BÊn thắng cuộC – chưƠng VIII: thống nhấT



tải về 197.76 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích197.76 Kb.
#20953
1   2   3

Cho dù bị các đảng viên của mình gọi là một người “quốc tế giả danh”, chính Mao Trạch Đông đã đích thân bào chữa cho Hồ Chí Minh. Trong một bức điện gửi Lưu Thiếu Kỳ ngày 27-1-1950, Mao Trạch Đông cho rằng: “Còn quá sớm để coi việc Hồ Chí Minh ngụy trang đảng của ông ấy và tuyên bố trung lập đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sai phạm mang tính nguyên tắc, bởi cuộc đấu tranh của người Việt Nam không hề chịu hậu quả trước hai quyết định đó”. Năm 1949, cũng chính Mao Trạch Đông giải thích với Stalin: “Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa quốc tế. Việc ông ta giải tán đảng là một quyết định tình thế để cứu cuộc đấu tranh chống Pháp”. Chính Mao đã thuyết phục Stalin công nhận và thiết lập quan hệ về đảng và nhà nước với Hồ Chí Minh, người trước đó đã bị ông ta ghẻ lạnh408. Quan hệ với Mao Trạch Đông và Stalin càng nồng ấm thì chuyên chính vô sản càng nhanh chóng được áp dụng ở Việt Nam.

Ông Hoàng Tùng, chánh Văn phòng Trung ương, kể: Năm 1950, khi tới Điện Kremlin, Hồ Chí Minh vẫn bị Stalin quy kết: “Không cải cách ruộng đất, không dựa vào nông dân, lại đoàn kết với địa chủ. Dân tộc chủ nghĩa thế này thì còn gì là đảng cộng sản nữa”. Stalin đã chỉ hai chiếc ghế như là biểu tượng, một của quốc tế cộng sản; một là dân tộc chủ nghĩa, rồi hỏi Hồ Chí Minh: “Đồng chí chọn ghế nào?”. Theo ông Hoàng Tùng thì khi ấy Hồ Chí Minh đã “đứng”.

Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Đại hội II, năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đưa ra “thuyết ba giai đoạn” theo đó, trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là có ý kiến của Bác, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ ủy tôi đã được nghe ông nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn”. Nhưng, sau đại hội, theo ông Hoàng Tùng: “Mao và Stalin đã gọi Bác sang, nhất định bắt phải làm. Mao Trạch Đông nói thẳng: nếu các đồng chí không cải cách ruộng đất, chúng tôi không viện trợ nữa”. Để có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã chấp nhận “cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Phương Đông”, điều mà ông đã từng cho là không thích hợp409.

Thực ra, thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh cũng đã thể hiện bước đi của một nhà nước công nông. Sau khi Chính phủ Đoàn kết Dân tộc tan vỡ, nhất là thời kỳ Chính phủ phải rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang màu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành410. Từ sau năm 1951, một số cán bộ, trong đó có Ủy viên Trung ương Hồ Viết Thắng, được Đảng Lao Động Việt Nam đưa sang Trung Quốc học tập cách cải cách ruộng đất rồi về nước phát động giảm tô, giảm tức. Năm 1952, việc đấu tố địa chủ được bắt đầu với sáu xã thí điểm ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên rồi sau đó chính thức thực hiện vào giữa năm 1953.

Tại Hội nghị Trung ương 5, họp từ ngày 14 đến 23-11-1953, Hồ Chí Minh quán triệt: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất”. Mở đầu bài phát biểu trước Hội nghị này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phe ta ngày càng mạnh, phe địch ngày càng yếu. Liên Xô, thành trì cách mạng thế giới, đang tiến mạnh từ chủ nghĩa xã hội sang chủ
nghĩa cộng sản… Với sự giúp đỡ tận tâm của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc đã thắng lợi to trong cuộc chống Mỹ, giúp Triều, trong việc xây dựng nǎm đầu của kế hoạch năm nǎm,
và đang thắng lợi trong công cuộc củng cố và phát triển dân chủ mới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tiếp: “Đó là tóm tắt tình hình của phe ta. Tình hình phe

đế quốc do Mỹ cầm đầu thì thế nào? Mỹ và mười sáu nước phe Mỹ (trong đó gồm có Anh và Pháp) đã thất bại nhục nhã ở Triều Tiên. Từ cuối thế kỷ XIX đến ngày nay,
Mỹ đã nhiều lần nhờ chiến tranh mà làm giàu và chiếm được địa vị anh chị. Lần này là lần đầu tiên (nhưng chưa phải là lần cuối cùng) mà Mỹ thất bại to, đã hao người (hơn 397.500 binh sĩ Mỹ chết và bị thương), tốn của (hơn hai mươi ngàn triệu
đôla), lại mất mặt với các nước. Thế của Mỹ ngày càng yếu ở Hội Liên hiệp quốc, phe Mỹ càng thêm lủng củng chia rẽ, kinh tế Mỹ ngày khủng hoảng thêm… Nói tóm lại: phe Mỹ là ba phe bảy mảng, thế ngày càng suy”. Tuy nhắc nhở các ủy viên Trung ương, “chúng ta không được chủ quan khinh địch”, nhưng ngay sau đó, Hồ Chí Minh đã nói: “Những hoạt động của địch không phải vì chúng mạnh, mà vì chúng yếu thế… Để phá tan âm mưu của địch, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh kháng chiến. Để đẩy mạnh kháng chiến, chúng ta phải thực hiện cải cách ruộng đất”.
Chính Hồ Chí Minh đã tự phê phán: “Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất”. Theo Hồ Chí Minh: “Nông dân ta chiếm 95% dân số, mà chỉ được có 3/10 ruộng

đất, quanh nǎm khó nhọc mà suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5%

nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó”411. Cũng trong trung tuần tháng 11-1953, một “hội nghị đại biểu toàn quốc của
Đảng” được nhóm họp để “tán thành chính sách cải cách ruộng đất do Trung ương đề ra”. Từ ngày 1 đến 4-12-1953, Quốc hội họp kỳ thứ III thông qua Luật Cải cách Ruộng Đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
Về phía Việt Nam, Ủy ban Cải cách Ruộng đất cũng được thành lập ở hai cấp trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương có chủ tịch Ủy Ban, Tổng Bí thư
Trường Chinh, phụ tá – hai ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, và một ủy viên Trung ương, Hồ Viết Thắng, người vừa đi Trung Quốc học về cải cách ruộng đất. Tại địa phương, mỗi tỉnh lập ra mười đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ. Đoàn trưởng nhận lệnh trực tiếp từ Ủy Ban Cải cách, không qua hệ thống đảng và chính quyền địa phương. Mỗi đoàn lại chia ra thành nhiều đội. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông. Đội có quyền hành tuyệt đối, chỉ nhận
lệnh từ Ban Cải cách.

Trước khi những cuộc đấu tố địa chủ diễn ra, các cán bộ cải cách được đưa về làng, thực hiện chính sách “tam cùng”: cùng làm việc, cùng ăn, cùng ngủ. Vào làng, cán bộ thấy ai là thành phần nghèo khổ thì “tam cùng” để làm thân, rồi tiếp đó “thăm nghèo hỏi khổ”. Ngoài việc thu thập thông tin để “xếp loại kẻ thù”, đội còn khơi gợi người nông dân thổ lộ nỗi khổ, khơi gợi lòng căm thù và tìm kiếm những


người có thể bồi dưỡng để tham gia đấu tố. Những phụ nữ đã từng có quan hệ với những người giàu trong làng sẽ được đội động viên, thúc ép, hoặc đe dọa để họ đứng ra tố là đã từng bị “cường hào cưỡng hiếp”. Vợ, con cái địa chủ cũng bị lôi kéo để đấu tố cha, chồng. Cải cách ruộng đất không chỉ mang lại những tổn thất về mặt con người mà còn phá vỡ những nền tảng đạo đức làng xã, gia đình, những tôn ti,
trật tự giữa cha mẹ, vợ chồng,… những giá trị mà người Việt phải mất hàng nghìn năm kiến tạo.
Kể từ cuối 1952 đến năm 1956, trên địa bàn của 3.314 xã miền Bắc Việt Nam diễn ra tám đợt “phát động quần chúng” giảm tô và năm đợt cải cách ruộng đất, tịch thu hơn bảy mươi vạn hecta, bằng 44,6% ruộng đất trong vùng. Số người bị quy oan lên tới 123.266 người, chủ yếu vì các biện pháp truy bức để “đôn” tỷ lệ địa chủ lên trên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói,
giam cầm, khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì “phóng tay phát động”; ở dưới, những “đoàn”, những “đội”
cải cách thì tha hồ lộng quyền, “nhất đội nhì giời”. Một quốc gia nghèo đói như Việt

Nam lúc ấy mà các đội đã đưa được “định mức địa chủ” lên tới 5,68% dân số các địa phương tham gia.


Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: “Mình nói để cho mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách theo cách của Việt Nam nhưng mà cứ ép cho bằng được”. Biết bao trí thức, địa chủ đã theo Việt Minh, đã đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây, bị “hai ông anh lớn” ép phải chấn chỉnh lại,
không để địa chủ, người có gốc “Tây” đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 1950, những “địa chủ không kháng chiến” thì đã “dinh tê”. Cải cách, đấu tố, theo ông Hoàng Tùng: “Coi như là đánh vào lực lượng của mình”.
Ông Hoàng Tùng kể: “Khi ấy tôi thường dự họp Bộ Chính trị nên cũng biết một

số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm”. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có hai con là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953 bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ nữ. Trong “tuần lễ vàng”, gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Theo ông Hoàng Tùng: “Các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính trị, Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người


đàn bà mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng’. Sau, Cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải”.
Ông Hoàng Tùng nói: “Hồ Chí Minh bị nó coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ”. Để có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng: “Mỗi ngày, đội cải cách
thường phải tìm cho ra một người để bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7,5 mẫu ruộng”. Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để quy sai địa chủ nhưng việc chấn chính chỉ dừng lại ở những lời răn dạy412.
Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các “đồng chí Trung Quốc” là “nó”, tiếp: “Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa, đền đài đều bị nó
phá sạch. Đền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì có mặc cảm, vì nhà cũng có bảy mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề
viết báo nên cho người ta cày rẽ lấy tô, rất dễ bị ‘quy’. Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được hai mươi mẫu ruộng, cũng bị ‘đội’ đem ra đấu. Khi ông Hương nghe, chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Cách mạng cũng phải có đạo đức chứ. Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm, từng đỗ đầu tiến sỹ làng Giáp, Tây đưa lên hàng thượng thư.

Kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có thư vận động ông Niêm. Khi cải cách, bị ‘đội’ bắt,

ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết”.

Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính

quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng413. Ông Hoàng Tùng nuối tiếc: “Mình không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Việc đầu tiên là họ sửa quân đội, lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người bao trùm lên tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Giáp,
một vị tướng xuất thân từ trí thức và mới chỉ tham gia đảng cộng sản từ năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải là công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi ngờ là Lý Ban, phó của Văn Tiến Dũng, đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ”.
Có tới 71,66% phú nông bị quy sai là địa chủ. Theo ông Hoàng Tùng, Pháp và Mỹ chỉ phải chịu trách nhiệm một phần, chính cải cách ruộng đất, đánh thuế công thương nghiệp và cải tạo tư sản, là nguyên nhân chính khiến cho hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam414.
“Mỗi người làm việc bằng hai”

Nếu mô hình Stalin và Mao Trạch Đông được giới hạn ở những gì áp dụng trước năm 1956 thì miền Bắc vẫn còn cơ hội khôi phục. Chính sách cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cũng đã đưa số ruộng đất “tước đoạt của giai cấp địa chủ” chia cho 72,8% số hộ nông dân Miền Bắc, chủ yếu là dân nghèo. Trước năm 1960, những người nông dân nhận đất này chưa phải vào hợp tác xã. Nhờ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của mình, họ đã khiến cho nền nông nghiệp miền Bắc có một giai đoạn phát triển khá tốt đẹp. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng đạt mức tăng trưởng nhanh cả ở nông thôn và thành thị. Có lúc, lực lượng thợ thủ công miền Bắc


đã lên tới hơn nửa triệu người. Đến cuối năm 1957, miền Bắc vẫn còn 78.456 cơ sở buôn bán. Cải cách ruộng đất đã không chỉ được nhớ đến như một sai lầm nếu những người nông dân được chia ruộng tiếp tục được làm chủ đất đai của họ.
Hội nghị quốc tế “các đảng anh em” lần I mà Hồ Chí Minh tham gia, họp tại Moscow tháng 11-1957, đã khẳng định nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Thiết lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác, thủ tiêu chế độ
sở hữu tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ sở hữu công cộng, cải tạo nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế có kế hoạch, thực hiện cách mạng tư
tưởng văn hoá”.
Ngay sau khi từ Moscow trở về, ngày 1-1-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân: “Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch”. Trung tuần tháng 11-1958, Trung ương họp hội nghị

lần thứ 14, quyết định: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh…”. Ngay trong mùa thu năm 1958, đợt thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp đã được tiến hành. Đến cuối năm 1960, 86% số hộ nông dân miền Bắc bị đưa vào 41.401 hợp tác xã. Cuối năm 1960, 97% hộ tư sản bị buộc phải “công tư hợp doanh”.


Cho dù “giai cấp tư sản miền Bắc đã phản ứng, đôi khi khá gay gắt”, tháng 4- 1959, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 tuyên bố: “Nếu trong hàng ngũ tư sản có người quyết chống lại sự cải tạo…, trong trường hợp ấy, đó là mâu thuẫn giữa ta và địch. Những phần tử tư sản kiên quyết chống lại cải tạo xã hội chủ nghĩa là những phần tử tư sản phản động”.
Càng “tuân thủ mô hình Liên Xô”, tình hình kinh tế miền Bắc càng trở nên bi đát. Ngay từ những năm đầu 1960, từ công nghiệp, thương nghiệp, cho đến tài chính đều bị đình đốn, đời sống cả nhân dân và cán bộ đều thiếu thốn khó khăn. Ở nông thôn, 80% thu nhập của các xã viên hợp tác xã có được nhờ vào đất “năm phần trăm”, còn 95% diện tích ruộng đất đưa vào hợp tác xã chỉ để “làm qua loa, tính công, chia điểm…”. Cuộc sống ở nông thôn trở nên u ám.
Ông Vũ Quốc Tuấn415 kể: “Năm 1965, tôi đạp xe về làng, thấy tám giờ sáng nông dân mới ra đồng. Tôi nói: Làm thế này thì đói. Bà con bảo: Thì có cái gì ăn
đâu mà không đói hở bác”. Điều đáng nói, theo ông Tuấn, những người nông dân này đều vốn rất chí cốt với nghề nông, khi còn ruộng cá thể, họ thức dậy từ ba bốn giờ sáng ra đồng. Vào hợp tác xã thì mãi tới khi mặt trời treo ngọn tre, nông dân mới bắt đầu uể oải cầm liềm, vác cuốc. Ngay từ khi đó, nông dân miền Bắc đã nói: “Mỗi người làm việc bằng hai / Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”.
Khi còn là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, chính sách ruộng đất mà Lê Duẩn áp dụng ở

miền Nam khá mềm dẻo. Nhưng khi trở thành Bí thư Thứ nhất, nhất là sau khi đi dự Hội nghị quốc tế lần thứ II416, Lê Duẩn bắt đầu coi việc tuân thủ những “kinh nghiệm của Liên Xô” là “vũ khí sắc bén”. Sau Hồ Chí Minh, “Lê Duẩn là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô hình kinh tế miền Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975, và sau đó ông cũng là nhà thiết kế chính của mô hình kinh tế cả nước từ 1975 cho tới giữa năm 1986”417.


Lê Duẩn và mối tình miền Nam

Ông Lê Duẩn được những người giúp việc mô tả là “một người có cái đầu chỉ thích suy nghĩ”. Chưa bao giờ ông thoả mãn với những mô hình kinh tế áp dụng ở miền Bắc lúc bấy giờ. Ông thường xuyên đối thoại với những nhà lý luận hàng đầu418 nhưng chưa có một ý tưởng nào tồn tại đủ lâu để có thể hình thành trong ông và trong nhóm chuyên gia một con đường rõ rệt.


Ông Đống Ngạc kể: “Một lần đi Hungary, thấy nông dân được canh tác tới năm

mươi hecta ruộng, anh Ba rất thích nhưng khi trao đổi với một số nhà kinh tế, họ

nói: ‘Làm như thế lâu [lên chủ nghĩa xã hội] lắm anh ạ’, anh Ba lại thôi”. Theo ông Trần Phương thì nhiều lần, ông Lê Duẩn bàn với ông nghiên cứu áp dụng mô hình Bắc Triều Tiên nhưng khi ông Trần Phương nói rằng miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện làm như vậy thì “anh Ba im lặng”. Đầu thập niên 1970, khi nhìn thấy những bất hợp lý của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo ông Nguyễn Đức Bình, ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, ông Lê Duẩn đã tỏ ra thận trọng khi đưa ra khái niệm “bước đi ban đầu”. Ông Bình nói: “Khái niệm này đã làm nức lòng giới lý luận đầu
những năm bảy mươi”. Tuy nhiên, cũng theo ông Bình: “Rất tiếc, khái niệm đó đã bị chìm đi tại Đại hội IV, 1976, trong không khí say sưa vì thắng lợi”. Bài phát biểu trước Hội nghị Trung ương 24, ngày 13-8-1975, cho thấy mâu thuẫn khá rõ giữa một Lê Duẩn sắc sảo nhìn thấy vấn đề trong cuộc sống và một Lê Duẩn chưa có đủ lý luận để giải thích kinh tế thị trường. Trình độ của một nhà lãnh đạo có thể được khắc phục nếu như quy trình hình thành chính sách của Đảng cho phép tranh luận thay vì chỉ trông cậy vào sự anh minh lãnh tụ.
Ông Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong, Quảng Trị, trong một gia đình thợ

nghèo. Bà Lê Thị Muội, con gái của ông với người vợ đầu ở quê tên là Lê Thị Sương, kể: “Là con trai một, ba tôi rất được cưng chiều, ông nội bắt tránh sông nước nên sống ở nông thôn mà không hề biết bơi”. Tuy nghèo, nhưng “cậu Nhuận”, tên ông


hồi nhỏ, vẫn được gia đình cố lo cho ăn học, nhưng ông học đến lớp bốn thì “tự ý bỏ”. Theo ông Lê Kiên Thành, con trai của ông với bà Nguyễn Thụy Nga: “Ba tôi kể, trong một lần làm bài thi, thầy giáo ra đề ‘hãy kể những gì mà nước Pháp đã mang lại cho An Nam’. Ba tôi viết ‘nước Pháp chỉ mang lại sự áp bức’. Bài thi của ông bị đánh rớt, từ đó ông bỏ học”. Học hành dở dang, nhưng lớp bốn ở quê thời đó vẫn được coi là “hay chữ”, dân làng vẫn gọi ông là “cậu Thông Nhuận”. Ở nhà ít lâu, ông Lê Duẩn kiếm được một chân thư ký cho Công ty Hỏa xa Bắc Kỳ.
Tham gia hoạt động từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, ông Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931,
ông bị bắt tại Hải Phòng khi đang là ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ, bị xử án hai mươi năm cầm cố, bị đưa qua các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, Côn Đảo. Năm 1936, nhờ thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền Đông Dương trả tự do cho nhiều tù chính trị trong đó có Lê Duẩn. Năm 1937, ông được cử giữ chức bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và chỉ hai năm sau được bầu làm ủy viên Thường vụ Trung ương
Đảng.
Cũng trong năm 1940, Lê Duẩn bị bắt, bị đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được đón về cùng với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh. Tại Đại hội II, Lê Duẩn không dự nhưng vẫn được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Đây là thời gian mà Lê Duẩn

kiến tạo được uy tín rất cao ở trong Xứ ủy. Theo ông Võ Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”.


Cũng như cách mà Hồ Chí Minh thi hành trong các chính phủ ban đầu, ở Nam Bộ lúc ấy, các vị trí chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ,
ông Lê Duẩn đều giao cho người ngoài Đảng. Ngay một sở quan trọng như Sở Công an, ông Duẩn cũng để Luật sư Diệp Ba – một người không phải đảng viên – làm
giám đốc, còn xứ ủy viên như ông Phạm Hùng thì làm phó. Vị trí Tổng chỉ huy Lực lượng Vũ trang Nam Bộ ông Duẩn cũng giao cho Trung tướng Nguyễn Bình, nguyên là người của Quốc dân Đảng.
Hình ảnh ông Lê Duẩn trong những ngày lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam

được bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông mô tả: “Anh mặc quần rách đít, áo rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng vì cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động. Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nào


cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe. Anh nhường
nhịn điều kiện tốt cho mọi người”419.

Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo

và mở lò gạch tại Biên Hòa. Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indigène. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đã có gia đình”. Người tình “đồng chí” của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lãnh đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà “cả hai người vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác.
Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện tình của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy. Khi được ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài Gòn, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì.

Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng được

nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc”. Theo bà Nga thì khi ấy ông Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị Nga”420. Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng
suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc thì anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”421.
Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì trong lòng tôi lúc nào anh cũng là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải giải quyết sao đây?’. Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ
cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên
tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được gì cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn”422.
Năm ấy, ông Lê Duẩn bốn mươi mốt còn tuổi thực của bà Nga là hai mươi ba, có lẽ khi lấy nhau, họ cũng không ngờ ông Lê Duẩn rồi sẽ trở thành một nhà lãnh đạo quyền lực nhất, và cuộc hôn nhân rồi sẽ mang lại cho bà Nga nhiều rắc rối nhất. Bà Nguyễn Thụy Nga thừa nhận trong cuộc hôn nhân hơn ba thập niên của bà, chỉ có ba năm là thực sự hạnh phúc. Ông Lê Duẩn đã chọn vợ vì “đức thủy chung mà ông chứng kiến bà Nga dành cho người khác” và bà thì thừa nhận là đã chọn ông qua “đạo đức và tình cảm lớn lao mà ông đã dành cho đồng chí, đồng bào”. Đám cưới ông bà do Văn phòng Xứ ủy đứng ra tổ chức: ông Lê Đức Thọ làm “ông mai”, ông Phạm Hùng làm chủ hôn. Ông Lê Duẩn đã đọc thơ ca ngợi vợ trong một bữa liên hoan đơn giản được những người kháng chiến đứng ra tổ chức.



tải về 197.76 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương