CÔng tác giáo dụC, truyền thông biểN ĐẢO, MỘt số LƯU Ý CẦn thiết ts. Trần Công Trục


Nhận dang các loại tranh chấp hiện nay trong Biển Đông



tải về 298.19 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích298.19 Kb.
#6729
1   2   3

3. Nhận dang các loại tranh chấp hiện nay trong Biển Đông:

Trong một số tài liệu, sách vở, báo chí và các phát biểu của môt số học giả, chuyên gia..vẫn có vấn đề trong nhận thức, hoặc là những kiến thức, thông tin chung chung, hoặc là cung cấp những khái niệm sai lệch khiến người ta không thể lý giải được bản chất của những tranh chấp phức tạp này.

Hiện tại, trong Biển Đông có 2 loại tranh chấp chủ yếu:



Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tranh chấp về ranh giới các vùng biển và thềm lục địa do các quốc gia ven Biển Đông khi vận dụng quy định của UNCLOS để xác định phạm vi các vung biển và thêm lục địa của mình, đã tạo ra những vùng chồng lấn.

Hai loai tranh chấp này hoàn toàn khác nhau về nội dung, tính chất, phạm vi và nguyên nhân…Vì vậy, các nguyên tắc pháp lý để xử lý, giải quyết chúng cũng rất khác nhau.

Tuy nhiên, vì có mối quan hệ với nhau do tồn tại trong cùng một phạm vi địa lý và tác động qua lại của chúng, nhất là trong việc xác định phạm vi các vùng biển, thềm lục địa có tinh đến hiệu lực của các quần đảo này như thế nào, cũng là nguyên nhân gây nên những nhận thức khác nhau nói trên.

Loại thứ nhất: thực chất đây là tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ được tạo nên bởi một số nước trong khu vực đã lợi dụng cơ hội và sử dụng vũ lực để chiếm đóng môt phần hay toàn bộ quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam ở giữa Biển Đông.

Theo Công pháp quốc tế, để chứng minh, bảo vệ và giải quyết loại tranh chấp này các bên liên quan hoăc cơ quan tài phán quốc tế đã dựa vào nguyên tắc “ Chiếm hữu thật sự”; một nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện đại đang được vận dụng trong khi xem xét giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thông dụng nhất hiện nay. Điều đáng nhấn mạnh là trong UNCLOS không có điều khoản nào đề cập đến nguyên tắc này. Nói một cách khác, UNCLOS không phải là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Loại thứ 2: tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới biển và thềm lục địa chồng lấn.

Đây là loại tranh chấp được hình thành trong xu hướng thay đổi có tính chất cách mạng về Địa-Chính trị, Địa- Kinh tế trên phạm vi toàn thế giới với việc khoảng 36% diện tích biển và đại dương thế giới đã được đặt dưới chủ quyền , quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven biển kể từ khi Công ước của LHQ về Luật Biển 1982 ra đời. Kết quả là, trên thế giới còn khoảng 416 tranh chấp về ranh giới biển, thềm lục địa cần được hoạch định, trong đó khu vực Đông Nam châu Á cò khoảng 15 tranh chấp, tất nhiên người ta không tính đến tranh chấp được tạo thành bởi đường biên giới lưỡi bò của Trung Quốc, vì tính chất phản khoa học và hoàn toàn đi ngược lại các tiêu chuẩn của UNCLOS của nó. Như vây, rõ ràng là UNCLOS chỉ là căn cứ pháp lý để giải quyết mọi tranh chấp về biển, trong đó có tranh chấp do việc giải thích và áp dung Công ước Luật Biển không đúng hoàn toàn hay từng phần. Chẳng hạn, việc vạch ra hệ thông đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa, đường cơ sở của các hải đảo, quần đảo xa bờ, của quốc gia quần đảo…là nội dung thường là có sự khác nhau, nên đã tạo ra các vùng chồng lấn to nhỏ khác nhau cần được các bên tiến hành hoach định theo những nguyên tắc nhất định, tùy theo chế độ pháp lý của từng vùng biển và thềm lục địa do Công ước quy định. Ví dụ, tại Điều 15, Mục 2, Phần II, Công ước quy định về việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hay đối diện nhau: “ Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ phi có sự thỏa thuận ngược lai….”.Hay, tại Điều 74, Phần V, Công ước quy định việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau : “ Việc hoạch định ranh giới vung đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng”…, thường được gọi là theo nguyên tắc công bằng…

Liên quan đên vấn đề nay, xin nhấn mạnh một nội dung mà lâu nay trong dư luận vẫn con nhiều ý kiến khác nhau: Đó là, hiện nay có quan điểm cho rằng yêu sách biên giới “đường lưỡi bò” của Trung Quốc có từ năm 1946, trong khi UNCLOS ra đời năm 1982, cho nên đường “lưỡi bò” không chịu sự điều chỉnh của UNCLOS và vì Trung Quốc cũng không nói đường “lưỡi bò” của họ là dựa vào điều khoản nào của luật pháp quốc tế, của  UNCLOS, nên việc Tòa án Quốc tế về Luật Biển có thụ lý vụ kiện do Philippines đệ đơn lên Trọng tài quốc tế về Luật Biển hay không còn phải chờ…

Đầu tiên cần phải nói rõ, không có chuyện đường lưỡi bò có trước UNCLOS thì Trung Quốc không chịu sự ràng buộc nào của UNCLOS ở Biển Đông. Trung Quốc là 1 quốc gia thành viên công ước, đã đặt bút ký phê chuẩn UNCLOS thì phải có nghĩa vụ tuân thủ Công ước này, đó là nguyên tắc; mọi văn bản luật pháp của quốc gia thành viên ban hành trước mà trái với Công ước đều không có hiệu lực pháp lý.

Nếu không như thế thì Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha sẽ có quyền đòi chia đôi Đại dương quốc tế cho mình theo con đường được vạch ra theo Sắc chỉ Inter Coetera ngày 4 tháng 5 năm 1493 của Giáo hoàng Alecxandere VI và liệu  những quốc gia trước khi Công ước có hiệu lực đã  quy định lãnh hải của họ có chiều rộng đến 200 hải lý hay  dưới 12 hải lý thì cũng cứ giữ nguyên? Nếu  cứ  như thế thì bao nhiêu trí tuệ, tinh hoa và nỗ lực không ngừng của cộng đồng quốc tế để có được một  Công ước  như ngày nay là vô nghĩa?

Để biện luận cho yêu sách của mình, Trung Quốc sử dụng khái niệm “chủ quyền lịch sử” vào phạm vi biển nằm trong  đường “lưỡi bò”; cố tình “xào xáo” lẫn lộn khái niệm chủ quyền lãnh thổ đối với các quần đảo  và khái niệm chủ quyền ,quyền chủ quyền và quyền tài phan đối với các vùng biển và thềm lục địa để ngụy biện cho lập trường của mình. Tuy nhiên, nhiều học giả, chính khách quốc tế đã nhận rõ bản chất lập luận mập mờ, lẫn lộn của Trung Quốc. Chẳng hạn, ông  Lý Quang Diệu cho rằng ông không tin Trung Quốc sẽ trình bày rõ yêu sách của mình vốn chủ yếu dựa trên sự “hiện diện lịch sử”. Mặc dù, Trung Quốc đang tăng cường khẳng định vị thế của mình bằng cách tuyên bố có "chủ quyền lịch sử" với Biển Đông,

Ông Lý Quang Diệu còn dẫn ra một sự kiện lịch sử của Trung Quốc: Trong suốt 3 thập kỷ (1405 - 1433), Trịnh Hòa đã chỉ huy 5 chuyến thám hiểm về phía Tây với quy mô và phạm vi lớn chưa từng có. Hạm đội Trịnh Hòa từng kéo qua Biển Đông, Ấn Độ Dương và vịnh Ba Tư, thậm chí tiến xa hơi tới bờ biển phía Đông châu Phi với con tàu dài hơn 400 mét…”



Lý Quang Diệu nhận định, nếu yêu sách dựa trên quan điểm lịch sử của Trung Quốc được xác định làm căn cứ để đòi "chủ quyền" với các vùng biển và đại dương, người Trung Quốc sẽ nói rằng 600 năm trước tàu của họ đi qua Biển Đông mà không bị thách thức…” và, xin bổ sung thêm, với cách lập luận này có lẽ sẽ có nhiều cường quốc hàng hải quốc tế cũng  viện dẫn nhiều cuộc viễn dương đã từng diễn ra, thậm chí  trước cả  thời điểm “xuất dương” của viên “đại thái giám” Trịnh Hòa, để đòi chủ quyền các vùng biển, đại dương mà họ đã từng đặt chân đến. Thử hỏi thế giới sẽ như thế nào và UNCLOS có còn được tôn trọng hay không?...

Có thể nói rằng, Trung Quốc chẳng dựa trên bất cứ căn cứ nào của Công ước Luật biển năm 1982 để bảo vệ cho yêu sách “đường lưỡi bò” khi họ lần đầu tiên  chính thức công bố với quốc tê trong một Công hàm họ gửi cho tổ chức LHQ năm đề ngày 7/5/2009; thời điểm này hiển nhiên xẩy ra sau khi UNCLOS có hiệu lực đến những  27 năm!  Ngay cả chính phủ Mỹ cũng đã phải lên tiếng công khai phản đối đường lưỡi bò. Vì vậy việc chính phủ Philippines khởi kiện Trung Quốc áp dụng, giải thích sai UNCLOS trong yêu sách đường lưỡi bò ở Biển Đông, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông, trong đó có Philippines, là hoàn toàn hợp pháp, hợp lý và là giải pháp hòa bình, tiến bộ, văn minh nhất.

4. Nguyên tắc pháp lý để giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và phân định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn:

Đây là nội dung có nhiều tranh cãi và vẫn luôn là đề tài nóng trong các cuộc Hội nghị, Hội thảo :

- Vai trò của UNCLOS trong việc giải quyết cac loại tranh chấp trên biển?

- Nội dung của nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ đang có hiệu lực trong LPQT?



- Giá trị của các bằng chứng lịch sử, dịa lý, bản đồ...trong việc xem xét chủ quyền lãnh thổ quốc gia dưới ánh sáng của LPQT?

4.1. Những tranh chấp xảy ra trên biển gồm có nhiều loại khác nhau.Công ước Luật Biển năm 1982 không phải là cơ sở pháp lý duy nhất để xử lý, giải quyết tất cả mọi tranh chấp.

Tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299, của Công ước Luật Biển năm 1982 và các Phụ lục có liên quan, đã quy định các nội dung cơ bản như:

- Nguyên tắc giải quyết tranh chấp;

- Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp;

- Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp;

- Trình tự thủ tục hòa giải (Phụ lục V);

- Tổ chức, thẩm quyền và thủ tục tố tụng của Tòa án quốc tế về Luật Biển (Phụ lục VI);

- Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài (Phụ lục VII);

- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án Trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII)…

Các quy định nói trên của Công ước Luật Biển năm 1982 là một bước tiến quan trọng của Luật quốc tế nói chung và Luật Biển nói riêng, là thành quả đấu tranh của mọi quốc gia, nhất là các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển, các quốc gia không có biển và bất lợi về mặt địa lý…Nó phản ánh đúng xu thế của thời đại hiện đại và văn minh, trong đó mọi mối quan hệ phải được xử lý bằng pháp luật.

Nguyên tắc nền tảng được dùng làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 là: Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp trong việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các biện pháp hòa bình theo đúng Điều 2, Khoản 3 của Hiến chương LHQ, Điều 33, Khoản 1 của Hiến chương.

Tại Phụ lục V của Công ước Luật Biển 1982, đã trù định việc thành lập một Uỷ ban hoà giải có chức năng “nghe ý kiến của các bên, xem xét các yêu sách và các ý kiến phản bác của họ và đưa ra có khuyến nghị cho các bên liên quan với mong muốn đạt được một sự hoà giải” ( Điều 6, Phụ lục V).

Các bên tranh chấp có thể tuyên bố bằng văn bản chấp nhận quyền tài phán của một trong các cơ quan tài phán sau: Tòaquốc tế về Luật Biển, Toà án quốc tế, Tòa trọng tài thông thường hoặc Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VIII dành cho các loại tranh chấp đã được định rõ trong Phụ lục này.

Theo quy định tại Điều 296, Công ước Luật Biển 1982, thì các phán quyết  của Tòa có thẩm quyền là có tính chất tối hậu (chung thẩm), các bên tranh chấp liên quan phải tuân thủ. Các quy định về giải quyết tranh chấp của Công ước yêu cầu các thành viên của Công ước phải chấp hành, không được bảo lưu. Tuy nhiên các quốc gia thành viên có quyền lựa chọn cách thức riêng để giải quyết tranh chấp, có quyền lựa chọn phành phần của Toà án…

Cần lưu ý rằng, các quy định nói trên chỉ áp dụng cho những tranh chấp có liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Luật Biển năm 1982. Các loại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, về phân định biên giới, ranh giới biển, thềm lục địa, phân chia lợi ích kinh tế, tài nguyên biển muốn được các cơ quan tài phán quốc tế xét xử thì đều phái có thoả thuận bằng văn bản của các bên liên quan.

Vụ Philippines kiện Trung Quốc (TQ) áp dụng và giải thích sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) ở Biển Đông hầu như đều nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của nhiều nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ, các học giả và luật gia quốc tế. Hiệu quả của vụ kiện này là Tòa án Quốc tế về Luật Biển đã thành lập Hội đồng Trọng tài 5 thành viên và khởi động phiên đầu tiên hôm 11/7. Hiện tại Philippines vẫn tiếp tục kiên trì không thay đổi lựa chọn này bất chấp việc TQ tìm mọi cách vận động, cô lập Philippines và ngăn chặn vụ kiện. 

Theo đánh giá của dư luận thì đó là việc làm văn minh, đúng luật, hoàn toàn không có nghĩa là làm phức tạp vấn đề hay quốc tế hóa vấn đề. Ngược lại chính việc thông qua cơ quan tài phán có thẩm quyền sẽ giúp cho vấn đề được giải quyết một cách sòng phẳng và đơn giản hơn nhiều.

4.2 Như đã đề cập ở trên, UNCLOS không phải là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Tuy nhiên, chủ quyền đối với hai quần đảo này như thế nào thì không thể không đề cập.Bởi vì điều này có liên quan rất mật thiết đến tình hình Biển Đông.

Vì vậy, chúng ta hãy tìm hiểu về những nguyên tắc pháp lý có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ trong Luật pháp và thực tiễn quốc tế để trả lời được câu hỏi quốc gia nào có chủ quyền đối với 2 quần đảo này?

Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và qui phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ.

Từ thế kỷ XVI, do sự phát triển và lớn mạnh của các nước như Hà Lan, Anh, Pháp, ..trở thành những cường quốc cạnh tranh với các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà theo Sắc lệnh của Giáo hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 đã phân chia khu vực ảnh hưởng cho 2 nước này ở các phạm vi lãnh thổ mới phát hiện ngoài châu Âu.

Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện.Đó là nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu”, hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện”. 

Nguyên tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho một quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên.Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc quyền phát hiện chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó. Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện, giá trị pháp lý của việc phát hiện, ai là người phát hiện trước, lấy gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó… 

Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó. 

Mặc dù vậy, nguyên tắc chiếm hữu danh nghĩa  không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng “đất hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý…, mà còn ngày càng dẫn đến những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc vì người ta không thể lý giải được cụ thể cái “danh nghĩa”  đã được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào …

Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ và sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sỹ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thủ đắc mới. Đó là nguyên tắc  “Chiếm hữu thật sự”.

  Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau: “Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên”. “Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng…”

Tuyên bố của Viện pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “… mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. 

Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.

  Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm: (1). Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành. (2). Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (Res Nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp. (3). Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. (4). Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này, nên, mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10 tháng 9 năm 1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì ly do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các Cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. 

Chẳng hạn Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye thang 4 năm 1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, Phán quyết của Tòa án quốc tế của LHQ tháng 11 năm 1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và  Ecrehous…..

Gần đây hơn, Tòa án công lý quốc tế đã quyết định cho Malaisia thắng  trong vụ kiện với Indonexia vào tháng 12/2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng Malaixia đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.

Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý nói trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do các bên tranh chấp nêu ra, chúng ta chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách quan và khoa học về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với hai quần đảo này.

4.3. Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nghiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chưng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lich sử” của Trung Quốc đối với “ Tây Sa” và “Nam Sa” .

Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi thực hư như thế nào? giá trị của chúng đến đâu?

Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền và việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể:

Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.

Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.

Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.



Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Tất cả đều rất thống nhất với nhau.

Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này.

Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.

Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".

Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển", Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Bắc Hải, Nam Hải.

Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Liên Xô, Bắc Hải nay là vùng biển phía bắc Xi-bia, Nam Hải tức Biển Đông.

Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.

Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái Tây Đảo Hải Nam.

Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý.Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận..

Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.

Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.

Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này.Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam.Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731.Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.

Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”

Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.

Nhận xét về “chủ quyền lịch sử” của học giả người TQ thì như thế nào? Xin nhường lời cho giáo sư Lý Lệnh Hoa ở Trung tâm Thông tin hải dương TQ, có bút danh là “ Bao Phác Tiên Nhân”: “Nói đến quyền lợi Nam Hải, chúng ta thường thích nói một câu là: từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào 2 chữ “thiêng liêng”. Đó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử…, nhưng chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự.Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó.

Giá trị của những tư liệu lịch sử, bản đồ lịch sử , địa lý đên đâu? Điều này cần được xem xét đánh giá một cách nghiêm túc, khách quan, khoa hoc. Không thể quan niệm đơn giản rằng : “Lịch sử là pháp lý, Pháp lý là lịch sử”như một số “chuyên gia, học giả” đã phát biểu trong một số diễn đàn khoa học. Vì vây, khi chưng minh, bảo vệ chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa và Trường Sa trên mặt trận pháp lý có lẽ không nên nêu hết tất cả sự kiện được sử sách mô tả hay đưa ra mọi loại bản đồ lịch sử, địa lý…Điều quan trọng là phải có các bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý, như những văn bằng, chiếu chỉ, các sắc lệnh, quyết định về hành chính, tổ chức lực lượng, tổ chức đơn vị hành chính…Các châu bản của triều đình có bút phê của vua, chúa, quan lại…Đấy mời thực sự là những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý.

Việt Nam đã lưu giữ được nhiều chưng cứ có giá trị đó. Tuy nhiên, vẫn còn chưa thật đầy đủ, hoàn chỉnh, chưa được nghiên cứu đánh giá…Vì vậy, VN cần phải tiếp tục sưu tập và hoàn chỉnh để có được một bộ hồ sơ pháp lý. Đó mới là nhiệm vụ trọng tâm của những chuyên gia pháp lý, ngoại giao, cũng như mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước.

Cần lưu ý khi khẳng định lập trường của Việt Nam liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng sa và Trường Sa, chúng ta không được phát biểu tùy tiện, thiếu sự cân nhắc cần thiết; chẳng hạn không nên nhấn mạnh: “Việt nam có chủ quyền lịch sử”, hay “ Việt Nam có danh nghĩa lịch sử”, “đã phát hiện, khai phá…”hay, chỉ nói: “Việt Nam có đầy đủ căn cứ lịch sử” để chứng minh chủ quyền của mình đối với HS, TS….

Nói một cách khá chuẩn xác là:Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện của nguyên tắc chiếm hữu thật sự mà Luật pháp và thực tiễn quốc tế đã và đang có hiệu lực.

Ngoài ra, một số nội dung sau đây cũng cần phải lưu ý:

- Thực trạng tranh chấp : không nói có tình trạng tranh chấp chủ quyền giữa các bên liên quan đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vì chung ta không thừa nhận Việt Nam tranh chấp chủ quyền với các nước khác. Thực chất là một số nước đã lợi dung thời cơ nhảy vào tranh chấp chủ quyền đối với HS và TS của VN.

- Về giải pháp tạm thời “khai thác chung” : VN không phản đối giải pháp nay theo quy định của UNCLOS, nghĩa là đối với các “vùng chồng lấn” được hình thành theo quy định của UNCLOS, trược khi các bên đi đến thông nhất đường phân chia cuối cùng thì có tính đến việc áp dụng giải pháp tạm thời có tính thực tế này, không nói một cách chung chung theo cách nói của TQ hay theo thủ thuật mà họ cố tình “giăng bẫy” trong đầm phán ngoại giao: “gác tranh chấp, cùng khai thác” trong toàn bộ Biển Đông mà họ muốn hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò”.Thực tiễn, Việt Nam đã từng hoan nghênh và chủ động đưa ra giải pháp tạm thời đó, như thỏa thuận hợp tác khai thác chung khu vực 2800 km2 giữa Việt Nam và Malaysia, giữa Việt Nam - Thái Lan và Malaysia, hay như trong đàm phán giữa ta với Indonesia đang tiến hành và Việt Nam đã chủ động đề xuất hợp tác khai thác chung trên các vùng chồng lấn. Trong vịnh Bắc Bộ, mặc dù  đã phân giới rõ ràng, Việt Nam vẫn sẵn sàng ký hiệp định đánh cá chung với TQ tạo điều kiện cho đôi bên giải quyết công ăn việc làm, đời sống cho dân cư đôi bên từ trước đến nay vẫn tồn tại.

Gần đây, Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận khai thác chung với Trung Quốc mỏ dầu vắt ngang qua đường biên giới trên vịnh Bắc Bộ, đó là những thực tiễn có ý nghĩa.

Tuy nhiên, Việt Nam không thể chấp nhận quan điểm gác tranh chấp cùng hợp tác dựa trên yêu sách đường biên giới biển chiếm gần 85% diện tích Biển Đông, chẳng dựa trên cơ sở pháp lý nào và hoàn toàn trái ngược với tinh thần của UNCLOS, để tạo ra “vùng chồng lấn” nhằm tìm mọi cách thực hiện chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác” trong vùng biển và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.

- Về hình thức đàm phán hòa bình : Thực chất chúng ta chủ trương tiến hành đàm phán song phương để giải quyết các vấn đề chỉ liên quan đên 2 nước và đàm phan đa phương các vấn đề liên quan đến nhiều bên, nghĩa là đàm phấn giữa các bên liên quan chứ không phải đàm phán với các bên liên quan!



Каталог: upload -> coban
upload -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
upload -> TrầnTrang EnglishTheory Phonetics
upload -> BỘ khoa học và CÔng nghệ TÀi liệu hưỚng dẫN
upload -> TÀi liệu hưỚng dẫn sử DỤng dịch vụ HỘi nghị truyền hình trực tuyếN
upload -> BỘ thông tin truyềN thông thuyết minh đỀ TÀi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật thiết bị giải mã truyền hình số MẶT ĐẤt set – top box (stb)
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> CHỦ TỊch nưỚC
upload -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
upload -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014

tải về 298.19 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương