Trung Luận - Quyển thứ hai Phẩm thứ bảy : Quán sát ba tướng (sanh, trụ, diệt)
Nếu sanh là có thật; tức hợp với 3 tướng
Nếu sanh là không có; lấy gì mà có tướng
Ba tướng nếu hợp ly; không thể có tướng thật
Tại sao gọi một chỗ; một lúc có ba tướng
Nếu chưa sanh còn mất; đổi có có làm tướng
Điều ấy là vô cùng; vô tức không có vậy
Sanh sanh là được sanh; sanh vì bị sanh bởi
Sanh bởi là nơi sanh; hết sanh lại sanh ra
Nếu mà điều sanh ra; hay sanh việc sanh bởi
Sanh ra từ chỗ sanh; sao lại sanh chỗ sanh
Nếu chưa là sanh bởi; hay sanh ra chỗ sanh
Sanh bởi từ bị sanh; sao lại sanh ra sanh
Nếu lúc sanh ra sanh; hay sanh ra bởi sanh
Sự sanh thường chưa có; làm sao sanh bởi sanh
Như đèn tự nó sáng; lại làm cho người sáng
Pháp sanh cũng như vậy; tự sanh và bị sanh
Trong đèn tự không tối; chỗ ở cũng không tối
Phá tối lại chiếu sáng; không tối tức không sáng
Vì sao lúc sanh sáng; mà hay phá bóng đêm
Lúc đèn nầy mới sanh; không thể cùng bóng tối
Đèn nếu chưa đốt sáng; mà hay trừ bóng tối
Đèn ở tại phòng nầy; tức bị tất cả tối
Nếu đèn tự nó sáng; lại cũng giúp sáng kia
Tối cũng hay tự tối; lại hay tối kẻ khác
Sanh nầy nếu chưa sanh; vì sao hay tự sanh
Nếu sanh đã tự sanh; sanh rồi sanh chi nữa
Sanh không sanh đã sanh; cũng không chưa sanh ra
Lúc sanh hoặc chẳng sanh; đến đi trong đối đáp
Nếu chưa sanh thì sanh; việc nầy không thể được
Vì do duyên hợp lại; lúc ấy được sanh ra
Nếu pháp do duyên sanh; tức là tánh tịch diệt
Do vậy lúc sanh ra; cả hai đều vắng lặng
Nếu có pháp chưa sanh; nói rằng có kẻ sanh
Pháp nầy trước có rồi; vì sao lại sanh nữa
Nếu nói sanh lúc sanh; vậy là có thể sanh
Sao được gọi có sanh; vì sanh nghĩa là sanh
Nếu không phải có sanh; sanh sanh tức vô cùng
Lìa sanh sanh lại có; pháp đều do tự sanh
Có pháp không được sanh; không cũng chẳng được sanh
Có không lại chẳng sanh; nghĩa nầy trước đã nói
Lúc các pháp diệt đi; lúc ấy lại chẳng sanh
Nếu pháp cũng chẳng diệt; cuối rồi cũng thành không.
Không trụ pháp bất trụ; trụ pháp chẳng không trụ
Lúc ở lại chẳng ở; không sanh sao gọi ở
Nếu các pháp lúc diệt; có nghĩa không ở lại
Nếu pháp không diệt đi; cuối rồi cũng không có
Do vậy tất cả pháp; đều bị tướng già chết
Cuối không thấy có pháp; lìa già chết có ở
Ở chẳng phải tự ở; lại chẳng khác tướng ở
Như sanh không tự sanh; lại cũng chẳng khác sanh
Pháp đã diệt không diệt; chưa diệt lại cũng không
Lúc diệt lại chẳng diệt; không sanh làm sao diệt
Nếu pháp có tướng trụ; tức là không có diệt
Nếu pháp không tướng trụ; lại cũng không có diệt
Pháp tức là như vậy; không phải nên lúc diệt
Pháp nghĩa là khác lúc; không phải khác lúc diệt
Như tất cả các pháp; tướng sanh không có được
Vì tướng không sanh vậy; tức cũng không tướng diệt
Nếu pháp là có người; tức là không có diệt
Không hợp với một pháp; đó có tướng không tướng
Nếu pháp là không người; tức là không có diệt
Ví như có hai đầu; không thể đoạn đi được
Pháp không tự nó diệt; tướng khác cũng như vậy
Nếu tự tướng không sanh; tướng khác cũng chẳng sanh
Sanh, ở, mất chẳng thành; nên không có có vậy
Pháp hữu vi không có; làm sao có vô vi
Như huyễn lại như mộng; như thành Càn Thát Bà
Nên nói sanh, ở, mất; các tướng đều như vậy.
Phẩm thứ bảy nầy nói rõ về ba tướng của sự sanh ra, tồn tại ở đời và mất đi. Như chúng ta đều biết các pháp hữu vi đều không thật, cho nên pháp vô vi cũng không có. Các pháp nếu nói có sanh, có trụ lại ở đời, có mất đi, chẳng qua chỉ là tướng giả mà thôi. Thật tướng của nó là không thật. Do vì con người không có trí tuệ nên mãi bị ba tướng nầy chi phối. Nếu ta luôn quán sát ba tướng nầy theo thuyết Trung Luận của Ngài Long Thọ thì ba tướng nầy không có nơi nương tựa ở tâm thức của mọi người.
---o0o---
Phẩm thứ tám : Quán tác và tác giả
(Tác có nghĩa là nghiệp được tạo và tác giả là kẻ tạo ra nghiệp)
Chắc chắn có người tạo; không tạo quyết định nghiệp
Quyết định không người làm; không làm không định nghiệp
Quyết định nghiệp không làm; là nghiệp không kẻ tạo
Kẻ tạo nghiệp không tạo; kẻ tạo cũng không nghiệp
Nếu chắc có kẻ làm; lại cũng có nghiệp tạo
Người tạo và nghiệp tạo; tức theo đó không nhơn
Nếu theo đó không nhơn; tức không nhơn không quả
Không tạo không người tạo; nên không có pháp làm
Nếu không tạo ra pháp; tức không có tội phước
Tội phước lại không có; quả báo tội phước không
Nếu không tội phước báo; lại cũng không Niết Bàn
Tất cả có thể làm; đều không không có quả
Kẻ tạo định hoặc không; không thể làm hai nghiệp
Có không tướng khác nhau; một chỗ không có hai
Có không thể tạo không; không không thể tạo có
Nếu có tạo người tạo; cũng giống như trước nói
Kẻ tạo không làm nghiệp; lại không làm định nghiệp
Và định không định nghiệp; cũng giống như đã nói
Nghiệp nhơn có kẻ làm; kẻ làm nguyên có tội
Thành nghiệp nghĩa là vậy; ngoài ra không có gì
Như phá nghiệp người tạo; người thọ cũng như vậy
Và tất cả các pháp; cũng nên phá như vậy.
Nghiệp tiếng Sanscrit gọi là Karma, Trung Hoa dịch là nghiệp; tiếng Việt dịch thành những hành vi đã làm. Nghiệp có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến quá khứ, hiện tại và vị lai. Từ tư tưởng đến hành động; nếu có móng tâm tạo nên tội lỗi, tức hành nghiệp nầy sẽ dẫn dắt chúng ta vào sanh tử luân hồi. Nếu từ tư tưởng cũng như hành động, chúng ta không khởi lên một niệm tạo tác, thì chắc chắn rằng không có những nghiệp được tạo ra. Vì vậy trong đoạn trên có hai câu đáng lưu tâm là "Có không thể tạo không, không không thể tạo có" là vậy. Tất cả đều có nguyên nhân và tất cả đều có kết quả. Nếu nhân không gây thì quả sẽ không có. Cũng như thế ấy, ái dục không tạo, thì nghiệp ái không sanh; nghiệp ái không sanh thì không còn tiếp theo những vòng luân hồi liên tục nữa. Còn lại chỉ mình ta và chính cái ta nầy đi vào sự tu học, giải thoát thì cái tạo nên nghiệp cũng không còn nữa. Từ đó kẻ tạo ra nghiệp và nghiệp dĩ của mỗi cá nhân sẽ không còn tồn tại nữa. Đây là một phẩm quan trọng trong các phẩm khác của tác phẩm Trung Luận nầy.
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |