BÊn thắng cuộC – chưƠng VIII: thống nhấT



tải về 197.76 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích197.76 Kb.
#20953
1   2   3
Bà Nga kể: “Trong tình yêu anh cũng như con nít, đi đâu anh cũng mang tôi theo. Họp hành xong, trở về nhìn thấy nhau là anh ôm chầm lấy tôi”. Họ vẫn
thường di chuyển và ngủ trên một chiếc ghe tam bản có mui. Khi bà Nga mang thai

người con đầu lòng tới tháng thứ bảy thì ông Lê Duẩn trở lại miền Đông. Bà Nga trở

lại Sài Gòn sinh người con gái đặt tên là Lê Vũ Anh rồi gửi lại nhờ mẹ đẻ nuôi khi con mới ba tháng tuổi. Năm 1952, ông Lê Duẩn ra Bắc, kể từ đó, họ bắt đầu có rất ít thời gian ở bên nhau.
Đầu 1954, ông Lê Duẩn từ Việt Bắc về miền Nam. Thư ký riêng của ông, ông Đống Ngạc, kể: Tới Quảng Ngãi, theo lệnh của Bộ Chính Trị, ông ở lại mở lớp cho cán bộ cao cấp miền Trung Nam Bộ, một số cán bộ từ Nam Bộ cũng kéo ra Khu V tham gia lớp học này. Khi Hiệp định Geneva có hiệu lực, Bộ Chính trị chỉ thị ông trở lại Nam Bộ, đôn đốc việc thi hành, chủ yếu là lo tổ chức tập kết rồi ra Bắc. Nhưng ông Lê Duẩn đã điện ra xin “ở lại Miền Nam”. Khi những người giúp việc của ông
thắc mắc, theo ông Đống Ngạc: “Anh Ba nói, anh biết rằng sẽ không có hiệp thương và rồi tình hình miền Nam sẽ rất gay go, anh phải ở lại để tính làm sao chuyển sang đấu tranh chính trị và bảo toàn lực lượng. Anh Ba cho rằng phải làm lại cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam”.
Từ Quảng Ngãi, ông Lê Duẩn theo đường bộ vào Quy Nhơn rồi từ đó đáp máy bay của quân đội Pháp xuống miền Tây để triển khai việc thi hành hiệp định. Ông
Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tuy là một người rất hùng biện trước các vấn đề gai góc, ông Duẩn đã phải ấp úng khi giải thích Hiệp định Geneva, bởi bản thân hiệp định đã không thuyết phục được ông”. Đó là những ngày mà theo bà Nguyễn Thụy Nga, ông Lê Duẩn rất băn khoăn, day dứt. Bà Nga kể: “Anh đi tới, đi lui, chắp hai tay phía sau, đốt thuốc hết điếu này đến điếu khác. Theo quyết định của Trung ương, sau
khi sắp xếp tình hình xong, anh sẽ tập kết. Nhưng anh liên tục điện ra Trung ương, và tới lần thứ ba thì Trung ương và Bác Hồ đồng ý cho anh ở lại”423.
Khi ấy, bà Thụy Nga đang mang thai người con thứ hai. Bà Nga xin ở lại, nhưng theo bà thì ông Lê Duẩn nói: “Tình hình miền Nam rồi sẽ phức tạp lắm, em ở lại không những sẽ khổ em, khổ con mà còn dễ bị lộ cho hoạt động của anh”. Cuối tháng 3-1955, bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái được thu xếp tập kết trên chuyến tàu áp chót. Con tàu Ba Lan mang tên Kilinski, khi ấy đợi trên cửa Sông Đốc, Cà Mau, để chở hơn 2000 cán bộ miền Nam ra Bắc. Gia đình Lê Duẩn và Lê Đức Thọ được các “đồng chí Ba Lan” dành riêng cho hai cabin. Trước mặt báo chí và Ủy ban Giám sát, ông Lê Duẩn cùng vợ con đĩnh đạc bước lên tàu.
Khoảng mười hai giờ đêm, Kilinski nhổ neo. Ít giờ sau, một chiếc ca-nô âm thầm cập sát thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con. Bà Thụy Nga kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải ở lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”. Khi Lê Duẩn lên boong, một số rất ít các đồng chí thân cận của ông biết kế hoạch đứng chờ. Ông Duẩn cũng ôm hôn từ giã từng người, trong đó có Lê Đức Thọ. Rồi ông lặng lẽ leo theo mạn tàu xuống chiếc ca-nô do ông Cao

Đăng Chiếm và ông Văn Viên, người của Quốc Gia Tự vệ Cuộc, lái chạy ngược vào

bờ, nơi ông Võ Văn Kiệt đang chống xuồng đợi rồi đưa Lê Duẩn về một căn cứ ở Bạc Liêu.
Ông Duẩn rất thích “căn cứ” mà ông Kiệt bố trí. Đó là một cái trại nằm giữa

đồng, xung quanh mênh mông sông nước. Đêm ấy, bà chủ trại thấy ông Kiệt dẫn khách về đã ngờ ngợ. Sáng, khi ông Kiệt ra phụ nhổ lông vịt làm cơm, bà hỏi: “Có phải ông Lê Duẩn?”. Ông Kiệt giựt mình nhưng phản ứng mau lẹ: “Đâu có, ổng đi hồi hôm rồi”. Bà dứt khoát: “Ông Duẩn! Cậu không tin, tôi lấy hình cho coi”. Nói rồi bà lên trang thờ lấy hình ông Duẩn xuống. Ông Kiệt thấy khó giấu, bèn dặn: “Thì ông này giống ông Duẩn nhưng chị không được nói với bất cứ ai nhé”.


Sáng hôm ấy ông Kiệt cứ phân vân, đến cuối buổi, ông rủ ông Duẩn ra vườn rồi nói thật: “Bà già phát hiện ra anh”. Ông Duẩn hỏi: “Ai nói?”. “Bà giữ hình anh trên trang thờ nên nhận ra”. Ông Duẩn lắc đầu: “Lại thằng Trần Bạch Đằng!”. Khi phụ trách thông tin Xứ ủy, ông Trần Bạch Đằng đã cho in hình ông Lê Duẩn treo khắp các cơ quan của Ủy ban Kháng chiến.
Ông Kiệt trấn an: “Nhưng bà già có ý thức lắm”. Ông Duẩn suy nghĩ rất căng rồi

nói: “Nhưng chỉ cần bả mừng, bả khoe với con bả là đủ lộ rồi”. Ông lệnh: “Chuẩn bị, tối chuyển”. Tối hôm đó, ông Kiệt đưa ông Lê Duẩn qua ở với ông Cao Đăng Chiếm và ông Mai Chí Thọ. Ở đây, ông Duẩn rất kỹ, cứ có khách là ông lại vô buồng. Trong khi Cao Đăng Chiếm và Mai Chí Thọ, đều là dân công an, lại cứ thản nhiên ngồi đánh bài ngay cả khi có người lạ tới. Chỉ một thời gian ngắn sau ông Lê Duẩn lo lắng quá lại phải quay về ở chung với ông Kiệt.


Đó là những ngày cực kỳ căng thẳng. Ở trong đất liền một thời gian, thấy cần phải hạn chế xuất hiện, Lê Duẩn chuyển ra Hòn Khoai, đóng giả ông thầy thuốc
Nam chữa bệnh bằng lá cây. Xung quanh ông lúc đó có Võ Văn Kiệt, Phạm Văn Xô, có thuyền, ghe, có mấy chiếc xe ngựa, đảm bảo giao thông từ phía U Minh Hạ. Ông Phạm Văn Xô, một ủy viên Trung ương, được người dân quen gọi là “ông Hai xe ngựa”.
Cuối năm 1955, ông Lê Duẩn nhận được mật báo: “Địch đã biết Lê Duẩn ở lại miền Nam và đang lần theo mọi dấu vết để truy tìm”. Ông chuyển lên Bến Tre.
Theo Năm Hoành, một người cận vệ của ông lúc đó: “Bốn tháng đầu, tình hình tương đối yên tĩnh. Sang đầu tháng 5-1956, địch bắt đầu đánh phá mạnh các cơ sở của ta, anh Ba cử tôi về Bạc Liêu liên hệ với Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, chuẩn bị địa
điểm để khi cần thì sẽ đưa anh Ba quay lại Khu IX”. Người tiếp Năm Hoành khi ấy là ông Võ Văn Kiệt. Thu xếp xong, Năm Hoành trở lại Bến Tre, gặp khi chính quyền Ngô Đình Diệm đang bố ráp ở huyện Giồng Trôm, ông bị bắt khi còn cách nơi ở của ông Lê Duẩn chỉ vài trăm mét.
“Cách mạng miền Nam” có thể đã khác nếu như chính quyền Sài Gòn quật ngã

được khí tiết của Năm Hoành. Nhưng, dù bị tra tấn, Năm Hoành đã không khai gì về Lê Duẩn424. Sau khi Năm Hoành bị bắt, thay vì trở lại Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt đã chuẩn bị đón, Lê Duẩn quyết định trở lại Sài Gòn. Ngày 14-7-1956, ông được Sáu Hoa, một cơ sở của ông Nguyễn Văn Linh, đón lên Sài Gòn bằng xe hơi. Lê Duẩn về tá túc ở nhà ông Sáu Hoa một thời gian rồi chuyển lên nhà 29 Huỳnh Khương Ninh.


Tại ngôi nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, Xứ ủy viên Lê Toàn Thư trước đó đã đưa các cán bộ của mình về, tạo ra một “gia đình bình phong”. Bà Nguyễn Thị Loan, khi ấy là một phụ nữ trẻ, được Xứ ủy yêu cầu mang theo hai đứa con còn nhỏ về đóng vai vợ một sỹ quan có chồng chinh chiến xa. Anh Trịnh Long Nhi, một nhà giáo, đóng vai “anh Hai” của Loan. Chị Danh, một công chức thuế quan làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất, đóng vai vợ Nhi. Người lớn nhất trong nhà là “bà dì” Nguyễn Thị Một và ông Phan Phát Phước, vào vai “anh bếp”. Từ cuối tháng 7-1956, ngôi nhà này có thêm “chú Chín”.
Theo bà Nguyễn Thị Loan, trong cái đêm “chú Chín” Lê Duẩn được ông Lê Toàn Thư dẫn đến nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, ông nom như một ông già bảy mươi với dáng gầy gò, râu dài chấm ngực, dù năm ấy ông chỉ mới chưa đầy năm mươi tuổi. Tại đây, sau khi được cắt tóc, cạo râu và thay quần áo cho giống một ông già Sài Gòn, ông Lê Duẩn bắt đầu viết Dự thảo Đề cương Cách mạng Miền Nam.
Bản Đề cương nổi tiếng này, theo bà Loan: “Chú Chín” viết tới đâu lại đem

xuống hầm cất giấu, tới đêm mới mang lên để bà Loan và ông Phước chép lại giữa hai dòng của một cuốn tiểu thuyết, bằng một thứ mực hóa học do ông Phước tự chế từ những trái cây mà bà Loan gọi là trái “ngũ bội”. Ông Lê Duẩn ở lại miền Nam cho tới đầu năm 1957, cho dù, theo bà Hồ Anh – người được Trung ương Đảng cử tìm cách liên lạc với ông – từ năm 1956 “Bác Hồ” đã quyết định gọi ông Lê Duẩn ra Hà Nội.


Ngày 3-9-1956, bà Hồ Anh đi Quảng Châu, Trung Quốc, định tìm đường từ Hong Kong tới Sài Gòn để đón ông Lê Duẩn, nhưng các “bạn Trung Quốc” cho là phương án này không thể thực hiện. Bà Hồ Anh liền liên lạc với một đảng viên cộng sản Trung Quốc, được gọi theo bí danh là Q.M., khi ấy đang ở Phnom Penh, và “đường
Phnom Penh” đã được Trung ương đồng ý. Từ Hà Nội, Phạm Hùng viết cho Lê Duẩn một lá thư đã được mã hóa để bà Hồ Anh cầm theo làm tin. Ông Q.M. nhận được lá thư, chuyển về Sài Gòn trao tận tay ông Lê Duẩn. Bà Loan dẫn “chú Chín” ra tiệm
ảnh, chụp hình làm giấy thông hành còn “anh Hai” Trịnh Long Nhi thì dẫn ông đi cắt may một bộ đồ complet sang trọng.
Theo lệnh của ông Phan Văn Đáng425, ông Lai Thanh, một cơ sở người Hoa của Xứ ủy, lo liệu giấy tờ và trực tiếp lái xe đưa ông Lê Duẩn thoát sang Phnom Penh.

Chiếc xe Ford bốn chỗ, sơn màu đọt chuối của một cơ sở khác, tên là Nguyễn Văn

Ninh, được trưng dụng cho “cuộc đào thoát lịch sử”. Ngoài ông Lai Thanh lái xe, ông Ninh chủ xe, tùy tùng thứ ba là một bảo vệ do ông Lê Duẩn trực tiếp lựa chọn: ông Bảy Dự Nguyễn Võ Danh426, vốn là một cán bộ binh vận mà ông Lê Duẩn biết rõ khi còn ở Đồng Tháp.
Khi ấy, lệnh truy đuổi Lê Duẩn đã được chính quyền Ngô Đình Diệm ban xuống

gắt gao. Ở trạm kiểm soát Gò Dầu, Tây Ninh, Bảy Dự phán đoán có ít nhất năm loại tình báo đang rình rập. Ông Ninh cầm xấp giấy tờ chạy xuống trình, thấy trong bót gác có lệnh truy nã Lê Duẩn dán hình ông hồi kháng chiến. Nhưng mật vụ kiếng


đen thò đầu nhìn vào trong xe không tìm ra được mối liên hệ nào giữa một ông “bận đồ lớn”, mặt mũi phương phi, đeo kính trắng với ông Duẩn gày gò trên tờ truy nã. Cùng với khoản lót tay hậu hĩ, Lê Duẩn thoát sang Svay Rieng không mấy khó khăn. Tại đây, ông dừng lại để làm giấy tờ giả dưới danh nghĩa Việt kiều.
Tại Phnom Penh, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy Nam Bộ lên họp bàn về tình hình “cách mạng miền Nam” trước khi ông lên một tàu buôn Anh chạy tuyến Phnom
Penh – Hong Kong, theo sông Tiền, trở lại miền Nam Việt Nam, lênh đênh bốn ngày, năm đêm trên biển. Trong những ngày ấy, Lê Duẩn phải đóng vai “ông già câm” để khỏi phải giao tiếp với những người trên tàu. Đi cùng ông là Q.M. Trong vai một “đứa cháu” người Hoa, Q.M. sẽ đưa ông Lê Duẩn về Quảng Châu, nơi đó họ gặp lại nữ đồng chí Hồ Anh cũng vừa bay từ Phnom Penh đến. Ngày 4-6-1957, máy bay chở Lê Duẩn từ Trung Quốc trở về đáp xuống sân bay Gia Lâm.
Năm 1955 bà Nga tập kết ra Bắc cùng với con gái Vũ Anh, khi ấy, bà đang mang thai người con thứ hai về sau được đặt tên là Lê Kiên Thành. Thoạt đầu, bà Nguyễn Thụy Nga được phân công làm việc ở báo Phụ Nữ Việt Nam.
Trong suốt mùa hè đầu tiên ở miền Bắc, bà được bố trí ở trong một gara ô tô

mái lợp tôn nóng bức cùng với hai phụ nữ có con nhỏ khác. Về sau, bà Mai Khanh, vợ của ông Phạm Hùng, đưa bà về ở chung trong một biệt thự trên đường Phan Đình Phùng. Tuy nhiên, ở đây mẹ con bà đã không khỏi chạnh lòng khi những người khách đến thăm ông Phạm Hùng tặng quà con cái chủ nhà mà không ai để ý đến những đứa trẻ, con của một lãnh đạo tối cao, khi ấy cũng đang khát khao quà cáp.


Một trong những việc đầu tiên mà bà Nga làm khi ra Bắc là viết thư về thăm
người bố chồng mà bà chưa bao giờ gặp mặt. Khi ấy, bố ông Lê Duẩn đang sống ở Nghệ An với con dâu là bà Lê Thị Sương, người vợ đầu ở quê của ông. Thoạt đầu, bố chồng bà đã nhờ Khu ủy Khu IV gửi trả lại món quà của bà Nga, còn bà Lê Thị Sương thì chỉ khóc. Tuy nhiên, tình hình được cải thiện khi bà Sương chấp nhận trả lời thư của bà Nga427. Sau đó, trong một dịp Tết, bà Nga đưa con về Nghệ An thăm nhà chồng. Những đứa trẻ Vũ Anh, Kiên Thành đã chiếm được cảm tình của ông nội và bà “mẹ lớn”.

Nếu không có sự “tham gia” của đoàn thể, có thể ông Lê Duẩn đã thu xếp được chuyện gia đình với hai người vợ. Nhưng, trước khi ông Lê Duẩn được điều ra Hà Nội, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh Phạm Hùng, chị Nguyễn Thị Thập nói với tôi, trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ cũng vì sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tròn nhiệm vụ”. Khi ấy Quốc hội vừa có Luật Hôn nhân và Gia đình quy định chế độ “một chồng, một vợ”.


Ông Lê Duẩn ra, vui mừng gặp lại người vợ trẻ. Nhưng, theo bà Nga: “Một hôm anh nằm gần cửa sổ trên sàn nhà, đầu anh gối lên đùi tôi để tôi nhổ tóc bạc cho anh. Tôi nói: ‘Các anh chị đề nghị chúng ta ly dị nhau’. Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong lòng anh sẽ không bao giờ yên ổn.
Người cộng sản thì phải có thủy, có chung, có tình có nghĩa’. Tôi khóc”. Mấy hôm sau, ông Lê Duẩn dẫn vợ sang Trung ương Hội Phụ nữ để trình bày, nhưng theo bà Nga thì “nhiều chị phản đối kịch liệt”. Từ đó, bà Nga nói: “Tôi trở thành đối tượng bị các chị ghét bỏ. Tôi là tỉnh ủy viên, khi ra Bắc còn chế độ nằm bệnh viện Việt Xô, nay Trung ương Hội cắt hết những quyền lợi đó, coi tôi như là một tội phạm chính trị”428.
Những đồng chí của ông Lê Duẩn như Lê Đức Thọ, người đã mai mối bà Nga cho ông, giờ đây cũng im lặng. Bà Mai Khanh, vợ ông Hai Hùng, người chủ hôn, thì cùng với vài cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động gia đình chống lại bà. Khi ông Lê Duẩn ra Bắc, bà Nga cũng chỉ “thỉnh thoảng mới về số 6 Hoàng Diệu để thăm chồng”. Bà kể: “Có đêm chúng tôi đang nằm bên nhau đùa giỡn với bé Thành thì con gái của anh, bé Hồng, từ ký túc xá trường đại học về đập cửa rầm rầm và la khóc. Anh khuyên tôi: ‘Thôi em đi cho nó yên’. Đi đâu? Tối hôm đó bà Nga sang nhà bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh; đến nửa đêm, bà Bảy Huệ đưa bà về lại số 6 Hoàng Diệu. Bà Nga nhớ lại: ‘Khi ấy Hồng đã vào trường, thấy tôi mắt anh mừng, sáng rỡ’ ”429.
Tháng 12-1957, chỉ năm tháng sau khi đoàn tụ, ông Lê Duẩn phải thu xếp để

cho người vợ trẻ sang Bắc Kinh công tác. Khi ấy bà đang có mang ba tháng, vừa nuôi ba đứa con vừa công tác, vừa học trong vòng năm năm. Thỉnh thoảng, trong những chuyến công du dừng chân ở Bắc Kinh, ông Lê Duẩn mới có dịp ghé thăm. Tháng 7-1962, bà Nga trở về Việt Nam nhưng không phải để đoàn tụ. Bà được phân công làm việc ở báo Hải Phòng. Bà Nga kể: “Thỉnh thoảng anh xuống thăm mẹ con tôi nhưng không một lần nào vui vẻ, vì thường anh phải đưa cô con gái của người


vợ trước đi theo. Thấy anh và tôi thân mật với nhau là nó đập phá la khóc, anh lại phải buồn hiu ra về”430.
Một lần lên Hà Nội họp, bà Nga về thăm chồng ở số 6 Hoàng Diệu. Bà kể: “Vào

nhà thấy Hồng đang ăn cơm với ba, tôi vào trong thay áo ngoài. Vừa bước ra thì

Hồng cầm chén cơm có chan canh đổ từ trên đầu xuống”431. Bà Nga viết: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 Hoàng Diệu. Nhưng tôi chết thì nhẹ cho tôi, còn anh, còn mấy đứa con tôi sẽ ra sao? Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Con tôi sẽ mất mẹ. Vì Đảng, vì tình thương mà tôi đã vượt qua”432. Tình riêng gác lại, từ
đây Lê Duẩn được mô tả như là một người dành hết tâm, lực của mình cho đất nước.
Chấp chính và chuyên chính

Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, Lê Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thời gian này, thường các ủy viên Bộ Chính trị rất ít khi gặp nhau. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, mỗi người ở một biệt thự riêng và sinh hoạt chi bộ ở nhà với thư ký, lái xe, bảo vệ. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Nhiều cụ Bộ Chính trị vẫn giết thời gian bằng cách chơi tú-lơ-khơ với tổ phục vụ, nhưng anh Ba thì chủ yếu dùng thời gian đọc sách. Vốn tiếng Pháp không nhiều lắm nhưng ông


vẫn cố dành cả ngày để đọc bộ Bách khoa Toàn thư bằng tiếng Pháp. Mỗi khi chúng tôi rủ ông chơi tú-lơ-khơ, ông nói: tôi đọc sách cũng là giải trí”. Các ủy viên Trung ương lại càng ít việc. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, vốn là một thợ cơ khí, nhiều hôm đã lật chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian.
Theo ông Hoàng Tùng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy lề lối sinh hoạt của các thành viên trong cơ quan lãnh đạo tối cao là không ổn. Cụ Hồ nói: “Ta phải lập một chi bộ gồm tất cả ủy viên Bộ Chính trị, Bác làm bí thư để hàng tuần các đồng chí lãnh đạo còn ngồi lại với nhau chứ họp ở nhà thì coi như không làm gì cả”. Thế rồi cuối tuần, Cụ Hồ làm cơm mời các ủy viên Bộ Chính trị tới ăn, nhiều người nghe hỏi: “Hôm nay có chuyện gì hay sao thế?”. Tôi bảo: “Bác lập chi bộ”. Vào bữa, Cụ Hồ nói: “Hôm nay họp chi bộ, các chú chuẩn bị kiểm điểm, họp ở nhà toàn cần vụ, lái xe thì ai kiểm điểm các chú”. Thế nhưng, theo ông Hoàng Tùng, ăn thì họ vẫn tới ăn nhưng có khi vẫn không ai nhìn nhau cả. Có bữa ông Lê Duẩn nói “Tôi về nhà làm việc với lái xe, bảo vệ đây”.
Khi Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam, cuộc gặp chiều thứ bảy bỏ. Theo ông Hoàng Tùng: “Nguyễn Chí Thanh nói với Cụ Hồ: ‘Tôi đi Nam tôi rất phấn khởi, chỉ sợ ở nhà không ai chống xét lại’. Cụ Hồ cũng rất buồn, có dịp 19-5, Cụ bỏ lên Ba Vì,
Bộ Chính trị kéo lên theo, Cụ bảo: ‘Các chú lên làm gì?’. Mọi người nói: ‘Lên chúc thọ Bác!’. Cụ Hồ mắng: ‘Thọ thì có gì mà chúc, điều quan trọng là các chú phải từ bỏ chủ nghĩa cá nhân đi, các chú phải đoàn kết, có đoàn kết mới thống nhất Bắc-
Nam được. Các chú mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, chú Lê Duẩn cũng cá nhân chủ nghĩa’. Năm 1967, Cụ Hồ bảo tôi và Tố Hữu thảo bài nói chuyện ‘Nâng cao đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân’, tôi viết chủ nghĩa cá nhân chung chung, Cụ

bảo: ‘Vấn đề là ở cấp trung ương chứ không phải ở cơ sở’”.

Ông Trần Việt Phương, người cùng với Vũ Kỳ, Lưu Văn Lợi, sống bên cạnh Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch từ năm 1954 đến 1969, kể: “Hồ Chí Minh nói: ‘Chú Ba, chú Năm, chú Tô phải thống nhất ý kiến với nhau rồi mới đưa ra Bộ Chính trị’. Bộ Chính trị họp ngay nhà sàn, trước họp ở Phủ Toàn quyền cũ. Khi về Hà Nội, chính phủ lúc đầu ở 108 sau về Phủ Toàn quyền. Nhưng rồi Hồ Chí Minh xuống ở dãy nhà của những người phục vụ Toàn quyền Pháp. Hồ Chí Minh chọn nhà ở một tầng của một người thợ điện. Phạm Văn Đồng ở cách đấy mười mét, dãy nhà sau, tầng thứ hai.
Chúng tôi ở trong một garage trước chứa mười chiếc ô tô nằm giữa nhà Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng nhiều lúc trở thành người trung gian giữa Trường Chinh và Lê Duẩn”.
Vai trò của Bí thư Lê Duẩn càng trở nên nổi bật sau khi Hồ Chí Minh qua đời. Sau khi khiến dân chúng xúc động qua bài điếu văn đọc trong “Lễ tang của Bác”, ông được mô tả như là một học trò xuất sắc nhất của “Cha Già Dân tộc”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân, khi bệnh tình của Hồ Chí Minh đã chuyển sang giai

đoạn khó lòng cứu chữa, Bộ Chính trị phân công ông Phạm Văn Đồng và ông Trần Quốc Hương chuẩn bị bài điếu văn để Bí thư Lê Duẩn đọc. Ngày 2-9-1969, Cụ Hồ đã qua đời, nhưng khi đọc bản dự thảo điếu văn vẫn không ai đồng ý. Ông Lê Duẩn nói với Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân: “Tôi lo quá, hai chú nghĩ xem ta tự viết lấy được không”. Xem bản thảo do bên chính phủ viết xong, ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Anh


Ba ơi, bài điếu văn này chỉ viết để dành cho cán bộ bình thường thôi, không phải cho lãnh tụ”.
Ông Xuân kể tiếp: “Khi ấy, tôi sực nhớ có hai bài điếu văn mà khi học tiếng Nga ở Liên Xô tôi rất thích: bài điếu đọc trước mộ của Karl Marx và bài điếu do Stalin
đọc trong lễ tang Lenin”433. Khi ấy đã chín giờ đêm, ông Đậu Ngọc Xuân lập tức yêu cầu Văn Phòng Trung ương lục tìm trong các tuyển tập hai bài điếu văn ấy. Đến
mười hai giờ thì tìm ra, cả ông Xuân và ông Đống Ngạc viết luôn một mạch cho tới năm giờ sáng. Theo ông Xuân thì điểm nhấn mà ông học được từ bài điếu văn đọc trong lễ tang Karl Marx và Lenin là câu “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề!”.
Sáng hôm sau, ông Lê Duẩn xuống, hỏi ngay: “Ra không?”. “Dạ có, không giống hai bài cũ”. “Đưa tôi xem”. Trong cuộc họp sau đó, các ủy viên Bộ Chính trị đã lần lượt nghe đọc qua năm dự thảo. Đến bài do nhóm giúp việc của ông Lê Duẩn trình thì ông Trường Chinh nói: “Đúng đây rồi!”. Bộ Chính trị liền giao cho Tố Hữu phối
hợp với các ông Đống Ngạc, Đậu Ngọc Xuân, hoàn chỉnh. Khi bài điếu văn đã hoàn thành, có một lo ngại khác đó là giọng Quảng Trị của ông Lê Duẩn. Ông Duẩn vốn rất dở khi đọc diễn văn, nhưng đến bài điếu văn này, theo ông Xuân, ông Duẩn nói: “Các chú đưa đây và yên tâm, mai tôi sẽ đọc được”. Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí

Minh, như nằm ngủ trong cỗ quan tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân,

theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đã khóc”.
Khi đã trở thành người “kế tục sự nghiệp của Bác”, Lê Duẩn càng thăng hoa. Có thời gian ông kéo nhóm giúp việc xuống Đồ Sơn và ở lại đó khá lâu để “tư duy”. Bộ Chính trị hầu như không biết ông đang làm gì ở đó. Một ủy viên quyền bính vào
hàng bậc nhất như Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn mà cũng mù tịt. Một lần, nhân khi Giáo sư Trần Phương từ Đồ Sơn trở về, ông Hoàn đã mời ông Trần Phương tới nhà dùng cơm. Ông Trần Phương nói: “Khi đó, tôi thấy lo lo, không biết có gì xảy ra mà bộ trưởng Nội vụ lại muốn gặp riêng. Nhưng trong bữa ăn, khi thấy ông Hoàn
dò hỏi xem ông Lê Duẩn đã làm gì ở Hải Phòng, thì tôi thở phào nhẹ nhõm”. Ông Trần Phương nhớ lại: “Ở Đồ Sơn, ông ra tắm biển. Mọi người không thấy ông bơi, ông nhìn trời, nhìn nước, nhìn mây và suy nghĩ. Thực ra ông không tắm trong nước biển mà tắm trong những dòng suy tưởng. Lắm khi đùng một cái, ông quay lại nói về một loạt những suy nghĩ mà ông mới nảy sinh qua sóng biển đó”434.
Mỗi khi nói tới Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt vẫn tự trách mình: “Chúng tôi ra Hà Nội mà ít ai ý thức được là mình đang tham gia quyết định vận
mệnh, đường đi của dân tộc. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt đối vào sự anh minh của lãnh tụ còn mình thì đến đại hội như đến một đại lễ mừng chiến thắng”. Đây có thể là sự nuối tiếc của một con người trách nhiệm. Nhưng, ngày 14-12-1976, khi Đại hội IV chính thức khai mạc ở Hội trường Ba Đình, mọi việc đã được Lê Duẩn và
Trung ương quyết định435. Trước đó, trên chiếc chuyên cơ IL-19 chở đoàn đại biểu của Đảng bộ Thành phố bay từ Tân Sơn Nhất ra Hà Nội, ông Võ Văn Kiệt đã nhận được lời chúc mừng của các vị đi chung về việc tại Đại hội IV, ông sẽ trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.
Tại Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, Bí Thư Lê Duẩn nói: “Việt Nam bây giờ, đi như thế nào để tạo ra được chủ nghĩa xã hội? Đây là một vấn đề khó, khó vì
sao? Chưa bao giờ người ta nói đến một nước đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong lịch sử chưa có quy luật đó. Mác chưa nói, Lenin cũng chưa nói. Sở dĩ có chuyện đó là do ta có các nước lớn giúp đỡ thôi”. Lê Duẩn đánh giá: “Các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đã lợi dụng sự sa lầy và suy yếu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam mà lớn lên”, trong khi “đế quốc Mỹ và
hệ thống thế giới của chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng suy yếu và đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện”.
Hơn một năm sau, tại Hội nghị Trung ương 25, quan điểm của ông Lê Duẩn về “chỗ dựa” đã hoàn toàn thay đổi, ông nói: “Trước đây, chúng ta nghĩ rằng đi từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chủ yếu
nhờ có sự giúp đỡ của phe ta. Nay ta thấy, nghĩ như vậy là không đúng… Việc tiến

lên chủ nghĩa xã hội ở một nước trước hết là do quy luật bên trong của nền kinh tế nước ấy quyết định, do nước ấy tự làm, tự đi lên là chính”436. Theo ông Trần Phương: “Khi giải phóng miền Nam, chúng tôi đặt câu hỏi, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi thì làm gì? Gần như mọi người đều tán thành: còn có thể làm gì hơn là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”. Ông Trần Phương nói tiếp: “Tư tưởng đó là của của Lenin. Khi đó thì đầu óc của mình chỉ biết có Lenin, cái gì Lenin đã nói thì không tranh cãi”.


Việc Đại hội Đảng lần thứ IV áp đặt mô hình kinh tế miền Bắc cho cả miền Nam

là điều không thể tranh cãi. Đó là vận nước. Những điều được viết trong đường lối Đại hội IV437 chưa phải là chính sách, chưa phải là những quy phạm, mà chỉ là những khái niệm mơ hồ thể hiện khát vọng của những người cộng sản. Những ngôn từ rất chung ấy có thể được suy diễn theo hướng tích cực bởi những người có đầu óc thực tế và có trách nhiệm với dân. Nhưng các nhà lãnh đạo khi ấy không chỉ so mình với “lịch sử 4.000 năm”. Bí thư Trung ương Xuân Thủy, khi làm thơ, còn tưởng “Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”. Câu thơ ấy của Xuân Thủy minh họa phát biểu của Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25 – người lãnh đạo cao nhất, khi ấy, cũng tưởng thế giới đang nhìn Việt Nam “khâm phục lắm”438.


Ngay từ ngày 09-08-75, tức là chỉ hơn ba tháng sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết “triển khai thăm dò dầu khí trên cả nước”, với yêu cầu “nhanh chóng tìm ra và khai thác nhiều dầu, khí, vừa đủ dùng trong nước, vừa có thể xuất, tạo nguồn ngoại tệ quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”. Chưa đầy một tháng sau Hội nghị Trung ương 24,
ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, sáp nhập hơn sáu mươi tỉnh thành của cả nước thành hai mươi chín tỉnh và bốn thành phố. Việc sáp nhập các tỉnh theo Nghị quyết 245 là “nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch
và đơn vị hành chánh có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất”.
Nếu như ở Hội nghị Trung ương 24, ông Lê Duẩn còn thấy phải thận trọng khi áp dụng mô hình miền Bắc vào miền Nam, thì ở Hội Nghị Trung ương 25, tháng 9- 1976, ông nói: “Ta có thể đem những hiểu biết (hợp tác xã ở miền Bắc) ấy vào làm ở miền Nam, làm trên cả 500 huyện trong cả nước để trong vòng năm năm tới,
nông nghiệp cả nước sẽ lên chủ nghĩa xã hội như nhau”439. Ý tưởng của Tổng Bí thư Lê Duẩn về “pháo đài huyện” ngay lập tức trở thành đề tài nóng bỏng của cả bộ
máy tuyên truyền, các địa phương đua nhau đi tiên phong. Nhiều nơi đòi “thay trời đổi đất, sắp đặt lại giang san”440. Ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh441, chính quyền quyết định xóa bỏ làng xóm cổ truyền, đốn bỏ vườn cây ăn trái từ hàng trăm năm, dời các hộ nông dân lên đồi cao, để thổ cư cũ biến thành ruộng lúa442…

Cùng với mô hình kinh tế, bộ óc “200 bougies” của ông Lê Duẩn còn sáng tạo ra

mô hình chính trị “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, và sáng tạo ra mô hình “làm chủ tập thể”. Cho dù các nhà lý luận hàng đầu trong Đảng lúc
ấy cũng không hiểu Tổng Bí thư Lê Duẩn thực sự nói gì443, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, làm chủ tập thể trở thành một môn học học bắt buộc trong các nhà trường.
Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể”444.
Đúng như ông Đậu Ngọc Xuân nhìn nhận, “phải sáng tạo lắm mới thoát ra khỏi

sự giáo điều”. Mà muốn sáng tạo thì cũng phải dựa trên khả năng tư duy của những con người cụ thể. Lê Duẩn vào thời điểm ấy cho dù vẫn cháy bỏng những khát khao cũng không tránh khỏi những hạn chế về học vấn và sức khỏe.


Từ đầu thập niên 1970, bệnh tiền liệt tuyến đã khiến cho Lê Duẩn không có một

đêm nào ngủ yên445 và không còn khả năng lắng nghe446. Ông Nguyễn Văn Trân447 nhận xét: “Anh Lê Duẩn có thói quen hay cắt lời người khác. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, họp Ban Bí thư có khi anh nói gần suốt cả buổi, không mấy ai còn thời giờ nói ý của mình”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Anh Ba là một con người giàu


tình cảm cách mạng, có khi sôi nổi. Do đó, một mặt thì dễ gần gũi với cán bộ, quần chúng mặt khác lại có những phản ứng quá mức đối với những ý kiến khác mình. Điều đó đã hạn chế không khí dân chủ trong nội bộ, nhất là về những năm cuối đời”448.
Lê Duẩn từng nhắc nhở thuộc cấp tránh hiện tượng “đảng là của tôi, nhà nước là của tôi, của một người”449. Nhưng ông đã không nhận thấy chính mô hình chính trị mà ông đặt ra đã mắc phải những gì mà ông cảnh báo: từ chỗ còn “có cái phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc”450 đến chỗ đối với những ý kiến khác, chỉ còn chuyên chính. Năm 1976, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố: “Chế độ ta là chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết là đường lối của giai cấp vô sản… Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân
nhượng với ai, chia sẻ với ai và không hợp tác với ai… Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bắt”451.



tải về 197.76 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương