Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đƣợc thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược
24
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2.
25
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 7-8.
28
vắn tắt của Đảng
26
đã phản ánh về đƣờng hƣớng phát triển và những vấn đề cơ bản về
chiến lƣợc và sách lƣợc của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cƣơng lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
27
.
Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lƣợc của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân
với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đƣờng lối chiến lƣợc
của cách mạng Việt Nam “chủ trƣơng làm tƣ sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhƣ vậy, mục tiêu chiến lƣợc đƣợc nêu ra trong Cƣơng
lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù
của cách mạng vô sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trƣớc mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nƣớc Nam đƣợc hoàn toàn độc lập”.
Cƣơng lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành
độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho
dân tộc đƣợc đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phƣơng diện xã hội, Cƣơng lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng đƣợc tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền,v.v… c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. Về phƣơng
diện kinh tế, Cƣơng lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn
(nhƣ công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tƣ bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao
cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sƣu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và
nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
về phƣơng diện xã hội và phƣơng diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh
tế, xã hội, cần đƣợc giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt
để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công
nhân và nông dân.
Xác định lực lƣợng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lƣợng
cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trƣơng đoàn kết tất cả các
giai cấp, các lực lƣợng tiến bộ, yêu nƣớc để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy,
Đảng “phải thu phục cho đƣợc đại bộ phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho đƣợc đại
bộ phận dân cày,… hết sức liên lạc với tiểu tƣ sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào
26
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2-5.
27
Theo Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một số vấn đề trong bản thảo Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam tập I (1930-1954).
29
phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tƣ bản An Nam mà
chƣa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây
là cơ sở của tƣ tƣởng chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nƣớc và các tổ chức yêu nƣớc,cách mạng,
trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Xác định phƣơng pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cƣơng lĩnh khẳng
định phải bằng con đƣờng bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng không đƣợc thoả hiệp “không khi nào nhƣợng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào đƣờng thoả hiệp”. Có sách lƣợc đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu
tƣ sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhƣng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cƣơng lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cƣơng lĩnh nêu rõ cách mạng Việt
Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nƣớc An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Nhƣ vậy, ngay từ khi thành lập,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho đƣợc đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
đƣợc dân chúng”
28
. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai
cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”
29
.
Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của
dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng
xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đƣờng lối
chiến lƣợc và sách của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phƣơng pháp cách
mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lƣợng của cách mạng để thực hiện đƣờng lối chiến
lƣợc và sách lƣợc đã đề ra.
Nhƣ vậy, trƣớc yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
28
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 4.
29
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 6.
30
chức cộng sản trong nƣớc, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị
và phƣơng thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp
nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện đƣợc thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù
“vắt tắt”, nhƣng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trƣớc mắt và lâu dài cho cách mạng
Việt Nam, đƣa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |