Đặc San Chu Văn An



tải về 10.77 Mb.
trang6/29
Chuyển đổi dữ liệu12.05.2018
Kích10.77 Mb.
#38156
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   29
Nguyễn Hiến Lê, cựu học sinh trường Bưởi, niên khóa 1929-1930 đã có nhận xét về nhân dáng và tư cách của giáo sư Dương Quảng Hàm như sau:

Mấy năm trước, những khi thấy cụ đi qua sân trường, tôi thường để ý: cụ đi bộ, lúc nào cũng rảo bước, cụ thấp bé mà bước những bước dài, nhón gót (người ta bảo là tướng yểu), như lúc nào cũng vội vàng - cụ có bao giờ biết thơ thẩn, mơ mộng không nhỉ? - mà ngồi xe đạp thì trái lại, cụ đạp rất chậm, tốc độ đều đều, chỉ độ mười cây số một giờ, tới cửa lớp, cụ thận trọng hãm lại, cho xe nghiêng qua một bên, khoan thai bước xuống, gác xe, gỡ cái kẹp ống quần ra, tháo chiếc cặp phồng những sách vở, rồi ôm cặp tiến vô lớp. Gặp bạn đồng sự cụ niềm nở bắt tay, nhưng ít khi đứng lại để trò chuyện; cụ tới lớp không khi nào trễ, nhưng cũng không khi nào quá sớm, chỉ dăm ba phút là cùng, như vậy thì đâu có thì giờ để trò chuyện. Tôi có cảm tưởng cụ là một chiếc đồng hồ mà thì giờ của cụ đã tính trước đâu vào đấy hết. Chúng tôi phục cụ ở điểm đó.

Cụ sống rất giản dị. Từ nhà ở giữa phố Hàng Bông lên trường, đường dài vào khoảng ba cây số, mà quanh năm, Hè cũng như Ðông, mưa cũng như nắng, ngày nào cụ cũng chầm chậm đạp một chiếc xe cũ; suốt hai năm học cụ, tôi nhớ chỉ một hai lần cụ đi xe kéo vì mưa gió lớn quá hoặc vì trong mình khó ở. Có lần chúng ‘thổi’ mất chiếc xe của cụ và bọn chúng tôi được một dịp cười: con người cẩn thận như vậy mà cũng để mất xe ư? Và chiếc xe ‘tàng’ như vậy mà chúng cũng ‘thổi’ ư?

Y phục của cụ hình như chỉ có vài bộ, một cổ lỗ, nhưng lúc nào cũng sạch và có nếp. Tóc thì chắc chắn một tháng cụ mới húi một lần và chỉ khi nào húi cụ mới cạo râu, vì vậy râu cụ đã thưa lại lởm chởm, trông y như limailles de fer (mặt sắt, mài giũa) và chúng tôi dùng danh từ Pháp đó để đặt biệt hiệu cho cụ.

Sau đây thêm một chi tiết mà cũng theo Nguyễn Hiến Lê, là đã học được từ cụ “một bài học lặng lẽ và cao thượng”:

Theo lệ, cụ mở cuốn sổ tay ra chấm tên một học sinh vào hạng trung bình. Anh này chắc cũng chỉ thuộc lõm bõm, trả được một vài câu rồi ngừng, thú rằng không thuộc. Cụ gọi thêm một anh khác, cũng không thuộc nữa. Cụ ngạc nhiên, hỏi tại sao? Một anh bạo dạn đứng lên thưa rằng, chúng tôi không ai thuộc cả vì không ưa Jules Boissière, một tên thực dân không có cảm tình với dân tộc mình.  Rồi chúng tôi trình với cụ tất cả những điều chúng tôi trách hắn. Cả lớp chờ sự phản ứng của cụ.



Cụ làm thinh một vài phút rồi bỗng nhiên tôi thấy hai giọt nước mắt lăn trên má cụ. Cụ vẫn ngồi yên nhìn xuống phía cuối lớp, cũng không lấy chiếc khăn tay nhỏ xíu bằng vải trắng để lau nước mắt nữa, mặc cho nó rơi xuống mặt bàn và tự khô trên má.  Hôm đó cụ không cho điểm ai cả.”

Trường Bưởi



Hình bóng ấy của Dương Quảng Hàm chỉ có học trò của cụ ghi nhớ được. Thế hệ sau ít ai còn biết rõ. Ngay cả cái chết của cụ cũng không sách vở nào nói đến. Chỉ là lời đồn. Chỉ là nghe nói. Có nguồn tin kể rằng cụ bị chết cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi tiếng súng nổ chát chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài cán bộ nhưng không có ai can thiệp.  Có người nói cụ bị chết trong can qua. Những cuốn sách in ở Hà Nội vừa qua, nói cụ “mất” ở Hà Nội.  Một cuốn in ở Sài Gòn nói cụ “mất tích.”

Phải có một ngày sự thực hiện ra. Nhưng nó không tự nhiên hiện ra. Nếu các thế hệ sau không tìm hiểu, không tra vấn, không tìm lại những bài học lịch sử, lịch sử sẽ bị lãng quên hay bị biết đến trong sai lạc, cố ý hay vô tình.

Trong trận nổ súng chống Pháp tại Hà Nội đêm 19 tháng 12, 1946 và kéo dài hai tháng - giữa 8,000 tự vệ thành (thanh niên sinh viên học sinh, không có quân chính qui CS) và 4,500 quân Pháp - người Pháp chết và bị thương 3,800, ta chết vô số kể, trong đó có Giáo Sư Dương Quảng Hàm, người đầu tiên soạn bộ Việt Nam Văn Học Sử.





Một cảnh hiếm có: Thanh niên sinh viên học sinh yêu nước đào hào chiến đấu giữa Hà Nội. Không thấy bóng dáng một người bộ đội nào.

Nếu muốn nói đến một bậc thầy mà sách trước-tác ảnh hưởng tới nhiều thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam trong thế kỷ XX, ít nhất là trong lãnh vực văn học, thì người ấy là Giáo Sư Dương Quảng Hàm.

Giáo Sư Dương Quảng Hàm, còn có bút hiệu khác là Hải Lượng, sinh ngày 14 tháng 7, 1898, mất vào tháng 12 năm 1946. Ông quê ở làng Phú Thị, huyên Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, xuất thân từ một gia đình Nho học, nên theo học chữ Nho từ nhỏ, sau ra Hà Nội học quốc ngữ và năm 1920, tốt nghiệp trường Cao Ðẳng Sư Phạm Ðông Dương. Từ năm 1920-1946, ông dạy tại trường Trung Học Bảo Hộ (Trường Bưởi, sau này là Chu Văn An).

Ông là em ruột nhà thơ Dương Bá Trạc, cả hai anh em đều chết trẻ. Dương Bá Trạc hoạt động cách mạng cùng Phan Chu Trinh, vào mật khu Yên Thế với Hoàng Hoa Thám, năm 1944 được Nhật đưa đi Singapore cùng với GS Trần Trong Kim và chết tại đấy nội trong năm ấy. (*)

Dương Quảng Hàm là nhà biên khảo đầu tiên về văn học sử Việt Nam, biên soạn bằng chữ quốc ngữ, đó là bộ Việt Nam Văn Học Sử Yếu, in vào tháng 6 năm 1941. Sách được tái bản rất nhiều lần, được bộ Quốc Gia Giáo Dục công nhận là sách giáo khoa cho học sinh bậc trung học. Sách gồm 48 chương, nghiên cứu về các giai đoạn phát triển văn học Việt Nam: Thời Lý Trần (thế kỷ XI-XIV), thời kỳ Lê-Mạc (thế kỷ XV-VIII), thời kỳ Cận Kim (thế kỷ XIX), thời kỳ hiện đại, đầu thế kỷ XX, giai đoạn hình thành một nền quốc văn mới, trong chương này ông giới thiệu các thi, văn sĩ hiên đại với những tác phẩm thể hiện một phong cách thơ văn mới. Ngoài ra còn có những chương về văn chương bình dân, ảnh hưởng của Tàu và Pháp trong văn chương Việt Nam, các chế độ về thi cử, vấn đề ngôn ngữ văn tự, các thể văn.

Ông còn để lại một số những tác phẩm như: Tập Bài Thi bằng Sơ Học Yếu Lược (1902, soạn cùng với người em là Dương Tự Quán) - Những Bài Lịch Sử An Nam dùng cho học sinh các Lớp Nhì và Nhất các trường Tiểu Học Pháp Việt (1927). Ông còn dịch Lục Vân Tiên và có vài tác phẩm viết bằng tiếng Pháp: Lecon d' Histoire d' Annam, Lectures litteraires sur l'Indochine.

Từ thập niên '40 tới nay, có thế hệ thanh niên nào không học hỏi Dương Quảng Hàm qua cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Văn Học Việt Nam hay Việt Nam Thi Văn hợp Tuyển? Trong các cuốn trên, cuốn sử yếu in lần đầu năm 1943. Tại miền Nam sau 1954, cuốn sách trên là căn bản cho các giáo trình sách giáo khoa chính thức bậc Trung học, in đi in lại nhiều lần. Tới 1975, không rõ có bao nhiêu triệu người đã học hỏi từ cuốn sách ấy. Ra khỏi lớp học, vào đời, nếu đi dạy học hay bước vào nghề văn học, người ta lại cần tới sách vở của Dương Quảng Hàm một lần nữa, lần này lâu cả chục năm. Song người ta học hỏi từ sách ông, tra cứu sách ông bất cứ khi nào, mà hỏi về cuộc đời ông thì chẳng mấy ai biết được gì, chưa nói tới chuyện biết cho rõ ràng.

Những năm qua lục tìm tài liệu về Dương Quảng Hàm, có kẻ bâng khuâng, buồn bực. Một người để lại những tác phẩm lớn lao và căn bản về văn học sử Việt Nam như ông, mà hầu như không thấy ở đâu nói đến. Hay nếu có, chỉ là những nét sơ sài. Tác phẩm ông lớn lao vì nhiều nguyên do, trong có nguyên do mãi năm 1943 nước ta mới có bộ văn học sử đầu tiên, và ông là người biên soạn bộ sách đầu tiên ấy. Ông biết rõ điều đó khi viết: “Ai cũng biết rằng hiện nay không có quyển sách nào chép về văn-học lịch-sử nước ta, không nói gì những sách tham khảo tinh tường cho các học giả dùng, ngay đến những sách tóm tắt các đại cương cho học sinh dùng cũng không có.” (1)

Ðặt tầm sách quan trọng như thế nên khi soạn sách, ông theo “những phép-tắc soạn sách” riêng của mình, nhưng cũng là những khuôn vàng thước ngọc mà ông kể ra như sau:

-“hết sức cẩn thận... điều gì xác thực, chắc chắn mới chép... lấy sự thực làm trọng.”

-“mỗi việc quan trọng kể ra, mỗi cái chứng cớ dẫn ra, thường có chưa rõ xuất xứ.”

-“Việc học văn-học-sử phải căn cứ vào các tác phẩm:... không những cần biết những điều cốt yếu về thân thế và văn nghiệp của mỗi tác giả, lại cần đọc nhiều thơ văn của tác giả ấy mới có thể lĩnh hội được cái khuynh hướng về tư tưởng và cái đặc sắc của văn từ của tác giả ấy.”

-“chú thích kỹ lưỡng.”

-“lấy sự minh bạch làm trọng.” (1)

…..

Nhưng không phải vì ít tài liệu về Dương Quảng Hàm mà rồi không viết về ông, cho nên có người cho rằng cứ phải viết, biết đâu tài liệu sẽ tới; như trong đêm khuya tĩnh mịch, vẳng nghe một điệu sầu trong gió, im lặng mà nghe, sẽ thấy xa xa vọng lại một âm hưởng hòa nhịp nào đó, cho dù rất đỗi mơ hồ. Vì sao trong những đêm trăng, ta thường nghe tiếng hạc vàng? Có khi cuối đường tuyệt lộ, ai ngờ lại gặp tri âm?



Không phải tự dưng số báo tháng 12 này viết về Giáo Sư Dương. Tháng 12 năm 1946, đêm 19, Hà Nội nổ súng đánh Pháp vào lúc 20 giờ, và trong trận đánh ấy, hay ngay trong đêm ấy, có thể trong ngày và đêm sau, trên các con đường của kinh thành, những góc phố của thủ đô, trong khói lửa mù trời, Dương Quảng Hàm đã “mất tích.” Từ điển Tác giả Việt Nam viết: “Ông mất tích tại Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.” Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, cũng một tác giả soạn, hai tháng sau, không dùng chữ “mất tích” nữa. Chỉ viết là ông “mất.” Có một sự cân nhắc nào, và tại sao, Cục Xuất Bản trong bộ Văn Hóa Thông Tin tại Hà Nội lại phải can thiệp để tác giả viết khác đi như thế? Từ mất tích đến mất, cái tích kia là thế nào? Có chỗ khác lại nói ông bị Pháp giết .

Từ ngày “Toàn Quốc Kháng Chiến” 19 tháng 12, 1946 tới nay, đã trên 60 năm, trong có 35 năm hòa bình. Lẽ ra với thời gian ấy, sách vở nghiên cứu văn học ít nhất đã phải có một bài về những tháng ngày cuối cùng của nhà biên khảo tên tuổi nhất trong ngành. Tới nay chúng tôi chưa thấy.

Tại Sài Gòn năm 1966, Giáo Sư Phạm Thế Ngữ viết về cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm chỉ có đúng mười dòng, trong có mấy dòng này: “Tuy nhiên bộ sách xuất hiện vào 1943 có thể coi như tổng hợp tất cả những gì đã thâu lượm được sau mấy chục năm người ta để ý nghiên cứu văn chương và chế độ nước nhà. Ðó cũng là bộ văn học sử đầu tiên hoàn bị, chép từ khởi thủy đến hiện đại.” (2)

Chúng ta ngưỡng mộ ông, thương tiếc ông, chưa đủ. Chúng ta còn cần làm sáng tỏ cái chết của ông. Phải có câu trả lời cho những câu hỏi sau đây:

Dương Quảng Hàm chết như thế nào? “mất,” “mất tích,” “chết trong đám cháy,” “Pháp giết” hay “bị CS ám hại” vì ông là Việt Quốc?

Chú thích:

(*) Theo Một Cơn Gió Bụi của Trần Trọng Kim

(1) Dương Quảng Hàm, 'Biên tập đại ý,' Việt Nam Văn học sử yếu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn, 1958, trang 3, 4, 5.



(2) Phạm Thế Ngữ, Kim Văn Tân Tuyển, Anh Phương, Sài Gòn, 1966, trang 453.


Каталог: groups -> 20618264 -> 1558597453 -> name
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
name -> Đặc San Chu Văn An
20618264 -> Tiếng Nói Chánh Thức của Liên Minh Dân Chủ vn chủ Tịch lmdcvn & Chủ Nhiệm Danh Dự: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy
20618264 -> Chuyện tháng Tư Đen

tải về 10.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương