Cao đã dở người”...

Trường Đại học Sư phạm Vinh lúc ấy sơ tán ở huyện Thạch Thành,

tỉnh Thanh Hoá. Khi xe chúng tôi về đến nơi, thấy Ban Giám hiệu đều có mặt ra

đón long trọng lắm, sau đó bầy tiệc lớn chiêu đãi. Tôi thấy Nguyễn Tuân không

có vẻ mặn mà gì, ông chỉ gắp vài miếng trứng tráng.

Từ hiệu bộ, tôi đưa Nguyễn Tuân về khoa văn ở một địa phương gọi là

Thạch Yến. Trần Văn Hối, phó chủ nhiệm phụ trách sinh hoạt, thủ sẵn một chai

vang ngoại đợi Nguyễn Tuân vào thì đưa ra. Trông thấy chai vang, Nguyễn

Tuân nói: “Rượu đàn bà, uống làm gì!”. Hối cụt hứng, buồn quá!

Hồi ấy Nguyễn Tuân rất nổi về những bài ký chống Mỹ viết về những

tên giặc lái tàu bay bị bắn cháy, bật dù xuống đất và bị nhốt ở các trại giam.

Chúng tôi mời ông vào để nói chuyện về những bài ký ấy. Giữa buổi nói

chuyện, sinh viên nhờ tôi đề nghị ông nói về Vang bóng một thời. Tôi lựa lời

nói với Nguyễn Tuân. Ông hình như không thích thay đổi bài nói đã chuẩn bị,

cứ tiếp tục nói về ký chống Mỹ. Tôi nài thêm lần nữa, ông mới thủng thẳng nói

mấy câu: “Tôi đọc lại Vang bóng một thời, tôi thấy phục tôi quá! Tôi nhớ ngày

trước tôi làm gì có quan điểm lao động, thế mà tôi lại ca ngợi những người thợ

mộc Tràng thôn lên sửa đền cho thánh Tản viên. Hồi ấy tôi cũng chưa lên núi

Tản Viên, Ba Vì, kháng chiến mới có dịp tới. Vậy mà sao tôi tả đúng thế”. Rồi

ông cười hóm hỉnh: “ấy nói thế người ta lại bảo nhà văn không cần đi thực tế



thì chết” (Nguyên Ngọc cho rằng, nếu Nguyễn Tuân lên núi Tản Viên trước khi

viết Trên đỉnh non Tản thì có khi lại viết hỏng)

Từ lúc bị Nguyễn Tuân từ chối chai vang, Trần Văn Hối bèn sục tìm

trong làng kiếm được một chai cuốc lủi, lặng lẽ đặt ở nơi nghỉ của ông. Lúc ông

rời Thạ__________ch Thành, chai rượu vẫn còn nguyên. Ông có rượu riêng đem đi, không

uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông hay Đoàn Phú Tứ...

Bữa tiệc cuối cùng khoa văn tiễn ông có nhiều rau tươi: xà lách xanh

non, cà chua, ớt màu đỏ. Nguyễn Tuân có vẻ thích. Ông khen bữa ăn rất đẹp.

Ông kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt chó

ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa tục

vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm của hoa sen.

Tôi nghĩ bụng, thịt chó mà dám cho vào toà sen, lão sư nào mà hỗn thế.

Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái tục cái thanh của nó, chắc cũng thú.

Lần thứ hai, tôi được gặp Nguyễn Tuân là vào mùa thu năm 1967.

Cũng là tình cờ thôi. Tôi ra Hà Nội, có việc đến Nhà Xuất bản Văn học (49

Trần Hưng Đạo) và gặp Nguyễn Tuân ở đó. Hình như ông đến làm việc với Nhà

Xuất bản về việc in một tập ký chống Mỹ thì phải (Nghe nói NXB đề nghị loại

bỏ bài Tờ hoa, còn ông thì nhất định đòi giữ lại, không in thì thôi).

Dịp may hiếm có, tôi đề nghị được gặp ông. Ông đồng ý, không tỏ vẻ

khó khăn gì cả.

Tôi hỏi ông về những tác phẩm gần đây của ông, về quan niệm và cách

viết của ông.



Ông nói liền một mạch, rất sôi nổi:

- Người ta viết văn, giảng văn, nói đã nhiều về tư tưởng, về đạo đức.

Điều ấy không phải không cần. Nhưng tôi muốn giúp độc giả nâng cao trình độ

thẩm mỹ, đem đến cho họ cảm xúc về cái đẹp. Đó là điều băn khoăn của tôi. Tôi

cung cấp cho họ những gợi ý bằng những suy nghĩ của tôi. Còn họ phản ứng

thế nào, tuỳ.

- Về độc giả, tôi không quan niệm là công nông hay trí thức mà chỉ chú

ý phục vụ con người mới, có tư tưởng mới, có văn hoá, có trí thức. Bao giờ độc

giả được tất cả như thế, tôi không biết, nhưng nhất định sẽ như vậy, tôi rất tin

điều đó.

- Về kinh nghiệm viết văn?

Tôi cho tác phẩm văn học mà không tạo ra được cái atmosphère thì

không có giá trị gì. Cái atmosphère nó làm cho cùng một hiện tượng, cùng một

sự việc mà thành màu sắc xanh đỏ tím vàng khác nhau. Cái chi tiết nước sông

Hồng dâng cao trong bài “Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội” là cái chi tiết

tạo không khí như thế.

Kinh nghiệm tạo không khí là phải có quan điểm lịch sử, quan điểm

địa lý, quan điểm thiên nhiên, có óc tưởng tượng mới tạo ra được.

Bài Nguyễn Văn Trỗi, tôi viết ngay khi có tin ấy. Tôi muốn tạo ra cái

résonnance toàn thế giới. Lúc đó tài liệu gầy guộc nghèo nàn quá, tôi phải cố

tạo ra không khí bằng cách ngồi trước quả địa cầu và bản đồ thế giới mà tưởng

tượng.

Có người nhận xét tôi lan man, không phải không đúng. Nhưng bài văn

đâu phải bản báo cáo mà phải có các mục 1, 2, 3, hay như bài rédaction, bài

composition của học trò, cũng không phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận,

kết... Nó tuỳ theo nhà văn định nói gì và cách nói của anh ta. Lan man là hiện

tượng, nhưng nó có cái fil d’idée của nó. Nó không có hại gì về bố cục, về tư

tưởng là được.

Sông Đà bảo là lan man, thực ra là cái fil d’idée của nó là vấn đề giao

thông vận tải...

Có người lại bảo tôi là thiên nhiên chủ nghĩa không nói đến người. Thế

thì bài Xoè của tôi bỏ đi đâu? Người ta có định kiến sẵn khi phê bình nên không

nhìn toàn diện.

Tôi cho nội dung không thiếu. Cái quan trọng là cách nói cho nổi cái

nội dung đó lên, thế mới gọi là có đóng góp. Cách nói, nói thế nào là điều tôi

băn khoăn nhiều và thế mới có ích.

- Tôi không thích khẳng định nhiều quá... Có lối viết đưa ra kết luận rõ

ràng, dứt khoát, có cách viết không kết luận, để tự người đọc kết luận lấy, gọi là

lối nóng, lối lạnh. Tôi thích lối thứ hai này. Người nước ngoài thường than

phiền văn học ta trop d’ affirmatifs, trop de superlatifs, đáng lẽ nói tốt thì lại

nói “rất tốt”, “rất vĩ đại”...

Khi tôi và Nguyễn Tuân trò chuyện với nhau thì cuộc tranh luận về

thể ký còn đang tiếp tục sôi nổi trên các báo chí (1966, 1967). Tôi bèn hỏi quan

niệm của Nguyễn Tuân về thể văn này.

Ông nói: “- Đúng, người ta đang tranh luận về thể ký. Ký và cấu.

Nhiều người tham gia tranh luận nhưng có viết ký đâu. Tôi thì cứ viết. Có người

hỏi làm thế nào để viết ký cho hay, không nhạt. Tôi cho rằng phải có vốn văn

hoá, vốn kiến thức. Người viết có nhiều dụng cụ thì đồ chế tạo nhất định phải

tinh xảo hơn. Kiến thức lịch sử, địa lý, thiên nhiên..., rồi vận dụng các ngành

nghệ thuật. Mà nói chung thì nghệ thuật nào chẳng phải mượn các cách của

nghệ thuật khác để thể hiện. Khi anh không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy, cái

vai, tả người cúi xuống, cái mông bóng lên, là vô tình đã phải vay mượn điêu

khắc rồi”.

Nói ký là bước sơ bộ của truyện, không đúng. Các thể loại văn học đều

bình đẳng. Mỗi thể văn được chọn viết là do cái tài khác nhau. Một ký hoạ chì

than có thể giá trị hơn một bức sơn mài lớn. Cùng một matière có thể người này

viết truyện ngắn, làm thơ, người kia viết ký. Không có tài không viết ký được.

Ông A. France, nhà xuất bản bảo ông viết truyện ngắn. Ông ấy nói, tôi

làm gì có thời giờ viết truyện ngắn.

Viết truyện, phải có nhân vật. Nhân vật truyện không bị gò bó trong

không gian, thời gian hay ước lệ sân khấu. Nhân vật truyện muốn làm gì thì

làm, tự do.

Ký không bắt buộc có nhân vật, hay đúng ra chỉ có bóng dáng của

nhân vật. Nên nhân vật không cần có lí lịch, tính cách, số phận rõ ràng.

Ký ghi sự việc, thấy ẩn ẩn hiện hiện một nhân vật nào đó. Thoáng một

tý hình ảnh, ký là sự việc. Sự việc thì cũng phải có thằng người.

Bốn người viết bốn thể tài, cũng đi thực tế. Cùng nghe, thấy, hỏi, ghi

chép. Kịch hỏi khác. Truyện hỏi khác. Giác quan anh viết ký phải dựng lên hết.

Sách cũng là một thực tế. Thí dụ đọc sách về Lai Châu như cuốn La

mission de Pavy, đến một lúc nào đó, có khái niệm về Lai Châu, biết đích xác

lịch sử Lai Châu. Lai Châu thành một thực tế. Viết ký phải đọc nhiều. Thượng

vàng hạ cám, đọc hết. Nhưng đọc xong phải có cái ý của mình, ghi lại. Có chỗ

phải đánh dấu vì hay, để đọc lại.Đọc sách địa chất, tình yêu Tổ quốc càng cụ

thể.

Phản ánh thực tế phải xoáy vào một điểm, nhưng phải có diện rộng soi

vào đó. Đó là kinh nghiệm viết.

Văn khác toán. Toán chỉ có một đáp số. Văn học lắm đáp số. Anh phê

bình lại cứ đòi một đáp số.

Tôi viết Sông Đà. Thằng Tây nói sông Đà đen. Tôi viết Sông Đà đỏ lên,

sau bỏ chữ “lên” đi cho khoẻ.

Nói đến đấy, ông dừng lại nghỉ hơi một lúc. Rồi bỗng quay trở lại cái ý

về lối viết “nóng”, lối viết “lạnh” – chắc ông chợt nhớ đến có kẻ từng phê phán

truyện Chém treo ngành của ông trong Vang bóng một thời.

Có người nói tôi thích nhấm nháp cái tài chém treo ngành trong

Vang bóng một thời, mà kẻ chém lại là tay sai đế quốc, phong kiến. Thực ra tôi

muốn nói tội ác của chúng nó là như thế đó, nó vừa nhắm rượu vừa xem chém

người – Khi đăng trên Tao đàn tôi lấy tên Bữa rượu đầu lâu (Thực ra, đọc Tao

đàn, tôi chỉ thấy cái tên Bữa rượu máu – NĐM). Người ta cứ muốn phải nói rõ

thái độ đả kích, phê phán. Tôi cho không cần, và đó là lối “lạnh” phải để độc

giả tự kết luận, cho họ tự do. Có phải giảng chính sách đâu mà cứ phải nói rõ

đúng sai và phải chỉ ra thực hiện thế này, thế khác. Văn học khác chứ!

Người ta còn nói tôi thích quay lại thời phong kiến.. Cái cổ không nhất

thiết là cái phong kiến, mà có cả dân gian nữa chứ!

- “Viết văn phải có tinh thần khoa học. Song có cái genre merveilleux,

genre fictif. Ai chả biết quả đất xoay quanh mặt trời. Thế mà bao đời nay vẫn

viết mặt trời mọc, mặt trời lặn mà cứ phải thừa nhận trong văn học. Thế đấy, có

cái rất phi lý mà vẫn tồn tại”.

Nguyễn Tuân nói liền một mạch như thế, rất say sưa. Trên kia tôi đã

nói đến cái lần, tôi được cử ra Hà Nội mời Nguyễn Tuân vào Đại học Sư phạm

Vinh để nói chuyện về ký chống Mỹ. Chính trong cái lần ấy tôi đã nung nấu

một bài viết về ký chống Mỹ của Nguyễn Tuân (Bài này do chị Thiếu Mai, lúc

đó ở Tạp chí văn học đặt)

Tháng 8 năm 1968, bài viết được đăng trên tạp chí với đầu đề: “Con

đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký chống Mỹ”. Vì bài này mà ông Hoài Thanh

(Thư ký toà soạn Tạp chí Văn học lúc bấy giờ) bị ông Trường Chinh gọi lên

khiển trách. Hồi ấy bị ông Trường Chinh phê thì thành chuyện ầm ĩ lắm.

Nguyễn Tuân cũng biết.

Hôm ấy tôi gặp ông đang sắp hàng ở một quán bia hơi ở Phố Huế

(Nguyễn Tuân gọi là bia bơm), ông vẫy tôi lại gần, cười nói: “Họ lôi cả anh vào



với tôi rồi đấy!”.

Có lẽ vì thế chăng mà Nguyễn Tuân có cảm tình với tôi. Tuy vậy tôi từ

đấy cũng không có lần nào gặp Nguyễn Tuân nữa. Không phải ngại gì cả. Tính

tôi thế. Biết người ta có thích mình đến không mà đến. Nghe nói Nguyễn Tuân

rất khó tính, rất kiêu ngạo. Vả lại ông bằng tuổi cha chú của mình, bạn bè gì mà

đến chơi. Có khi ông ấy lại tưởng mình “thấy người sang bắt quàng làm họ”, cứ

đến quấy nhiễu ông.

Người ta đều nhận thấy Nguyễn Tuân là một cây bút rất tài hoa và

uyên bác. Đúng như thế. Nhân vật chính của tuỳ bút là bản thân cái tôi của tác

giả. Ký, tuỳ bút, hay hay dở là phụ thuộc vào cái tôi ấy có phong phú hay

không. Cho nên không uyên bác không trở thành nhà bút ký, tuỳ bút được. Vì

thế Nguyễn Tuân đọc rất nhiều, đọc đủ loại: côn trùng học, địa chất học, địa lý

học, sử học, giao thông vận tải...

Một lần tôi đến Nguyễn Tuân thấy ông đặt trên bàn một cuốn sách viết

về giao thông vận tải của Mỹ, trong dó có bức ảnh chụp buổi lễ khánh thành

đường xe lửa xuyên Mỹ: hai cái đầu tầu đi ngược chiều áp vào nhau nơi lắp cái

đinh bù- loong cuối cùng nối hai đường tầu với nhau. ở hai đầu tầu, có hai

người rót rượu chạm cốc. Cái đinh bù – loong này làm bằng vàng nguyên khối -

Nguyễn Tuân cười nói: “Nếu ở Việt Nam thì cái đinh bù – loong này đã bị đánh

cắp từ đêm trước”.

Sự uyên bác của Nguyễn Tuân cũng có chỗ độc đáo: ông muốn những

tư liệu của ông chỉ mình ông có, nghĩa là độc quyền tư liệu. Thí dụ, có bao

nhiêu tấm ván trên cầu Hiền Lương, hoặc Hà Nội có bao nhiêu cây tươi... Tìm

cho được nhưng tư liệu ấy cũng phiền phức, công phu lắm: phải đóng vai sỹ

quan quân đội đổi gác trên cầu Hiền Lương để đếm được các tấm ván ở cả đầu

Bắc lẫn đầu Nam , phải tìm đến công ty quản lý cây xanh Hà Nội để biết con số

cây tươi của thành phố. Những tư liệu ấy có ý nghĩa gì quan trọng đối với nội

dung và hình thức bài ký? Tôi ngờ rằng ý nghĩa không nhiều. Nhưng Nguyễn

Tuân có lẽ ít quan tâm đến điều ấy. Cái quan trọng đối với ông là: tư liệu ấy chỉ

mình ông có, “đếch” thằng nào biết.

Đầu năm 1980, bỗng nhiên Nhà xuất bản Văn học cho người đến mời

tôi làm Tuyển tập Nguyễn Tuân.

Tất nhiên là tôi rất mừng và cảm động.

Hồi ấy tôi ở một căn phòng thuộc tầng năm của một chung cư gọi là

nhà B2, khu tập thể cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh Lê Khánh,

biên tập viên NXB Văn học đến thông báo cho tôi và cùng tôi làm Tuyển tập.

Lê Khánh nói, ngày mai ta đến gặp Nguyễn Tuân để bàn chuyện. Tôi

nhất trí ngay. Tôi cũng thấy cần gặp Nguyễn Tuân để hỏi nhiều điều cần thiết để

viết về ông.

Sáng hôm sau, 8 giờ, chúng tôi có mặt ở nhà Nguyễn Tuân. Ông chấp

nhận đề nghị của tôi, hẹn gặp làm việc 8 giờ sáng hôm sau. Ông dặn: “Anh cứ



chuẩn bị sẵn những câu hỏi, đến làm việc cho nhanh”. Hôm sau tôi và Lê

Khánh lại đến.

Tôi bắt đầu hỏi. Nguyễn Tuân gạt đi: “Thôi để lúc khác”. Rồi ông nói

đủ thứ chuyện nhưng không dính dáng gì đến việc viết tiểu sử và làm tuyển tập

cả. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi: “Thế bao giờ ta làm việc?”. “Mai, 8 giờ sáng”, ông

lại hẹn đúng như hôm trướ__________c.

Tôi không hiểu, nhưng Lê Khánh biết ý. Khi ra về, anh nói với tôi:

Ngày mai tôi không đến nữa, anh đến một mình thôi. Ông ấy không thích tôi”.

Ngày mai tôi đến một mình. Quả nhiên làm việc rất nhanh chóng trôi

chảy. Tôi hỏi, Nguyễn Tuân trả lời, rất gọn.

Mấy ngày sau, tôi đem chuyện này nói với Xuân Diệu. Xuân Diệu nói:

Đúng quá còn gì nữa, cậu chẳng hiểu gì cả. Trai gái yêu nhau, nói chuyện tâm



tình với nhau, có người khác ngồi đấy, nói sao được!”. Cái gì Xuân Diệu cũng

liên hệ đến chuyện trai gái.

Khác với Xuân Diệu, Nguyễn Tuân không hề quan tâm gìn giữ những

tài liệu của mình. Làm tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi không khai thác được tài liệu

gì quan trọng của ông hết, ngoài hai cuốn kiếm đâu cũng được: cuốn tuỳ bút

Tình chiến dịch và tiểu thuyết Quê hương (Sài Gòn in lại, vất đi nhiều chương

một cách rất tuỳ tiện). Ngoài ra có tập Tôi đọc, tập hợp những bài tiểu luận phê

bình viết sau cách mạng tháng Tám. Cuốn sách này vừa in ra đã bị cấm, phải

huỷ hết. May mà Nguyễn Tuân giữ lại được một bản. Thực ra những bài in

trong Tôi đọc cũng không khó tìm. Toàn những bài đã đăng trên sách báo sau

cách mạng.

Thành ra làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi phải tự xoay xoả lấy cả. May

mà tôi đã nghiên cứu Nguyễn Tuân từ hai mươi năm trước (1960) nên biết được

hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Tuân đã in thành sách hay đăng lên các loại

báo chí. Có những tờ báo không tên tuổi, chẳng ai để ý như tờ Tuần lễ. Tôi đã

tìm được ở đấy bài Răng người tình của Nguyễn Tuân, viết năm 1938.

Khi bắt đầu làm tuyển tập, Lê Khánh nói với tôi: “Tuyển văn Nguyễn



Tuân phải cẩn thận, thí dụ như bài Chém treo ngành thì không nên tuyển”.

Nhưng tôi rất thích truyện này, một truyện rất Nguyễn Tuân. Tôi đi tìm

nguyên bản tác phẩm này khi chưa bị kiểm duyệt, đăng trên Tao đàn thời Mặt

trận dân chủ Đông Dương. Mới thấy bọn kiểm duyệt thời Tây rất tinh. Nó cắt đi

ba chi tiết mà tác phẩm chuyển hẳn tư tưởng. Quả là chi tiết trong truyện ngắn

cực kỳ quan trọng: một là nó bỏ cái tên tác phẩm Bữa rượu máu, thay bằng



Chém treo ngành, hai là hình ảnh thằng công sứ Tây và thằng tổng đốc ta chuốc

cho nhau hai tuần rượu và cái chi tiết cơn lốc lớn chạy giữa hai hàng tử tù, đuổi

theo và lật cái mũ thằng công sứ quẳng xuống cho lăn lộn mấy vòng trên bãi cỏ

pháp trường.

Tôi đưa ngay tác phẩm này vào Tuyển tập một cách đắc ý. Nguyễn

Tuân rất khoái. Ông mời tôi uống rượu và chửi Hoàng Trung Thông: “Thế mà



Hoàng Trung Thông nó bảo nhấm nháp chém đầu người. Thằng cha cũng làm

văn mà sao nó ngu thế!”.

(Vậy mà mãi sau này, trong “Chân dung và đối thoại”, Trần Đăng

Khoa vẫn lặp lại ý kiến của Hoàng Trung Thông).

Tôi để ý thấy có hai trường hợp, Nguyễn Tuân không đồng ý cho vào



Tuyển tập. Một là bài ông viết về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, hai là bài ông

viết về Dostoievsky. Bài thứ nhất có lẽ do Nguyễn Phan Chánh là bố vợ Lê

Quang Đạo, khi chết được đặc cách đưa vào Mai Dịch. Ông ghét Lê Quang Đạo

chăng? Còn bài thứ hai là vì lý do khoa học. Ông tự thấy chưa đọc hết các công

trình về Đôxtôi, và đọc ai, mượn ý của ai, giờ ông không có điều kiện tra cứu để

chú thích cho sòng phẳng. Về mặt này, Nguyễn Tuân tỏ ra rất nghiêm khắc về

mặt khoa học (Sau , chúng tôi nài mãi ông mới chịu. Nhưng ông yêu cầu phải

cho ông viết mấy dòng gọi là “Tái bút” để thanh minh với độc giả).

Hồi năm 1929, ông học ở trường Thành Chung Nam Định, do tham gia

một cuộc bãi khoá để phản đối một giáo viên người Pháp nói xấu người Việt

Nam, ông bị đuổi học. Trường học ghi vào học bạ, phạt những người tham gia

bãi khoá năm năm không được học ở trường nào, không được làm ở công sở

nào. Ông về Thanh Hoá rủ một người bạn (theo Tô Hoài, là Lương Đức Thiệp)

đi chơi qua Lào, sang Thái Lan, đến Băng Cốc, thì mật thám bắt giải về nước

theo đường Cămpuchia về Sài Gòn, rồi đưa ra quản thúc ở Thanh Hoá, nơi cụ

thân sinh ra ông làm việc.

Khi làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi hỏi ông, sang Thái Lan làm gì?

Ông nói: “Người khác sẽ nói là đi tìm đường cứu nước. Nhưng tôi thì nói thật,



vì đi chơi không có giấy phép nên nó bắt, thế thôi”. (Theo Tô Hoài, Nguyễn

Tuân rủ Lương Đức Thiệp sang Xiêm để tìm ngọ__________c ở Pâylinh).

Trong quá trình làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi có điều kiện tiếp xúc

luôn luôn với ông. Ông quả là người khó tính, không phải ai đến, ông cũng tiếp.

Có lần ông đuổi một anh thanh niên đường đột đến thăm ông: “Anh đến gặp con

gái tôi đấy à? Nó đi vắng rồi!”. Lại nghe nói có một cán bộ lãnh đạo ông không

ưa, đến chúc Tết ông, ông mở cửa sổ nhìn xuống nói: “Nguyễn Tuân đi vắng”,

rồi đóng sập cửa lại...Nguyễn Văn Hạnh muốn đến ông, nhưng cũng ngại... Vậy

mà đối với tôi, ông tỏ ra rất dễ dãi. Ông cho phép tôi đến ông lúc nào cũng

được, không cần báo trước, miễn là đến sau 10 giờ sáng. Trước giờ đó, ông có

thói quen đi dạo mấy vòng ngoài phố, 10 giờ thì về ăn cơm.

Có điều này, ông nói tôi mới biết: Anh Lý Hải Châu, giám đốc Nhà

xuất bản Văn học đề nghị hai người làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tuỳ nhà văn

quyết định. ấy là Vũ Ngọc Phan và tôi. Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Tất nhiên tôi

rất cảm động, nhưng vinh dự này cũng đặt lên vai tôi một gánh nặng: phải chọn

lựa tác phẩm và nhất là phải viết bài giới thiệu sao cho xứng đáng với sự tín

nhiệm của ông.

Bài viết chỉ có hơn 60 trang (in chữ nhỏ), mà tôi đã phải viết trong hơn

sáu tháng. Rất may đã được Nguyễn Tuân cho là được. Ông chỉ nói vắn tắt “Tôi



không có ý kiến gì khác”.

Tuyển tập Nguyễn Tuân gồm hai cuốn, xuất bản năm 1981, 1982.

Ngày 29 – 5 – 1982, Nguyễn Văn Bổng, hồi đó làm tổng biên tập tuần

báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc toạ đàm về Tuyển tập Nguyễn Tuân ở trụ sở

Văn nghệ. Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Hổ, Lý

Hải Châu, Lê Khánh,Từ Sơn, Ngọc Trai, Nguyễn Bao, Thiếu Mai... và tôi.

Tôi nhớ hôm ấy, Xuân Diệu nói: “Nghe nói văn Chùa Đàn rất hay,

nhưng không có trong Tuyển tập. Phải trích vài trang Chùa Đàn cho người ta

biết mặt mũi tác phẩm này chứ. Tại sao không cho người ta có cái thú đọc văn

hay nhỉ! Qua Tuyển tập, tôi mới hiểu được anh Nguyễn Tuân. Tại sao lại cứ đòi

văn phải có ý nghĩa. Trai gái nó hôn nhau thì cần gì ý nghĩa. Sự sống có ý

nghĩa gì đâu. Tôi rất thích truyện “Một vụ bắt rượu lậu”. Dân mình thông

minh, hóm thật đấy. Xưa tôi đã từng làm đoan, tôi cũng đã từng đi bắt rượu lậu

mà không biết.”

Hôm ấy, Nguyễn Tuân rất vui. Ông phát biểu rất hào hứng: “Hiện nay



có một Tuyển tập Nguyễn Tuân ở California, một cuốn ở Paris, một cuốn ở Sài

Gòn, tôi tặng tướng Trần Văn Trà do bài hồi ký của ông ta.”

Hôm ấy, ông cũng nói công khai về việc chọn tôi làm Tuyển tập: “Vũ



Ngọc Phan hồi xưa làm báo Revue Franco – Annamite, đi xe nhà, làm cái “Nhà

văn hiện đại" chữ nghĩa chằn chẵn ra, chẳng có trouvaille gì, gọi là cái

catalogue St étienne littéraire. Có vẻ accadémique. Giữa hai người, chọn

Nguyễn Đăng Mạnh còn đỡ hơn”.

Ông phê bình việc cắt xén truyện Rượu bệnh tôi trích và đổi tên là Bố



Ô: “Trích như thế làm cho không còn có tính chất yêu ngôn nữa, đó là

fantaisiste và fantastique kia mà, lão Bố Ô còn huýt sáo, còn có chuyện cháy

nhà...

Tôi còn có truyện Thạch tinh, không nhớ đăng báo nào: một anh ăn

chơi, bị sỏi thận. Đêm, hai viên sỏi thận (thành tinh) nói chuyện với nhau,

người đó nghe được”.

Ông nói tiếp: “Còn Như Phong, còn Mao, thì không thể có Tuyển tập



Nguyễn Tuân. Ông Như Phong có lần nói, văn Nguyễn Tuân để cho người hút

thuốc phiện và hát ả đào đọc. Tôi giận lắm. Tôi bảo Như Phong: “Tôi giận anh

lắm, thế trước cách mạng, tôi hút, anh cũng hút. Thế có phải lúc đó vì đọc sách

của tôi mà anh hút không?”

Ông Vũ Đức Phúc rất ghét văn tôi, vậy mà gần đây ông ấy phải viết

khen văn tôi. Nhưng mà sau khi khen ông ấy lại sợ người ta hiểu sai, đề cao tôi

quá, lại nói Nguyễn Tuân không phải là nhà văn lớn. Nào tôi có muốn là nhà

văn lớn đâu, tôi chỉ mong làm một nhà văn trung bình, viết về cái gì mình thích,

thế thôi.

Hồi Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật có phân ra các ban về văn hoá: ăn,

mặc, ở. Hà Huy Giáp bảo tôi: Anh hay chú ý về cái ăn, vậy anh suy nghĩ xem có

cái gì viết, tìm ra lý luận gì về ăn uống. Tôi viết về giò chả. Ông Vũ ____________Đức Phúc

phê phán là phục vụ bọn phe phẩy mặc áo phin nõn, áo nilông. Sau có chuyện

mậu dịch ta bán phở, thế là phục vụ phe phẩy à?

ở Hàng Buồm có quán Bạch Ngọc cơm tám giò chả rất ngon, mở từ

thời xưa, có thanh toán hết nợ cũ (tháng trước) thì mới bán tiếp. Bà chủ quán

bảo tôi: “Ông ăn uống mãi mà ông dại. Người ta ăn gấp mấy ông nhưng không

nói. Ông ăn, ông nói, nên ông chết”.

Lúc ấy có một anh nhiếp ảnh của báo Nhân dân đến chụp. Nguyễn

Tuân lại chuyển sang nói về chụp ảnh: “Camus nói, le photographe, c’est

l’histoire de l’instant. Có người lại ví quay phim là lia một băng liên thanh, còn

chụp ảnh là lẩy phát một. Chụp ảnh là làm một việc rất thiện ý mà người ta khó

chịu”.


Cuối cùng ông lại quay về chuyện Tuyển tập. Ông nói: “Cái người đàn

bà không đẻ được nữa, người ta gọi là tắt kinh, còn nhà văn không viết nữa,

già, hết thời, tôi gọi là đến thời kỳ “tuyển hồi” (viết hồi ký và làm tuyển tập). In

tuyển tập tập I là un pieds dans la tombe rồi, in tập II thì là đưa cả hai chân...”

Từ sau chuyện Tuyển tập, thấy Nguyễn Tuân dễ dãi với mình, tôi thỉnh

thoảng lại đến ông. Tuy vậy lần nào đến cũng phải kiếm một cớ gì đấy, gọi là có

việc, chứ không phải đến chơi suông.

Hôm ấy, nhân nghe nói, ông có những nhận xét rất ác về giới phê bình

văn học, tôi đến ông để dò hỏi về điều này. Quả là ông không mấy lạc quan về

tình hình phê bình văn học.

Ông nói: “Nước mình không qua tư bản chủ nghĩa, người ta thấy có



trở ngại về kinh tế, song chưa thấy trở ngại về tư tưởng. Lão Khổng Tử ghê

gớm lắm!

Phê bình hiện nay cứ có lối aurait écrire, lối conditionnel. Vào hàng

phở lại đòi ăn cơm và phê bình không nấu cơm, lẽ ra nấu cơm thì sẽ ... hay hơn.

Thành ra để tránh conditionnel, người viết phải dùng toàn inpératif hay

infinitif.

Tây phương nó đòi dân chủ, bàn đã khá triệt để, đòi được tự do, được

quyền phạm sai lầm, revendiquer le droit de l’ erreur. Không phải để làm bậy

đâu mà đòi một cái marge cho tự do tìm tòi. Nếu bắt phải đúng thì ai dám tìm

tòi. Mà sao phạm sai lầm lại là độc quyền của một số người!

Trong lịch sử ta đã có lúc giương lá cờ độc lập tự do để tập hợp nhân

dân, nhưng không mấy khi dám giương riêng lá cờ dân chủ.

On trouve quand on cherche. Quand on cherche, on trouve quelque

chose. Khi người ta tìm có thể không tìm ra cái định tìm, nhưng nhất định tìm

ra cái gì đó, một cái khác với dự định.

Hiện nay đang hình thành một thứ provincialisme, một thứ chủ nghĩa

tỉnh xép trong quan niệm, trong tình thần lãnh đạo.

Người ta phê bình Tình rừng của tôi cũng theo lối aurait écrire.

Còn cuộc tranh luận chung quanh thể ký thì cứ cãi nhau ký với cấu, ký

không cấu, đúng là trò cười.

Về Vũ Trọng Phụng thì tôi biết, chả có trốt – kít gì cả đâu. Hồi ấy viết

lách lung tung lắm.

Hiện nay người ta ách nhiều thứ quá. ách truyện ngắn Gogol, ách Le

Rouge et leNoir, ách Guy de Maupassant, Le Boule de suif, định dịch Le steppe

sau lại thôi. ách cả La peau de chagrin... Phê bình thì theo kiểu aurait écrire.

C’ est une gratuité. Tôi ghét nhất loại chính thống orthodoxe mà lại giả vờ thắc

mắc, để do thám, aux écoutes người khác. ách Miếng da lừa vì cho là chủ nghĩa

sống gấp. ách Le Rouge it le Noir vì cho rằng ông cha ta, vợ chồng ngủ với

nhau cũng khăn áo chỉnh tề, nay nó lại dám cởi quần áo ra thì láo quá!

ở ta, một mặt khuyến khích réalisme, mặt khác lại tránh cái réel. Tạo

ra một thứ littérature abstraite, hình như không đúng phương pháp nghệ thuật.

Chỉ nói ý, không có hình tượng thật. Theo tôi cần làm một essai có hệ thống về

vấn đề này.

Tôi thấy cần chuyển câu chuyện sang hướng khác, và muốn tìm hiểu

xem khuynh hướng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân như thế nào khi đọc các sách vở

ngoài nước (từ 1945 đến 1975, sách vở nước ngoài vào nước ta chủ yếu là sách

Liên Xô, Trung Quốc)

Nguyễn Tuân tỏ ra có tình cảm với văn học Nga hơn. Ông nói, thích

Gogol, Tchékhov, thích Le Manteau. Thích Paoutovsky. Cuốn Histoire d’ une

vie, sáu tập của Paoutovsky có đoạn văn rất tuyệt: trên tàu điện, người ta phân

phát cho mỗi người một bông hoa. Một đoạn văn có cái lyrisme rất hay.

Nguyễn Tuân rất ghét lối phê bình văn học kiểu Mao-it của Tầu lúc

bấy giờ. “Cuốn Ballade d’un soldat nói về một anh lính lúc đầu nhát, sau có



thành tích. Họ phê phán: “Sao lại đưa ra một anh lính nhát”. Tra từ điển

Larousse, tôi thấy nó định nghĩa: le courage, c’ est triompher la peur. Không

phải can đảm sinh ra đã có, phải có quá trình chứ. Người ta không thích quá

trình, cứ phải sinh ra đã can đảm rồi.

Chung quy là do thiếu văn hoá. Thiếu văn hoá thì sinh ra hẹp hòi. Đó

cũng là tư tưởng của phong kiến và của nông dân”.

Một lần khác, vào đầu tháng 11 năm 1986, tôi lại đến thăm Nguyễn

Tuân. Nhân đang làm tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tôi muốn hỏi ông một vài chi

tiết cụ thể về nhà văn này mà tôi biết ông rất quý. Ngoài ra muốn ông viết cho

một bài về Vũ Trọng Phụng để in vào Tuyển tập.

Lúc tôi đến, ông đang nằm xem sách. Ông ngồi dậy, có vẻ mệt mỏi.

Trên bàn thấy có một mâm cơm rất đạm bạc. Một bát cơm ăn dở. Vài miếng

dứa trên một cái đĩa.

Tôi hỏi ông về ngôi nhà của Vũ Trọng Phụng ở Cống Mọc, Vũ Trọng

Phụng chết ở đó. Tôi nói anh Vũ Đình Liên cho tôi biết đó là một ngôi nhà lá.

Nguyễn Tuân cau mặt:

- Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên. Nhà ở Chợ Đuổi, chả biết vợ con xích



tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương