“Phản động”
Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để
triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh
chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo:
“Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát
đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến
trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên;
dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự
kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi
130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là
10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn
cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo
cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công
giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên
khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học.
Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt
kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động
viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt”
67
.
Chính sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975,
khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt
giữ và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh.
Việc Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình
Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975
(chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản
thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh
mục được coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản
động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng
Giám mục đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng
đột nhập vào Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.
Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính
quyền cũng đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở
lại. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền
đã triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe
“nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm.
Người dân Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng,
nhưng thái độ của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29-
4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi
nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân
Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ
được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”.
Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải
Lăng, Quảng Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông
được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành
lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước
Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi
vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài Gòn
rồi được kết nạp vào Hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội.
Năm 1969, nhân Đại hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường
nhờ Chu Tử
68
xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều
nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường
cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu
Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm
cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm
cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”.
Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh
xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người
như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong
Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ
quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa
vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và
nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa
nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký giả”
69
.
Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích
rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục
quốc
70
... Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975,
Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà
chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi
theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh
hùng rừng xanh
71
. Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việc
làm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn làm hồi trước
1975”.
Nhưng Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp:
“Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng
thì Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10-
1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập
xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương
cùng bị bắt.
Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt.
Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà
thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ
trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn
Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được
nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác
bị bắt.
Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở
Hồ Con Rùa
72
làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn
con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ.
Hai ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ
bọn phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và
phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân
ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một
tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về
điều tra”
73
. Cùng ngày, tờ Giải Phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung:
“Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và phá
hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta,
đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công
trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một
vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản
động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”
74
.
Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía sau
lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn
cổn, khô khốc”
75
. Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc
nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây
người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng
lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe
cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích
rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ,
văng ra vung vãi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát
thuộc bộ phận khoa học hình sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân
con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”
76
.
Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong
bọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói
rằng đã “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”
77
, cũng thừa nhận
rằng: “Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi
tác chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc
chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót.
Cũng thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”
78
.
Theo Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một
số kẻ khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng
“hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ
“bắt bí mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung
79
. Lỗ
Hung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy
ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn
Trần Dạ Từ và Nhã Ca
80
cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình
của Thành là Đặng Hoàng Hà
81
, người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua
lại với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.
Trên thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”,
nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca,
Trần Dạ Từ đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định
xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào
không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa
kịp vô bìa, thì Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh
chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ
chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà
82
, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi
có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn
Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”
83
.
Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên
Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ
sĩ. Hôm sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-
4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi
ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh
ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu
gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra
hai khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn
ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi
đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt
được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”
84
.
Đến chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông
kể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ
trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia
đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới
bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười
phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn
chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới
đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt
tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản
siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác,
nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đã bắt
Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ…”
85
.
Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong
cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là
nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới
86
.
Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua
thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành,
cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường
Công Lý (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở
lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.
Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê
Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao
Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với
Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên
tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây,
trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn
Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn
mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ
công an ngọt xớt”
87
.
Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối
chính quyền bằng hành động, có những người - nhất là giới văn nghệ sỹ - chống đối
bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống
đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có
những cái bẫy được đặt ở đâu đó.
Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào
huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng,
bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8-
04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm
mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ
máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT
và một số tài liệu phản động”
88
.
Hành động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ
diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử
bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng
sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời
vẫn không biết lý do là gì
89
.
Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt.
Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng
III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến
đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng
thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm
biếm cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ
sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại
gấp nghìn lần Cao Văn Viên”
90
. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ
báo nổi tiếng ở Mỹ đăng.
Chính quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi
phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng
Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc
Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở
phòng giam của Cục An Ninh quân đội”
91
. Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa
nhà tù cho Chóe.
Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu
Thị Thủy - Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy
nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”
92
. Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị
Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.
Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung - Nhã Ca
với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc
cho Tú Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một
cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ
cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton
đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh của Chóe in thành tập
The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại
giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại
giao lúc đó.
Chóe bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở
số 52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm
thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.
Ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật sư
Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt
93
. Ông từng làm
cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười
sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học
thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc
nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.
Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí
thức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ
Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn
Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong
trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới
năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi
tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố
vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một
trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước
Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập.
Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về
sống ở Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho
Mặt trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của
những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm
xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ra
tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông
tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường
không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm
1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi
94
. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của người
Pháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không. Ngày 26-6-
1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài Gòn, nhưng trên
đường đi thì ông mất.
Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà
Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những
người được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg
thì có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông
Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài
Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương trình,
ông John McAuliffe, mời dự
95
. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với Hà
Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư.
Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm
súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu
chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau
đây, thật khó để nói là may mắn.
Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng
thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di
tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn
theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam
Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi
trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã
khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống
nhất và chắc chắn có hòa bình.
Một trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính
96
. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo
điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày
đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha vợ ông thì khi
đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại.
Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975,
người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và
khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi
sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị
“Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam
mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ
trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép
những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.
Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của
Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời
Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ
và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy
nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.
Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi
tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu
Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan
sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra
phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng
họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi.
Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi
người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm
Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám
xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình,
một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy
7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất - Trung tá Trần
Đình Trụ - phải ở tù tới 13 năm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |