Bán nguyệt san – Số 313 – Chúa nhật 05. 11. 2017


TIẾN TRÌNH ƠN GỌI NĂM BƯỚC (tiếp theo)



tải về 1.11 Mb.
trang6/8
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích1.11 Mb.
#34875
1   2   3   4   5   6   7   8


TIẾN TRÌNH ƠN GỌI NĂM BƯỚC (tiếp theo)




Xin lưu ý: Quý vị có thể yêu cầu BBT gởi trọn file tài liệu này:


Ban Triết Học và Tu Đức ĐCV. Xuân Lộc

Tĩnh Tâm Năm 30/9-5/10/2017
Lm. Micae Phaolô Trần Minh Huy, pss.

Phần Một
MỤC TIÊU HƯỚNG TỚI
TIẾN TRÌNH ƠN GỌI NĂM BƯỚC

(Tiếp theo)

Eph 4, 17-24: “Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát. Họ đã mất ý thức nên đã buông thả, sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”.
3. Bước thứ ba:

CAM KẾT THEO CHÚA KITÔ TOÀN THỂ

Chúa Giêsu đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con và sai các con ra đi…”28. Như thế, mỗi người chúng ta phải khẳng định rằng mình theo chính Chúa Kitô chứ không phải theo ai khác, và đặt Chúa Kitô ở trung tâm của tất cả mọi sự. Cứ luôn bám chặt vào Chúa, chúng ta sẽ nhận được một sức mạnh kỳ diệu nâng đỡ mà Thánh Phaolô xác quyết là “chính Chúa Kitô sống trong tôi29
Quả vậy, chúng ta cam kết đi theo chính Chúa Kitô, và là Chúa Kitô toàn thể, nghĩa là Chúa Kitô vinh hiển của núi Taborê cũng như Chúa Kitô khổ nạn của đồi Golgotha, dù gặp hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa: được hiểu hay không được hiểu, được ủng hộ hay bị chống đối, vui hay buồn, sướng hay khổ, thành công hay thất bại. Nếu gặp được Bề trên, các cha giáo và anh em cảm thông nâng đỡ, thì con đường vác thập giá đi theo Chúa được nhẹ nhàng hơn, còn nếu gặp phải người thiếu thông cảm hay quá khó thì con đường thập giá theo Chúa sẽ nặng nề hơn, nhưng vẫn quyết tâm đi tới, không hề bỏ cuộc, “biết rằng đời hiểu hay không, uống cho bằng cạn chén hồng Chúa trao, thương ai Chúa mới gọi vào, kèm trong thử thách dạt dào đỡ nâng”, bởi vì nếu cố tìm Chúa Giêsu không có thánh giá thì chúng ta sẽ có nguy cơ gặp phải thánh giá mà không có Chúa Giêsu.
Các động lực ơn gọi

Để hiểu được tính cách và tầm quan trọng của cam kết này, chúng ta phải xét đến các động lực ơn gọi. Đúng vậy, đàng sau mọi quyết định và hành động đều có một hay nhiều động lực ẩn khuất tác động. Chúng ta cần một không gian và thời gian để xem xét, làm sáng tỏ và thanh luyện các động lực của mình. Có thế thì việc đáp trả lời mời gọi và cam kết theo Chúa mới bền vững trong tin yêu và quảng đại. Công cuộc đào tạo ở Chủng viện, đặc biệt việc đồng hành thiêng liêng và linh hướng sẽ đóng góp vào việc nhận diện và thanh lọc các động lực ấy.


Có những động lực ý thức, như lòng khao khát theo Chúa để phục vụ Chúa và các linh hồn, làm việc tông đồ, có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện, v.v... Có những động lực vô thứcnhằmtìm kiếm thỏa mãn các nhu cầu đã không được thỏa mãn trong thời niên thiếu, hoặc do ảnh hưởng của người khác can thiệp vào, khao khát cuộc sống được bảo đảm, khao khát được nhận biết, được chú ý, được đón nhận; khao khát được kiện toàn, được chu toàn một lời hứa khi nhỏ, được thoát khỏi nghèo khổ, thoát khỏi đời sống gia đình bất hạnh, tìm kiếm đặc ân, thoả mãn tham vọng của cha mẹ, v.v... Các động lực ấy chẳng phải là tội, nhưng chúng bộc lộ những thiếu sót làm lệch lạc con đường ơn gọi đích thực cần phải loại bỏ dần dần.
Các ý hướng theo đuổi ơn gọi

Để tăng cường sự phát triển trưởng thành nhân bản và thiêng liêng, chúng ta cần phải trung thực đối mặt gọi tên và loại bỏ hay biến đổi uốn nắn các động lực và ý hướng không thích hợp. Có bốn loại ý hướng:



Ý hướng cam kết cung ứng khả năng đáp lại tiếng Chúa gọi, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Đây là ý hướng lý tưởng của người tương đối trưởng thành theo ơn gọi.

Ý hướng phận vụ thường bị giằng co giữa việc tìm kiện toàn chính mình và sự sẵn sàng dâng hiến bản thân mình. Tính lưỡng diện này tỏ lộ sự thiếu tự do và thiếu trưởng thành, cần một sự phân định cẩn thận.

Ý hướng địa vị tìm thăng tiến bản thân để che lấp sự bất ổn căn bản trong đời sống của mình, hay vì ước muốn và tham vọng của người khác coi đời tu là một thăng tiến xã hội, như hoài bão của cha mẹ họ hàng chẳng hạn (ông bà cố, một người làm quan cả họ được nhờ).

Ý hướng trốn thoát nhằm tìm kiếm sự che chở từ cuộc sống tu trì, muốn tránh những phiền toái rắc rối của đời sống hôn nhân gia đình, dù rằng vẫn chịu sự lôi cuốn. Tính nhập nhằng này có thể được quan sát thấy cách dễ dàng trong thái độ lẫn cách ứng xử.
Người có ý hướng địa vị và trốn thoát thường không có ơn gọi đích thực, bởi vì thiếu trưởng thành nhân cách và sẽ dễ dàng từ bỏ hoặc phản bội sứ vụ căn bản của mình. Chúng ta cần phải ý thức về nhiều nhân tố trong động lực ơn gọi của mình và phân tích những đường lối dấn thân phục vụ tha nhân, bao gồm cả việc trung thành với lời cam kết của mình. Nhiệm vụ của vị hướng dẫn ơn gọi thật là quan trọng. Người giúp ứng sinh ý thức rõ nhiều động lực đang có mặt và sự xung khắc giữa các động lực ấy để giải quyết chúng. Động lực nào phù hợp với đời tu sẽ được sử dụng để thăng tiến. Động lực nào không phù hợp với đời tu thì phải loại bỏ hay biến đổi. Nếu không thể nào thay đổi được, ứng sinh nên tìm một cuộc sống ở nơi nào khác thì tốt hơn là theo đuổi đời sống hướng tới chức linh mục.
Biết mình để lượng sức

Để sống cao độ sự cam kết này, ứng sinh cần phải tự biết mình. Ở cửa đền Alphê, Socrate cho khắc chữ “Hãy tự biết mình.” Còn Thánh Augustinô thì cầu nguyện mỗi ngày “xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Tự biết mình là yếu tố rất quan trọng để đạt được trưởng thành. Ứng sinh phải cố gắng hiểu được mình là ai, đang ở đâu trong tiến trình tu luyện, với tất cả những điểm mạnh và những điểm yếu của mình, để không tự tôn bằng sự phòng vệ coi mình là trung tâm điểm hoặc tự ti và quá lệ thuộc vào người khác. Hẳn các nhà đào tạo cũng biết ứng sinh đang ở giai đoạn nào trong tiến trình ấy, để nhẫn nại dẫn dắt, không đốt giai đoạn, kẻo đốt giai đoạn là đốt cháy cả một đời người.


Trong bước theo Chúa Kitô toàn thể này, sự qui chiếu về Chúa Giêsu phải là tuyệt đối. Dostoievski xác tín:“Tôi tin rằng không có gì đẹp hơn, không có gì sâu xa hơn, không có gì thiện cảm hơn, không có gì hữu lý hơn, không có gì mạnh mẽ hơn, và không có gì hoàn hảo hơn Chúa Kitô”.
Còn Thánh Patrice thì nói cách mạnh mẽ: “Chúa Kitô ở với tôi, Chúa Kitô ở trong tôi, Chúa Kitô ở sau lưng tôi, Chúa Kitô ở trước mặt tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi, Chúa Kitô đến nắm tay tôi, Chúa Kitô đến an ủi tôi, Chúa Kitô đến bổ sức cho tôi, Chúa Kitô ở dưới chân tôi, Chúa Kitô ở trên đầu tôi, Chúa Kitô ở trong sự bình tâm, Chúa Kitô ở trong hiểm nguy, Chúa Kitô ở trong trái tim của những người yêu mến tôi. Chúa Kitô ở nơi môi miệng của bạn hữu cũng như của người xa lạ.”
Đi xa hơn, Thánh Vinh sơn đệ Phaolô khuyên: “Bạn hãy nhớ rằng chúng ta sống trong Chúa Kitô nhờ cái chết của Chúa Kitô, và chúng ta phải chết trong Chúa Kitô để được sự sống của Chúa Kitô, đời sống chúng ta phải được giấu ẩn trong Chúa Kitô và tràn đầy Chúa Kitô, và để rồi nếu muốn được chết như Chúa Kitô thì phải sống như Chúa Kitô.”
Còn Thánh Gioan Tiền Hô ước muốn “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải bé đi”, và Thánh Phaolô xác tín: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi.” - “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi30.
Cầu mong cho mỗi người chúng ta ngày càng cam kết đi theo chính Chúa Kitô toàn thể, và có thể nói được cùng với Thánh Phaolô: “Ai có thể tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta31.
Tuy nhiên chúng ta vẫn phải luôn cảnh giác, vì trong thực tế, rất nhiều lần chúng ta đã để một ai đó hay một cái gì đó tách biệt Chúa Giêsu ra khỏi tình yêu và cuộc đời của chúng ta, cho dù không hề có cái gì tách biệt chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Giêsu: chúng ta có thế nào đi nữa thì Ngài vẫn hằng thương yêu chúng ta, và thương yêu chúng ta cho đến cùng.
4. Bước thứ tư: BIẾN ĐỔI VÀ ĐIỀU CHỈNH DẦN DẦN CUỘC SỐNG

Cái gì cũng có thời gian của nó, không dễ gì mà một sớm một chiều đã đạt được mục tiêu. Vì thế tiến trình tu - sửa phải được khởi sự ngay, không chậm trễ, nhưng cần dần dần biến đổi và điều chỉnh cuộc sống mình cho phù hợp với đời sống ơn gọi linh mục. Mỗi người chúng ta đều ý thức rõ nơi mình có nhiều động lực đang có mặt và sự xung khắc giữa các động lực ấy. Chúng ta phải giải quyết chúng: Động lực nào phù hợp với chức linh mục sẽ được vun trồng thăng tiến; động lực nào không phù hợp phải loại bỏ hay biến đổi.


Về sự dần dần biến đổi, chúng ta liên tưởng đến việc Chúa Giêsu đổi tên cho ông Simon thành Kêpha, nghĩa là Đá Tảng32. Đổi tên là đổi con người, đổi cách sống, cách làm việc, cách suy nghĩ, cách đối xử và yêu thương. Cuộc sống của chúng ta sẽ phải từ từ được biến đổi: từ từ sống khác đi, không còn như cuộc sống đã từng sống trước đây nữa, khi còn là một thanh niên đời thường. Con người trần tục sẽ dần dần chết đi để con người thiêng liêng không ngừng được triển nở và lớn lên trong chúng ta.
Tại căn phòng mà Thánh Phanxicô Khó Khăn đã cởi bỏ y phục đặt dưới chân thân phụ trả lại cho cha, từ bỏ đời sống sang giàu và gia tài mình sẽ được hưởng để hiến thân cho Thiên Chúa, ĐTC Phanxicô kêu gọi mọi thành phần Hội Thánh trút bỏ tinh thần thế tục đang làm hại bản thân, đang tiêu diệt Hội Thánh.33 Nói như Thánh Phaolô là phải cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới, ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, đến độ “tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Biến đổi là chia cắt với cái đi trước, nghĩa là chúng ta từ bỏ một cách sống, một cách hiểu biết đối với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình và với tha nhân, tức là con người trần thế bấy lâu nay của mình. Thánh Phaolô khuyên “quên hẳn đàng sau, nhắm thẳng phía trước mà chạy tới”. Mở ra với những gì đang đến, nghĩa là một hiện hữu mới, một ý nghĩa độc đáo và bất ngờ đối với cái đi trước. Như thế, sự trở thành ứng sinh linh mục mở đường vào cuộc sống mới, như là một sự xé rách, một thứ cái chết, nhưng rách để lành, chết để sống; đó là một thứ biến đổi tận căn, một mất một còn trong ý nghĩa một cuộc tái sinh.
Dường như có một đổ vỡ giữa cuộc sống của người thanh niên bình thường và cuộc sống của ứng sinh linh mục. Thật thế, khi chúng ta bước vào đời ứng sinh linh mục, chúng ta dường như không còn sống như một thanh niên bình thường nữa, mà sống như một con người thiêng liêng thuộc về Thiên Chúa, dù vẫn còn có đó con người trần tục trong chính mình. Tính lưỡng diện này vẫn tồn tại lâu dài, có khi suốt cả cuộc đời, trải qua những chiến đấu, dòn mỏng, với thành công và thất bại như Nguyễn Bá Học nói: “Ai từng chiến thắng mà không hề chiến bại? Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần? Nhưng đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!” Nhưng người ta thường nói “thất bại là mẹ thành công”: chính từ khi thú nhận thất bại trong việc đánh cá suốt đêm không bắt được con nào, nhưng khi vâng lời Chúa Giêsu mà thả lưới, Phêrô bắt được mẻ cá lạ lùng khiến ông tin tưởng theo Chúa, trở nên vị tông đồ cả của Chúa.
Chúng ta có thể nhìn kinh nghiệm đổ vỡ này qua hình ảnh Abraham vâng lời Thiên Chúa ra đi, cắt đứt mọi mối quan hệ cộng đồng và yêu thương với gia đình, với đồng bào và thiên nhiên, rời bỏ quê hương để đi đến một quê hương mới Thiên Chúa sẽ chỉ cho, trở thành thủ lãnh và cha một dân tộc đông đảo như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển của những kẻ tin. Như thế, hành trình theo ơn gọi bẻ gãy một nền nếp cuộc đời, ghi khắc một đổ vỡ và thay đổi các giá trị vốn có. Sự đoạn tuyệt đó mở ra một cánh cửa khác, hãy tiến lên và sáng tạo chương tiếp theo của cuộc đời, như thánh Phaolô chia sẻ: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi thì nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người34.
Trong hành trình biển đổi và điều chỉnh này, ứng sinh không sợ nói lên kinh nghiệm bản thân với các nhà đào tạo, nhất là với vị linh hướng, để có được sự thanh tẩy cần thiết hầu đi vào hành trình thiêng liêng, hướng tới đời sống linh mục. Muốn thế, cần có sự tín nhiệm lẫn nhau thực sự trong tương quan linh hướng, một tương quan tay ba khép kín giữa Chúa Thánh Thần, người thụ hướng và vị linh hướng. Điều quan trọng trong hành trình này là có nơi mỗi người một biến cố lịch sử đánh dấu thời khắc trở thành ứng sinh, và thời khắc đó đánh dấu một bước ngoặt đổi đời trong tất cả công cuộc tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa, như biến cố ngã ngựa của Saolô trên đường Đamas chẳng hạn.
Sự kiện người đi tu xem ra hiện hữu tách biệt với người đời khiến người ta than phiền đi tu là cắt khỏi cuộc sống (xuất thế). Nhưng một cách nào đó đời tu rồi sẽ trả lại sự chia tách này (nhập thế,, đi làm mục vụ trong thế gian) và sự khác biệt giữa tu và không tu là sống một cách khác hợp với chọn lựa của đời mình: “Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó35.
Đổ vỡ này đánh dấu sự khởi đầu của cuộc đời, khiến tu và không tu có sự mâu thuẫn được coi như một sự giết chết: giết chết cái chất trần tục trong con người mình, để cuối cùng được sinh ra trong sự thánh thiêng của con người tu “mặc lấy con người mới đã được Chúa Kitô biến đổi, vì phàm ai ở trong Chúa Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi và cái mới đã có đây rồi” như thánh Phaolô nói36.
Thánh Basiliô Cả biện giải: “Trước khi bắt đầu đời sống mới, bạn phải chấm dứt đời sống cũ. Cũng như những người đã chạy hết một quãng đường mà muốn quay trở lại phải dừng chân và nghỉ ngơi cách nào đó trước khi chuyển hướng ngược lại, thì trong việc đổi đời cũng vậy, xem ra cần phải chết cách nào đó giữa đời sống trước và đời sống sau, vừa chấm dứt những gì thuộc về trước vừa bắt đầu những gì thuộc về sau37.
Trong sự thay đổi đó, tinh thần theo Chúa Kitô phải là chủ đạo: thay đổi con tim, tâm thức, lối sống và cuộc sống. Luật của sự sống và sinh trưởng là thay đổi, và mỗi chặng đường sinh trưởng của con người đều được ghi dấu bằng những thay đổi quyết định, đòi hỏi sự hợp tác giữa được đào tạo và tự đào tạo dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Quả thế, ai ai cũng nhận thấy rằng tự thay đổi bản thân thì dễ hơn là thay đổi người khác, đồng thời nên thay đổi trước khi bị bó buộc phải thay đổi, kẻo không còn kịp nữa, vì một khi đã bị định kiến rồi thì thật vô phương cứu chữa! Công cuộc đào tạo đích thực phải vượt quá và loại trừ sự định kiến này.
Vậy phải xin ơn cương quyết thay đổi cái có thể thay đổi, can đảm chấp nhận cái không thể thay đổi và ơn khôn ngoan để biết phân biệt cái có thể thay đổi và cái không thể thay đổi (chấp nhận có tật thì có tài, trâu hay có chứng). Muốn cho việc hướng tới đời sống mới này thành công, chúng ta phải đặt mình trong tay Chúa, như cây viết chì trong tay nghệ sĩ, vì “không có Thầy các con chẳng làm được gì hết”, nhưng “với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể.”
ĐTC Phanxicô nói đến cái nhìn của Chúa Giêsu làm biến đổi cuộc đời của ông thu thuế Lêvi, và của chúng ta nữa, nếu chúng ta chịu để cho Ngài nhìn chúng ta và được tự do làm công việc của Ngài: “Khi Chúa Giêsu nhìn Matthêu, cái nhìn đó đã chiếm lấy ông hoàn toàn và đã thay đổi cuộc sống của ông. Cái nhìn của Chúa Giêsu luôn làm cho ta trở nên xứng đáng, trao ban cho ta phẩm giá. Đó là một cái nhìn rộng lượng”, cho ta lòng can đảm để đi theo Ngài.
Cái nhìn của Chúa Giêsu luôn nâng chúng ta dậy, không bao giờ để ta lại tại chỗ của mình, không bao giờ hạ ta xuống, không bao giờ làm nhục. Nó mời gọi và khích lệ chúng ta đứng dậy, lớn lên, tiến về phía trước. Cái nhìn của Chúa Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy rằng Ngài yêu thương chúng ta. Đó là tình yêu mà “những người thu thuế và tội lỗi” như Matthêu đã trải nghiệm: “Họ cảm thấy rằng Chúa Giêsu đã nhìn họ và cái nhìn của Chúa Giêsu trên họ giống như một hơi thở trên than hồng, và họ cảm thấy như có lửa trong bụng. Chúa Giêsu làm cho họ đứng lên, trả lại cho họ phẩm giá. Ngài biết rõ lòng họ: Bên dưới bùn đất đó có than hồng khao khát Thiên Chúa, muốn được cháy nóng trở lại. Đó là những gì cái nhìn của Chúa Giêsu thực hiện. Chúng ta tiến lên phía trước trong cuộc sống, trong niềm xác tín rằng Ngài nhìn chúng ta, chờ đợi chúng ta. Ước gì cái nhìn của Chúa Giêsu trên cuộc đời chúng ta sẽ là mãi mãi, là đời đời38.
Lượng lấy sức mình

Chúng ta đã theo ơn gọi đến giờ này, các suy nghĩ, hành động, cách sống và cuộc sống của chúng ta có được biến đổi và điều chỉnh phù hợp với đời sống ơn gọi không? Thích làm linh mục là một chuyện, nhưng có phù hợp với đời sống linh mục hay không lại là một chuyện khác. Những điều kiện bên ngoài, những điều kiện tự nhiên (sức khoẻ, tính tình, trí khôn, khả năng) và những điều kiện tinh thần và thiêng liêng (tinh thần tự hiến, tinh thần trách nhiệm, tinh thần và đời sống thiêng liêng, tinh thần đức tin, tinh thần cộng tác, tinh thần vâng phục, tinh thần nghèo khó, khả năng sống độc thân thanh khiết, tinh thần phụng vụ, tinh thần mục vụ, tinh thần lao động chân tay và trí óc) của chúng ta có phù hợp với đời sống linh mục không?


Tin tưởng vào lòng thương tha thứ của Chúa

Hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa và hãy lạc quan. Đừng quá chú trọng vào lầm lỗi, nhưng hãy chú trọng đến bài học từ lầm lỗi để rút kinh nghiệm mà không lầm lỗi nữa. Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Tội con đã được tha, hãy về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa.” Đừng thất vọng về lỗi lầm quá khứ của mình và của anh em. Hãy xem cách xử sự của Chúa Giêsu: Ngài tha thứ, tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, Ngài vẫn tín nhiệm trao cho Phêrô trách nhiệm làm đầu Giáo hội và cho Mađalêna làm sứ giả Tin Mừng Phục sinh. Quả thật “Bản chất của con người là lầm lỗi và bản chất của Thiên Chúa là tha thứ. Và tội thì tha, lỗi thì sửa; mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai; lỗi một thời chứ không lỗi suốt đời”.
ĐTC Phanxicô mô tả Thánh Phêrô là một tội nhân, có nhiều khuyết điểm, nhưng biết tự hạ để được Chúa Kitô dẫn dắt tiến lên phía trước. Ngài mời gọi chúng ta noi gương Thánh Phêrô, bằng cách nhận ra lỗi lầm và mở lòng ra cho Chúa dẫn dắt: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mẫu gương của Thánh Phêrô có thể giúp chúng ta hướng về phía trước. Xin cho điều đó làm cho chúng ta tìm kiếm Chúa và tìm gặp được Chúa, để Chúa tìm thấy chính chúng ta. Chúa luôn luôn ở đó, gần gũi chúng ta, tìm kiếm chúng ta. Nhưng đôi khi chúng ta nhìn theo hướng khác vì chúng ta không muốn nói chuyện với Chúa hoặc không muốn để cho Chúa tìm thấy chúng ta39.
Bí tích Giải tội hữu hiệu hóa cuộc đổi đời

Có sự biến đổi nào hữu hiệu và sâu xa cho bằng sự biến đổi của Bí tích Giải Tội? Qua Bí tích Giải tội, ơn Chúa biến tội nhân thành thánh nhân, biến một con người cũ thành một con người mới hoàn toàn, vì Chúa tha thứ và xóa bỏ sạch hết mọi lỗi lầm.


Tính triệt để của Bí tích Giải tội

Trong hoạt động Tòa Trong về mặt tâm lý, Chủng viện có thể gửi ứng sinh đến với một chuyên gia tâm lý. Vị chuyên gia này với các kỹ năng đặc biệt có thể giúp ứng sinh bộc lộ đến tận những tầng sâu kín của cuộc đời mình mà anh không thể nói với cả vị linh hướng của mình. Nhưng để được chữa lành trọn vẹn, vị chuyên gia tâm lý phải gửi trả lại ứng sinh cho hoạt động của Tòa Trong. Điều đó nói lên giá trị và hiệu quả của Bí tích Giải tội. Chúng ta cảm tạ Chúa và Mẹ Hội Thánh về điều này, đồng thời nỗ lực học hiểu và sử dụng cho nên Bí tích này. ĐTC Biển Đức XVI khẳng định: “bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu từ trong một tòa giải tội!”40


Bản chất con người là lầm lỗi, bản chất Thiên Chúa là tha thứ, không có tội gì nặng quá đỗi mà Thiên Chúa không thể tha thứ được, nếu ta thực sự ăn năn trở về đón nhận ơn tha thứ của Chúa: tội thì tha lỗi thì sửa, mỗi vị thánh đều có một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai...Hãy tin tưởng vào sự biến đổi tốt đẹp trong tương lai, nhờ ơn Chúa, với cố gắng bản thân và sự giúp đỡ của kẻ khác41. ĐTC Phanxicô “kêu gọi mọi người không bao giờ mất hy vọng và khích lệ linh mục, giám mục hãy ôm lấy các tội nhân và tỏ lòng thương xót họ, vì Thiên Chúa không mệt mỏi để tha thứ42.

Khi nhắm đến tác dụng hiệu quả của Bí tích Giải tội, ĐTC Biển Đức XVI nhấn mạnh tới sự cần thiết phải mở ra một cuộc “đối thoại cứu độ”. Cuộc đối thoại giữa hối nhân và cha giải tội làm cho việc cử hành Bí tích đáp ứng sít sao hơn với mọi tình huống cụ thể của hối nhân, như nhu cầu hòa giải cá nhân và tái nhập vào tình bằng hữu với Chúa; nhu cầu tìm kiếm sự tiến bộ thiêng liêng; cần một sự biện phân thích đáng hơn về ơn gọi; khao khát thoát khỏi tình trạng hờ hững thiêng liêng và khủng hoảng đời tu. Nhờ những đặc tính cá nhân đó, hình thức cử hành này có thể liên kết với việc linh hướng.
Nhưng trong cuộc đối thoại này phải tránh đề cập trực tiếp đến đệ tam nhân; phải rất cẩn thận và tế nhị trong các câu hỏi và trả lời để vừa bảo đảm được tính cách riêng tư của hối nhân, vừa tránh nguy cơ tố cáo người thứ ba. Cuộc đối thoại tế nhị này sẽ giúp làm sáng tỏ các yếu tố cần thiết hầu có biện pháp và lời khuyên thích ứng giúp hối nhân thay đổi lật sang một trang mới của cuộc đời mà trở nên tốt hơn. Chính vị linh mục cũng được khích lệ rất nhiều trong một kinh nghiệm như thế, nhờ đó ngài có khả năng giúp đỡ những người khác cách hữu hiệu. Chúng ta hãy đối xử với linh mục cũng giống như với bác sĩ: chúng ta khai với bác sĩ từng chi tiết triệu chứng bệnh để bác sĩ biết mà chữa tốt hơn cho chúng ta. Chúng ta tin tưởng ở ông, làm theo lời ông dặn dò và sẽ khỏe hơn! Chúng ta cũng nên nhớ rằng ông đã thấy nhiều bệnh nhân có triệu chứng giống chúng ta và ngược lại. Nếu chân thành nói hết với cha giải tội, ngài sẽ chia sẻ với chúng ta, còn nếu giấu diếm thì chúng ta sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm với Chúa và lương tâm mình.
Bí tích Giải tội giúp thay đổi trí não và con tim chúng ta. Chúa luôn đổi mới lời mời gọi của Ngài, xuyên qua Phúc Âm, các dấu chỉ thời đại, các biến cố thăng trầm của cuộc sống mỗi ngày, thì chúng ta cũng phải đổi mới lời đáp trả của mình cho tương xứng. Mọi việc Chúa làm đều mang dấu ấn của thay đổi và qua những thay đổi ấy, chúng ta được tái sinh, được tồn tại, ngày một tích cực hơn, thánh thiện hơn, nhờ giết chết cái chất trần tục quá khứ và lớn lên trong con người tu đích thực: thay đổi con tim, thay đổi tâm thức, thay đổi lối sống và cuộc sống43.
Cuộc sinh tồn của Chim phượng hoàng

Về tính biến đổi triệt để của Bí tích Giải Tội, chúng ta có bài học sinh tồn của loài chim phượng hoàng: Phượng hoàng sống lâu nhất trong các loài chim. Nó có thể sống tới 70 năm. Nhưng để tồn tại, nó phải lấy một quyết định sinh tử vào tuổi 40. Lúc đó, các móng vuốt của nó bị yếu đi, mõm nó mọc dài và cong gần chạm tới ngực, đôi cánh trở nên nặng nề vì những chiếc lông cánh to và dài, rất khó bắt được mồi. Nó phải chọn một trong hai: hoặc chết đói, hoặc phải trải qua một cuộc biến đổi đau đớn. Nó phải bay lên chót vót núi, xây tổ ở đó và nghỉ ngơi trong năm tháng. Bền vững và kiên định, nó phải va mạnh cái mõm vào đá cho đến khi nó rụng đi, và nhẫn nại đợi chờ cái mõm mới mọc ra. Rồi nó sẽ dùng cái mõm mới để gỡ đi các móng vuốt cũ. Và với những chiếc vuốt mới mọc, nó sẽ rỉa đi các lông cánh cũ. Năm tháng sau, với những lông cánh mới, mõm và vuốt mới, phượng hoàng sẽ bay trở lại để săn mồi. Nhờ đó nó lấy lại sức mạnh mới cho 30 năm khác nữa.


Dù muốn “không bao giờ đổi thay” với Chúa, đôi khi trong cuộc sống, chúng ta cũng bị “trục trặc” và phải lấy những quyết định khó khăn, “vì cây muốn lặng mà gió không ngừng” hay “dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, để “bắt đầu, lại bắt đầu” một hành trình mới trên con đường đã chọn.
Nếu đánh ngã được cái tôi cũ, hăm hở thu thập những kỹ năng mới, chúng ta sẽ có thể khảo sát được những tài năng chưa được khám phá ở trong chúng ta để lượng sức đi tới hay đổi hướng. Nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần làm phát sinh những nghị lực mới để chúng ta tiếp tục hành trình ơn gọi của mình. Quên hẳn đàng sau, cứ nhắm phía trước mà tiến bước một cách tốt đẹp hơn: “Những ai cậy trông vào Chúa sẽ được thêm sức mạnh, như thể phượng hoàng, họ tung cánh bay, họ chạy hoài mà không mỏi mệt và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40,31).


VỀ MỤC LỤC



Ý NGHĨA CỦA TÊN GỌI VIỆT NAM VÀ ĐỊNH HƯỚNG VĂN HÓA

        





HẠT NẮNG

 

Nguyễn Đăng Trúc



Reichstett, Pháp

 

 



  1. Ý nghĩa của tên gọi Việt Nam

 

 

Khi nêu lên câu hỏi ý nghĩa tên gọi Việt-Nam, tên gọi của quốc gia chúng ta hôm nay, hẳn nhiên cần phải ghi nhận những sự kiện lịch sử khách quan liên hệ đến việc chọn lựa danh hiệu nầy. Nhưng, trong khuôn khổ chuyên môn nghiên cứu của tôi, tôi không đủ khả năng để đi sâu vào những chi tiết có tính cách thuần lịch sử. Thật  đáng tiếc!



 

Tuy nhiên, khi nghiên cứu về  văn hóa Việt-nam, tôi có đọc được một bản văn mà tôi đánh giá là có giá trị văn hiến làm nền cho tư tưởng truyền thống dân tộc -  Truyện  Họ Hồng Bàng trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính và xuất bản vào mùa thu năm 1492 -, và truy tìm được nghĩa của hai từ ViệtNam trong khuôn khổ văn hóa tư tưởng mà bản văn nầy muốn chuyển tải.

 

Trong truyện Họ Hồng Bàng nầy, câu kết tóm gọn như sau :



 

Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy .

 

Muốn hiểu hai chữ Nam Việt trong câu nầy, dĩ nhiên chúng ta cần đọc nguyên bản văn để nắm bắt được lý do tại sao hai chữ ấy có thể thu tóm ý nền tảng tư tưởng mà « bản văn Sáng Thế »  ấy muốn chuyển đạt.



 

(Tôi đã cố gắng minh giải bản văn trên đây trong chương III cuốn Văn Hiến, Nền Tảng Của Minh Triết do Định Hướng xb. năm 1997. Để trình bày tiếp câu hỏi về ý nghĩa tên Việt Nam ở đãy, tôi chỉ gói gọn ý kiến của mình trong khuôn khổ bản văn truyện Họ Hồng Bàng trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái doVũ Quỳnh hiệu chính.)


 

a/  Bối cảnh chung


 

  • Chúng ta xác định được là hai chữ ViệtNam đã được nhắc đến trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính năm 1492.

 

  • Hai chữ ấy được nêu lên cô động toàn ý nghĩa truyện Họ Hồng Bàng. Truyện nầy lại là truyện đầu cuốn sách : nó vừa trình bày nội dung tổng quát của sách (các truyện tiếp theo chỉ là phần khai triển chương nầy),  vừa nói lên một nội dung duy nhất và nền tảng cho văn hóa đó là VẤN ĐỀ Ý NGHĨA CỦA NHÂN TÍNH. Trong bối cảnh văn chương đặc loại như thế, chữ VIỆT và NAM phải được hiểu trong khuôn khổ của vấn nạn duy nhất ấy.

 

  • Hai sự kiện khác nữa cần lưu ý nữa đó là lối hành văn đặc biệt của các bản văn văn hóa cổ nói chung và đặc biệt của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái :

 


  • Một là lối nói thi ca và tượng trưng : các chữ dùng chỉ nhằm nói đến một nội dung duy nhất là con người  những yếu tố hình thành, những chiều kích sinh hoạt của nó ; nhưng nội dung đặc lại nầy được diễn tả qua những hình ảnh của những vật thể khác trong vũ trụ. Riêng đối với cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, phần lớn các tên gọi lại là hán việt ; do đó không những phải lưu ý âm hưởng thi ca của tên gọi, mà còn cần lưu ý âm hưởng thi ca của tên gọi đó trong bối cảnh của văn hóa Á Đông nữa.

 


  • Riêng đối với câu hỏi của chúng ta về ý nghĩa tên Việt Nam, thì vấn đề lại khó khăn hơn. Chữ ý nghĩa, tiếng Pháp là signification hàm ngụ sự hiểu biết của trí khôn con người khi đo lường một sự vật. Nó thuộc lãnh vực lý thuyết khách quan. Trái lại, nghĩa của hai chữ Việt Nam mà tác giả Vũ Quỳnh nêu lên trong khuôn khổ cuốn Lĩnh Nam Chích Quái không phải là ý nghĩa của một vật thể mà các bộ môn khoa học ngày nay truy tìm. Nghĩa của hai chữ Việt Nam phải được hiểu là phân vụ phải chu toàn, như khi ta nói nghĩa làm người hoặc là đạo làm người. Chữ nghĩa nầy chỉ áp dụng cho vấn nạn về con người : trong ngôn ngữ dân gian, chúng ta thường nói  nghĩa vợ chồng, nghĩa làm con hay đạo làm chồng, đạo làm con…... chẳng hạn. Liên quan đến nghĩa của nội dung cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, tác giả là Vũ Quỳnh đã viết rõ như thế nầy trong lời tựa :

Than-ôi! Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?

 

b/ Chữ Nam trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái


 

( Trích bản văn)

 

Đế-Minh lập Đế-Nghi làm tự-quân cai-trị phương Bắc, phong Lộc-Tục làm Kinh-Dương-Vương cai-trị phương Nam, đặt quốc-hiệu là Xích-Quỉ-Quốc.

 

Kinh-Dương-Vương xuống Thủy-phủ, cưới con gái vua Động-Đình là Long-Nữ, sinh ra Sùng-Lãm tức là Lạc-Long-Quân; Lạc-Long-Quân thay cha để trị nước, còn Kinh-Dương-Vương thì không biết đi đâu.

(…)

Đế-Nghi truyền ngôi cho Đế-Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên-hạ vô-sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế-Minh nam-tuần gặp được tiên-nữ. Đế-Lai bèn khiến Xi-Vưu tác-chủ quốc-sự mà nam-tuần qua nước Xích-Quỉ, thấy Long-Quân đã về Thủy-phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu-Cơ cùng với bộ-chúng thị-thiếp ở lại hành-tại. Đế-Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình-thế, trông thấy kỳ-hoa dị-thảo, trân-cầm dị-thú, tê-tượng, đồi-mồi, kim-ngân, châu-ngọc, hồ-tiêu, nhũ-hương, trầm-đàn, các loại sơn-hào hải-vị không thứ nào là không có; khí-hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế-Lai ái-mộ quá, quên cả ngày về.

(…)


Lạc-Long-Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu-Cơ ở một mình, dung-mạo đẹp lạ-lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi-lang phong-tư mỹ-lệ, tả-hữu thị-tùng đông-đảo, tiếng đàn ca vang đến hành-tại. Âu-Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long-Quân bèn rước nàng về núi Long-Trang.

 

(…)



Âu-Cơ ở với Lạc-Long-Quân giáp một năm, sinh ra bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai; nàng đem về nuôi-nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.

 

Qua đoạn văn trích dẫn, chúng ta có được một trực giác về ý nghĩa nhân tính của Bách Nam, những con người nguyên thủy được tạo dựng trong ánh sáng của chân lý : Bách Nam sinh ra từ 100 trứng, là hoa trái của tương giao giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ  (Trời và Người). Bách Nam vượt lên trên muôn sinh vật của vũ trụ (linh ưu vạn vật) : không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.



 

Nam đối nghịch với với Bắc. Đối với người ở vùng bắc bán cầu như chúng ta, Nam tượng trưng vùng đất có mặt trời ban sự sống và ánh sáng. Bắc tượng trưng cho bóng tối và cõi chết (nơi cư ngụ của Đế Lai, kẻ thù của Lạc Long Quân).

 

Phương Nam là nước Xích Quỉ, là cộng đồng của giống thần thiêng : từ hán-việt Xích có nghĩa là hơi ấm của mặt trời; từ Quỉ không phải là quỉ ma (satan, diable) như ta hiểu ngày nay, nhưng là giống thần thiêng (có thể dịch qua pháp ngữ là esprit)



 

Phương Nam là quê của Sùng Lãm ((Sùng là cao trọng đáng tôn kính bên trong, Lãm là đẹp đẽ xuất hiện ra bên ngoài), của Lạc-Long-Quân (Lạc :  gợi lên hạnh phúc viên mãn (= Mỹ),  Long :  nguồn gốc thần thánh (= Chân), Quân :  điều hành công minh, xử lý tốt lành cuộc sống (= Thiện).

 

Nơi phương Nam, Âu Cơ (Âu là nhớ nhung Ai; Cơ là lo toan việc nầy việc kia; Âu Cơ tượng trưng cho hiện sinh con người) là con người trước đây từng bị Đế Lai (tượng trưng cho chấp ngã, dục vọng của quyền lực cá nhân, ham mê của cải vật chất  ... ) khống chế, nay được Lạc Long Quân (tượng trưng cho chiều kích Trời hay Thần,  hoặc là Chân Thiện Mỹ) đưa vào cùng chung sống nơi quê hương Thần Thánh (Long Trang)…...



 

Nơi phương Nam, con người được khai sinh bởi mối tương giao giữa Âu-Cơ và Lạc-Long-Quân ; từ mối tương giao nguyên thủy và nền tảng đó con người nối kết với con người trong mối tình huynh đệ.

 

Qua những hình ảnh tượng trưng dồn dập nói đến lý lịch thần thiêng của con người, Nam trong hai chữ Bách Nam ở câu kết của bản văn là nói đến chiều kích LINH THIÊNG của nhân tính ban cho mọi người, không loại trừ một ai.



 

(Ở đoạn văn nầy cũng như ở phần sau (trừ câu kết), chữ VIỆT không minh nhiên viết ra thành văn. Nhưng trong ngôn ngữ hán-việt, VIỆT có nghĩa là vượt qua, vươn lên, đưa lên cao ..., do đó, một khi Bách Nam là con người được Thần (Lạc Long Quân) nâng lên hàng linh thiêng, được giải thoát khỏi bóng tối và sự chết (giải thoát khỏi gông cùm của Đế Lai) thì Bách Nam ấy cũng hàm ngụ là  Bách Việt.)

 

c/ Chữ Việt trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái


 

Nếu con người từ nguyên thủy [từ lý lịch căn nguyên=  nhân chi sơ = con người ở vườn địa đàng (x. Sách Sáng Thế của Do-thái giáo và Kitô giáo)] là Bách Nam, thì thực tại hay hiện sinh con người là một thân thế tranh tối tranh sáng. Một mặt vì Thần (Lạc Long Quân) mà con người phải nối kết luôn ẩn mặt, luôn là KẺ KHÁC (không ai thấy Thần, Thần vô phương), mặt khác con người mang gánh nặng kinh hoàng của tự do và luôn bị bóng tối và sự chết (Đế Lai, phương Bắc) kềm hãm.


 

Bản văn viết :



Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc-quốc liền đi lên biên-cảnh; Hoàng-Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân-binh trấn-ngự quan-tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long-Quân:

  • Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.

Long-Quân hốt-nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở  Tương-Dạ; Âu-Cơ nói :

- Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc-dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò-võ.

Long-Quân bảo :

- Ta là loài rồng, sinh-trưởng ở thủy-tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm-dương hợp lại mà có con nhưng phương-viên bất-đồng, thủy-hỏa tương-khắc, khó mà ở cùng nhau trường-cửu. Bây giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau.

 

Thủy-phủ ở đây là hình ảnh của cảnh vực bên kia bờ, là chiều kích siêu nhiên vượt lên trên thời gian không gian làm khung cho sự hiểu biết của con người. Khi nói Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ có nghĩa là nói đến Thần vô phương, Thần Linh vượt lên trên trật tự mà sức con người có thể đo lường, khai phá. Nói cánh khác, con người thực tế trước mắt (hiện sinh), tuy mang ấn tích thần thánh trong mình, nhưng đang bị ràng buộc bởi thân phận đang gặp nguy cơ : chiều kích linh thiêng, mở ra với AI  KHÁC thì ẩn kín, tưởng như xa vời (mẹ con ở một mình), trong lúc dục vọng chỉ tìm mình, chỉ biết mình và tham lam vật nầy vật khác  (nhớ về Bắc-quốc) thì rình rập không ngơi.


 

Nếu ở phần đầu, Bách Việt có nghĩa là con người được Kẻ Khác ban phần linh thiêng vượt lên trên mọi sinh vật trong trời đất, hoặc con người được Thần nâng lên hàng thần thánh, thì về phần mình, trong thực tại làm người của bất cứ ai, phận vụ hoàn thành nhân tính của mỗi người (hoặc NGHĨA làm con người) lại là luôn nhớ Long-Quân và thân thế nguyên sơ của mình ở phương Nam. Nỗi nhớ nầy là ấn tích nguyên sơ, là Đại Ký Ức (ở bên trên mọi ký ức bình thường) làm nên nguồn suối sâu kín trong tâm con người . Nỗi nhớ ấy  là Nền Cao Cả ở trong Tâm (Hoàng Đế) vừa có sức can ngăn con người không cho nó rơi vào sự ác (phương Bắc, Đế Lai), vừa nhắc con người nhớ Lạc-Long- Quân nơi phương Nam ẩn kín.



 

Đi vào Đại Ký Ưc để vượt lên thân phận bị trói buộc bởi phương Bắc, bởi Đế Lai (vốn là chính dục vọng chấp ngã, chỉ biết mình, phe mình, có nhiều vật cho mình) để tìm về  Thủy- tổ phương Nam, nơi con người được nâng lên địa vị thần linh, được mở ra với Ai Khác và nối kết với kẻ khác, nhìn nhận và yêu thương mọi người (không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, nam nữ, trẻ già .... ) trong tương giao huynh đệ cùng chung mẹ Âu Cơ, cùng được khai sinh do tình yêu không điều kiện đến từ Cha Lạc Long Quân.


 

Như thế, nghĩa làm người là chiến đấu vượt lên tăm tối sự ác để đi về ánh sáng của yêu thương và chân lý; nói cánh khác con người trong thực tại hiện sinh đúng nghĩa là BáchViệt.



 

Một khi ánh sáng và nguồn suối khai nguyên con người là phương Nam, một khi con người ban sơ, nguyên thủy là Bách Nam (người sinh ra và cư ngư ở phương Nam nầy), thì Bách Việt (con người tại thế đang vươn mình tìm về nguồn ánh sáng khai nguyên) phải nhận ra Bách Nam chính là thủy tổ của mình.



Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy.

Khi cảm ứng được nghĩa làm người như thế, con người nhận ra mình thuộc một giống tộc Lớn, Cao cả  (Hồng), ôm trọn được mọi người (Bàng) : con người đó  thuộc họ Hồng Bàng.

 

Theo Vũ Quỳnh, nghĩa của hai từ NamViệt như thế đã được tổ tiên  cảm nhận từ nơi thâm cung tấm lòng của mỗi người  (không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người = Đạo Tâm) và phải được chuyển đạt cho con cháu.



 

Xuyên qua huyền thoại họ Hồng Bàng, con cháu nên tiếp nhận nghĩa nầy như Văn Hiến hay Cương Thường dẫn lối cho cuộc sống :



Ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu ?

 


  1. Định hướng sinh hoạt văn hóa trong bối cảnh của lịch sử dân tộc Việt Nam

 

Trước phát biểu về định hướng cho sinh hoạt văn hóa, tôi xin dừng lại một chút để nói đến tiền kiến tiêu cực về nội dung cụm từ thường được nhắc đi nhắc lại trong thời gian gần đây, đó là « văn hóa dân tộc VN». Tôi gọi là tiền kiến vì nhiều người nêu lên nội dung nầy làm như văn hóa dân tộc VN chỉ là  một  thực thể  thuần khiết, lý tưởng, bất biến, có từ muôn đời, ở bên ngoài thời gian và không gian. 



 

Kỳ thực «văn hóa dân tộc VN» có một cấu trúc gồm hai phần gắn liền với nhau.

 

Một mặt nó xây dựng trên nền tảng bất biến là Chân Thiện Mỹ (qua hình ảnh Lạc Long Quân) làm nên cấu trúc căn nguyên của nhân tính vốn không do lịch sử và bàn tay con người làm ra và quyết định; chính nền tảng đó là hồn sống, là cương thường  (như Vũ Quỳnh đã nhắc đến trong lời  tựa cuốn Lĩnh Nam Chích Quái) cho sinh hoạt  của bất cứ cộng đồng nào cộng đồng nào của nhân loại, trong đó cộng đồng dân tộc VN. Chính vì xác tín được cương thường chung của toàn nhân loại (một nhân tính chung cho mọi người bất cứ ở đâu và bất cứ thời đại nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào) mà mỗi nền văn hóa, trong đó có «văn hóa dân tộc VN», không những biện minh cho TÍNH văn hóa của mình, mà còn có thể nhìn nhận, tiếp thu, trao đổi, hội nhập giá trị của các nền văn hóa của nhân loại.



 

Nhưng mặt khác, cũng như bất kỳ một nền văn hóa nào, «văn hóa dân tộc VN» phải được khai sinh và còn phải được triển nở, trước hết qua lịch sử của cộng đồng với những tài năng, sáng kiến và công trình cá biệt, tiếp đến là qua những dòng trao đổi, hội nhập sinh động và liên tục với các nền văn hóa khác.

 

Như vậy, nói theo ngôn ngữ kinh điển, chính hai yếu bất khả phân ly - phần thể (nền tảng nhân tính chung) và phần dụng (sinh hoạt cộng đồng xuyên qua lịch sử) - làm nên căn tính của một nền văn hóa.



 

Nhưng cần lưu ý rằng lịch sử thì luôn sinh động và đang và sẽ diễn tiến. Do đó khó mà nói rằng một vài tập tục hay hình thức biểu lộ nào đó trong một thời kỳ quá khứ nhất định lại là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa dân tộc. Trong « văn hóa dân tộc VN » có thể có những sinh hoạt thời trống đồng, thời cha ông mang khăn đóng áo dài…nhưng những hình thức đó không thiết định được bản sắc cho toàn bộ văn hóa dân tộc VN.

 

[Trong một kỳ Đại Học Hè Hải Ngoại dành cho chuyên viên và sinh viên trong thập niên 90, do Trung Tâm Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức, khi nói đến phương cách biểu lộ « văn hóa dân tộc VN », nhiều thành viên tham dự nhắc đến lối y phục khăn đóng áo dài. Một giáo sư nói đùa một cách ý nhị: Tại sao không đề nghị lối y phục mang khố vào thời « HùngVương » ! Không phải làm như thế sẽ vừa xa xưa vừa chưa pha chế với Tây Tàu hay sao ?



 

Đây, tuy chỉ là câu nói quá đáng, trên một bình diện nào đó, nhưng giúp người nghe ý thức được căn tính thật sự của « văn hóa dân tộc VN », vốn vượt lên bên trên và  bên ngoài những biểu lộ giới hạn như thế.]

 

Để dẫn chứng về việc định nghĩa cấu trúc văn hóa nói chung của một cộng đồng nào bất kỳ (trong đó có cộng đồng người Việt chúng ta) mà tôi đã sơ phác như trên, tôi xin đưa ra ba đoạn văn của các tác giả VN đã mặc nhiên đề cập đến văn hóa, những tác giả mà cộng đồng người Việt chúng ta xem là đáng tin cậy trong lãnh vực nầy :


 

- Bản văn Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái  của Vũ Quỳnh (thế kỷ 15-16) ;



- Truyện Kiều của Nguyễn Du ;

- Phàm lệ cuốn Khổng Học Đăng của Phan Bội Châu (thế kỷ 20).


 


  • Bản văn Truyện Họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam Chích Quái  được chia làm hai phần : Phần thể phần dụng.

 

Phần thể ở phần đầu, được viết xuyên qua những hình ảnh của huyền thoại, nhằm gợi lên những cấu trúc siêu nhiên ghi sâu trong lòng người, vượt thời gian, không gian, làm nền cho nhân tính. Vũ Quỳnh gọi tên phần thể nầy là CƯƠNG THƯỜNG ; trong bài tựa cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, tác giả viết :


 

Than-ôi! Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng ngýời, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệcương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?


 

Phần thứ hai là phần dụng với những tên gọi có nét lịch sử và địa lý nhất định, những phong tục tập quán cá biệt của một cộng đồng dân tộc.



 

Văn hóa được mặc nhiên định nghĩa như là một sự nối kết bất phân ly giữa thểdụng, trời đất :

 

Bây giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau. (Trích Truyện Họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam Chích Quái)

 

Cũng nơi bản văn nầy, bản văn mà tôi đánh giá như là một « Sách Sáng Thế » của văn hóa VN, chúng ta chứng kiến trước hết trực giác của tổ tiên về nền tảng về nhân tính, tiếp đó là tài năng sáng tác độc đáo về mặt văn chương với những cảm xúc tâm lý, những hình ảnh liên hệ đến khung cảnh địa lý, sinh hoạt kinh tế xã hội… . Nhưng bên cạnh đó, bản văn có vô số những hình ảnh, điển tích của hai nền văn hóa lớn trong vùng (văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Hoa). Một cách mặc nhiên, tác giả Vũ Quỳnh cho rằng việc « hội nhập » nầy không phi bác bất cứ điểm nào về bản sắc « văn hóa dân tộc VN » của bản văn, trái lại nó phản ảnh tinh thần vô chấp và khai phóng của nền văn hóa chúng ta. Thực vậy, Trong truyện Bạch Trĩ của cùng cuốn sách nầy, Vũ Quỳnh ghi lại cuộc đối thoại có tính cách huyền thoại và tượng trưng giữa Chu Công (là vị thầy của Khổng Tử) với sứ giả nước ta, để biện minh cho giá trị  « văn hóa dân tộc VN » của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái :



 

Chu-Công hỏi :

- Vì sao mà đến đây ?

Sứ-giả thưa :

  • Trời không gió lớn mưa dầm, biển không nổi sóng nay đã ba năm, ngỡ là Trung-quốc có thánh-nhân nên mới sang đây. (Trích Truyện Bạch Trĩ của Lĩnh Nam Chích Quái)

 

Thánh nhân, con người đặc biệt đó là người chu toàn nghĩa làm người vốn vượt biên giới chủng tộc, lịch sử…

Đến gặp gỡ thánh nhân ở phương bắc, phương đông hay phương tây…, thánh nhân thời xưa hay thời bây giờ…học hỏi, hội nhập và thực thi các giá trị cao cả làm cho con người thành thánh, đó không phải là nhìn nhận niềm tin vào nền tảng cao siêu và bất biến của nhân tính của bất cứ ai là người hay sao? Đó không phải là xác tín mối tương giao nhân loại và tinh thần liên đới, đồng trách nhiệm cùng nhau hoàn thành nhân tính hay sao ? Đó không phải là thực thi đạo lý căn nguyên « tứ hải giai huynh đệ, trăm con trên trái đất nầy cùng sinh ra từ một bào thai chung » hay sao ?

 


  • Nguyễn Du là một nhà văn hóa dân tộc, khi truyện Kiều của thi hào đã dấy lên nơi tâm thức của người Việt qua nhiều thế hệ một nguồn cảm hứng thi ca. Nhưng phải chăng truyện Kiều ấy được tiếp nhận là một gia sản văn hóa dân tộc chỉ vì nó phản ảnh tài làm thơ mô tả sâu sắc cảnh tình cảm nam nữ lứa đôi, hoặc tài viết truyện ghi lại đầy đủ nhưng sinh hoạt kinh tế, xã hội của cộng đồng người Việt vào đầu thế kỷ 19 ? Hoặc phải chăng vì truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ là một bản phỏng dịch từ một truyện Tàu qua tiếng Việt mà nay cần xét lại giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc của bản văn ? Cách nầy hay cách khác, không thiếu những nhà phê bình văn học đã đánh giá truyện Kiều của Nguyễn Du xuyên qua những chuẩn mực đại loại như thế.

 

Nhưng bên trên và bên ngoài những khen chê của các trào lưu văn học, đặc biệt trong thế kỷ 20 và những năm tháng gần đây, lời thơ của truyện Kiều luôn là nguồn cảm hứng của bất cứ tầng lớp nào trong cộng đồng người Việt : là lời ru con, là châm ngôn trong câu truyện hằng ngày, cũng là dấu tích lời thần thánh để bói toán, hoặc là lời diễn đạt minh triết… Như thế, sự kiện cộng đồng người Việt tiếp nhận truyện Kiều của Nguyễn Du như là một gia sản văn hóa không phải vì, xuyên qua bản văn ấy, cộng đồng người Việt tiếp cận được Đại Ký Ức của dân tộc mình, luôn nhớ cương thường làm nên cuôc sống văn hóa của mình và cố gắng áp dụng vào bất cứ sinh hoạt nào của mình hay sao? Không phải Kiều của Nguyễn Du cũng như Âu Cơ của Vũ Quỳnh đã cưu mang được Đại Ký Ức của dân tộc, đã trực giác được nghĩa của cuộc sống làm người (trăm năm trong cõi người ta), vừa bị trói buộc của Tài (kiếp hồng nhan = nghiệp phải bị ràng buộc với Đế Lai qua hình ảnh Sở Khanh, Thúc Sinh, Từ Hải), vừa ấp ủ hy vọng cứu độ của Mệnh (lắng nghe lời Đạm Tiên, gắn bó với Giác Duyên = tương giao gắn bó với Lạc Long Quân, hoặc đêm ngày NHỚ Long Quân) hay sao ? Không phải chính vì trực giác và diễn tả được nghĩa của nhân tính của mọi người trong mọi thời đại như thế mà nhà văn hóa của dân tộc Việt Nam Nguyễn Du cũng được các dân tộc khác trên thế giới chân nhận là nhà văn hóa, là người hiền của nhân loại hay sao ?


 


  • Trong phàm lệ giới thiệu về cuốn Khổng Học Đăng, Sào Nam Phan Bội Châu viết:  

 

"Cái danh từ học chẳng phải là cái đồ để đánh cắp áo mũ cân đai đâu? Cái danh từ học mới chẳng phải là cái mồi để hốt gạt mề đay kim-khánh đâu...!



Hễ ai đọc bản sách nầy, trước phải lập định một cái chí khí tự nhiên rằng: "Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon), ta là Khang Đức (Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông tây, mà tâm lý in như nhau, thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền; ta chỉ là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi. Có chí khí ấy thời đọc quyển sách nầy mới thích.

Nếu ai chưa đọc sách nầy mà trước đã có một ý kiến sẵn: định làm nô lệ cho người đời xưa, hay định làm nô lệ cho người đời nay thời xin chớ đọc.

 

()

 

Mục đích người làm bản sách nầy là cốt phù trì nhân đạo; nếu ai không để lòng vào nhân đạo thời xin chớ đọc".

 

Cũng như Vũ Quỳnh và Nguyễn Du, Phan Bội Châu chân nhận nền tảng văn hóa là nhân đạo, cương thường hay thể chung cho mọi người, mọi nơi mọi lúc ; nhưng nhân đạo đó được khai sinh, được diễn tả, được thực thi do những con người, những cộng đồng khác nhau trong những thời đại khác nhau; cũng vì thế nhìn bên ngoài (qua cách diễn tả và qua lịch sử) lại có những nền văn hóa khác nhau, những học cũ, học mới. 



Cũng như Vũ Quỳnh và Nguyễn Du, Phan Bội Châu cho rằng tinh hoa của văn hóa được cưu mang bởi hình ảnh của thánh hiền là di sản chung của nhân loại : thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền, vì đằng sau những học cũ, học mới của các vị là nhân đạo chung của mọi người trong đó có ta.

 

Nhưng truyền thống dân tộc gắn liền nội dung của sinh hoạt văn hóa với thánh nhân, thánh hiền, đạo làm người đã hụt hơi kể từ những đổi thay của xã hội Việt Nam vào giữa tiền bán thế kỷ 20. Cuộc tranh cãi về học cũ - học mới như Phan-Bội-Châu đã nói đến, những nghiên cứu rất có giá trị về cổ học và nhân chủng học … của Trường Viễn Đông Bác Cổ, những trào lưu canh tân xã hội v.v., tất cả vốn là những sinh hoạt bên ngoài của văn hóa, đã bị đồng hóa là toàn bộ sinh hoạt văn hóa. Từ đó, TÍNH hay hồn của văn hóa như bị lãng quên. Trước hiện tượng đứt đoạn đó của truyền thống văn hóa dân tộc, Phan-Bội-Châu đã mạnh mẽ lên tiếng cảnh giác như ta đọc thấy trong mấy hàng trích từ Phàm Lệ cuốn Khổng Học Đăng ; tác giả Lê-Văn-Siêu trong cuốn  Việt Nam Văn Minh Sử Cương  còn nói rõ hơn : chỉ lưu ý tới phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn”. Trong một bối cảnh như thế, cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào-Duy-Anh được cho xuất bản. Ngay chương đầu, tác giả đi ngay vào định nghĩa thế nào là văn hóa. Tôi nhắc đến cuốn sách nầy và định nghĩa nầy về văn hóa vì các tác giả nghiên cứu sinh hoạt văn học Việt Nam từ gần một thế kỷ qua thường trích dẫn chúng như một tài liệu cổ điển có giá trị đối chiếu.



 

Cuốn sách xuất bản sau cuốn Khổng Học Đăng của Phan-Bội-Châu chưa đến mười năm, nhưng nội dung định nghĩa văn hóa của đôi đường hoàn toàn cách biệt.


 

Theo Đào-Duy-Anh:


 

Người ta cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hóa có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng : Văn hóa tức là sinh hoạt.

 

Văn hóa đã tức là sinh hoạt thì không kể là dân tộc văn minh hay dã man đều có văn hóa riêng của mình, chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà  thôi. Ví dụ văn hóa của các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà văn hóa của các dân tộc mọi rợ Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường, Mán Mọi ở nước ta thì thấp.

 

Vì lẽ gì văn hóa của các dân tộc khác nhau như thế? Vì rằng các sinh hoạt của các dân tộc không giống nhau. Chính vì những điều kiện tự nhiên về địa lý khiến mỗi dân tộc sinh hoạt ở trên cơ sở kinh tế khác nhau, cho nên cách sinh hoạt cũng thành khác nhau vậy. Bởi thế muốn nghiên cứu văn hóa của một dân tộc, trước hết phải xét xem dân tộc ấy sinh trưởng ở trong những điều kiện địa lý thế nào.

 

Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của người ta, song người là giống hoạt động cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và biến chuyển những điều kiện ấy cho thích với những điều cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà  cũng biến chuyển và khiến văn hóa cũng biến chuyển theo (...)

 

Trước hết Đào-Duy-Anh có công khi phân biệt một hình thái sinh hoạt văn hóa là học thuật tư tưởng với nội dung văn hóa nói chung. Trong quan điểm hời hợt của quần chúng, nhất là vào một thời có tranh cãi về  học cũ- học mới để có thêm kiến thức làm việc nầy việc nọ, nhất là để làm quan, làm giàu như Phan-Bội-Châu từng nêu lên, thì việc phân biệt như thế rất có giá trị.



 

Nhưng theo truyền thống văn hóa của cộng đồng người Việt mà Vũ Quỳnh, Nguyễn Du, Phan Bội Châu trước đó phản ảnh, một truyền thống chân nhận thánh nhân, thánh hiền là nguyên tượng của văn hóa, thì đâu có hiện tượng xếp văn hóa trong khuôn khổ giới hạn của học thuật tư tưởng. Không phải Vũ Quỳnh từng định nghĩa văn hiến là cương thường phát xuất từ tâm con người làm giềng mối cho bất cứ sinh hoạt nào của cuộc sống con người hay sao ? Trong tâm thức người Việt Nam, ngữ nghĩa của từ thánh nhân, thánh hiền không nhằm nói đến người có nhiều kiến thức, những người lập thuyết hay biện luận giỏi, nhưng gợi lên hình ảnh người tuân thủ đạo làm người trong bất cứ sinh hoạt nào của mình.

 

Như thế các bậc tiền bối và Đào-Duy-Anh đều có chung quan điểm không cho rằng văn hóa chỉ là học thuật được hiểu là các lý thuyết, các loại kiến thức và kỹ năng... mà là toàn bộ sinh hoạt của con người.



 

Nhưng trong phần tiếp của đoạn văn nhằm giải minh đâu là nền, là thể làm cho sinh hoạt con người mang TÍNH văn hóa, và do đâu có sự khác biệt của các nền văn hóa, thì rõ ràng quan điểm của Đào-Duy-Anh đã tự tách ra khỏi truyền thống dân tộc và tâm thức sâu kín của người Việt mà văn học bình dân cũng như các tác phẩm văn chương của các hiền nhân tiền bối phản ảnh. Mẫu người văn hóa của Đào-Duy-Anh không còn là thánh nhân, hiền nhân, người tuân giữ Đạo Làm Người (= nhân đạo) qua mối tương giao “linh ư vạn vật” mà mối tình Âu-Cơ và Lạc-Long-Quân gợi lên và qua mối tương giao huynh đệ “trăm con cùng chung một bào thai” ;  mẫu người văn hóa mới không còn là kẻ “trọng nghĩa khinh tài”, cũng không còn là người chiến sĩ của cuộc chiến giữa Tài và Mệnh, giữa Tài và Tâm, nhưng là con người kinh tế đấu tranh với thiên nhiên địa lý để kiếm ăn và đấu tranh kinh tế với đồng loại để sống còn. Con người văn hóa và các nền văn hóa nay được định chuẩn qua cuộc chiến chế ngự thiên nhiên và tranh chấp giữa người với người về kinh tế. Họ sẽ được xếp loại cao thấp qua kết quả thành công hay thất bại theo thước đo mà các thánh hiền Trung Hoa và Hy Lạp gọi là Đạc Điền (= Đo đất) hoặc Géométrie, còn văn hóa truyền thống Việt Nam gọi là tương quan Âu-Cơ và Đế Lai (= con người thuần kinh tế đi tìm, chiếm giữ và hưởng thụ của cải riêng cho mình). Với thước đo văn hóa dựa trên việc chinh phục và khai thác thiên nhiên (địa lý) như thế, Đào-Duy-Anh đã đánh giá văn hóa của các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà văn hóa của các dân tộc mọi rợ Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường, Mán Mọi ở nước ta thì thấp.


 

(Không biết có phải vì cuốn sách của Đào-Duy-Anh là một trong những cuốn sách đầu tiên trong văn học Việt Nam (?) minh nhiên nêu lên hai chữ văn hóa và được trình bày có hệ thống, hoặc còn do nhiều lý do khác nữa, mà nhiều sách nghiên cứu văn hóa về sau thường nêu định nghĩa từ cuốn sách nầy như một tiền đề mặc nhiên. Và sự kiện đó không phải là chuyện đương nhiên của giới nghiên cứu văn hóa chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật, duy vật biện chứng... nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay cả những người không cùng quan điểm nếu không nói là phi bác chủ nghĩa nầy thì cũng trích dẫn Đào-Duy-Anh như một đề nghị tích cực.)


 

Phải chăng việc bứng gốc căn tính của văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam nằm trong một bối cảnh lịch sử xã hội quá đặc biệt vào tiền bán thế kỷ 20 ? Trong cách nhìn sinh hoạt văn hóa thuần túy dự trên bối cảnh xã hội, kinh tế, chính trị ... mà Đào-Duy-Anh đã gợi lên một cách khá đầy đủ, có thể đưa ra giả thuyết rằng sự rút lui của căn tính của văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, trước hết là do chính hoàn cảnh lịch sử xã hội riêng của cộng đồng Việt Nam lúc bấy giờ. Khi phải chung đụng với một cường quốc thực dân Tây phương vốn tự tôn vinh họ là một dân tộc có văn hóa cao, tâm thức và sinh hoạt văn hóa của người dân mình, đặc biệt là giới có trách nhiệm, vì tư ái dân tộc, đã có những phản ứng hoặc tự tôn hoặc tự ti để rồi chủ trương bảo thủ lối cũ của cha ông hay canh tân theo nếp sinh hoạt Tây phương; điều mà Phan-Bội-Châu gọi là học cũhọc mới. Tiếp đó cũng phải lưu ý thêm về ảnh hưởng của trào lưu của Thời Đại Tân Kỳ (Les Temps Modernes) khai sinh và phát triển trong xã hội Tây phương vào hậu thế kỷ 19 và phổ biến trên thế giới vào tiền thế kỷ 20... Những nhà nghiên cứu có thể còn đưa ra nhiều dữ kiện khác nữa để dẫn chứng và biện minh cho sự đổi thay nầy. Nhưng tất cả những nghiên cứu đó đều đặt nền tảng trên một tiền kiến về căn tính của văn hóa đại loại như Đào-Duy-Anh đã diễn tả. Nói cách khác, nếu dùng lối nói của Phan-Bội-Châu thì những nghiên cứu, những tranh luận liên quan đến sự đổi thay “cái học cũ, cái học mới” vốn đã quên lãng căn tính của văn hóa, căn tính được Phan tiên sinh gọi là nhân đạo. 



 

Theo Phan tiên sinh, sự đổi thay nầy không phải là một đổi thay về hình thái, về phương cách biểu lộ hay phần dụng của nhân đạo tùy thuộc vào hoàn cảnh tâm lý, xã hội, địa lý chính trị... nhưng là sự lãng quên hay đúng hơn là đánh mất hồn hay căn tính của văn hóa, đó là nhân đạo.

 

Vào thế kỷ 15 và 16, Vũ Quỳnh trong Lĩnh Nam Chích Quái  thì ví sự đổi thay nầy như việc Âu-Cơ quay lại với Đế Lai ở Phương Bắc và quên đi mối tương giao với Lạc Long Quân là cha của 100 người con nhân loại. Văn hóa lúc bấy giờ không còn là tương giao với Long Quân ẩn kín mà hiện thân là Âu-Cơ, người Mẹ nuôi dưỡng đàn con bằng sữa NHỚ của mình trong bất cứ sinh hoạt nào của cuộc sống (xem phần hai của truyện Họ Hồng Bàng). Rõ nét hơn nữa, trong truyện Bạch Trĩ, qua lời đối đáp của sứ-giả của Hùng-Vương với Chu-Công, Vũ Quỳnh nhắc nhỡ rằng căn tính của văn hóa hay đạo làm người mà hình ảnh tượng trưng là thánh nhân vượt lên trên những hình thái bên ngoài của sinh hoạt xã hội, chính trị, kinh tế... :


 

Thời Thành-Vương nhà Chu, Hùng-Vương sai sứ-thần đem qua dâng cho nhà Chu giống chim bạch-trĩ, nhưng ngôn-ngữ bất-thông. Chu-Công sai người dịch lại mới hiểu.



Chu-Công hỏi rằng :

- Người Giao-Chỉ cắt tóc, vẽ hình, để đầu trần, ngón chân cong, là tại làm sao ?

Sứ-giả thưa rằng :

- Cắt tóc để tiện vào rừng; vẽ mình để làm hình rồng, khi lặn lội dưới nước thì giao-long không dám phạm đến; chân cong để tiện trèo cây, cày dao, đốt lửa, gieo lúa; đầu trần để khử nóng bức, ăn cau trầu để trừ ô-uế và làm cho răng đen.

Chu-Công hỏi :

- Vì sao mà đến đây ?

Sứ-giả thưa :

- Trời không gió lớn mưa dầm, biển không nổi sóng nay đã ba năm, ngỡ là Trung-quốc có thánh-nhân nên mới sang đây. (Trích Truyện Bạch Trĩ của Lĩnh Nam Chích Quái)

 

Nếu đọc lại Truyện Kiều của Nguyễn Du, thì văn hóa theo định nghĩa của Đào-Duy-Anh là Tài quên Tâm, là Kiều “đào hoa” sinh hoạt với Sở Khanh, với Thúc Sinh, với kinh kệ bên ngoài trong khuôn viên gia đình do Hoạn Thư sắp xếp, với Từ Hải ... mà quên đi một Kiều đã chết đi Tài, vượt lên trên kiếp đào hoa để tìm lại Tâm khi tiếp cận với Giác Duyên (= Ơn Cứu Độ) trên sông Tiền Đường.



 

Tâm, thánh nhân, thánh hiền, nhân đạo, hồn của văn hóa”  vắng bóng trong sinh hoạt văn hóa hầu như chính thức kể từ giữa thế kỷ 20 đến nay. Không phải dấu tích sinh hoạt của con người về tài trí (homo sapiens), về khả năng lao động chế ngự và quản lý thiên nhiên địa lý (homo faber), về những sáng kiến và hình thức hưởng dụng tài vật, những thú vui giải trí tiêu khiển (homo ludens) là không có chút giá trị văn hóa nào. Nhưng xin lập lại lời của Lê-Văn Siêu : “chỉ lưu ý tới phần xác của nó lắm khi khô khan và trơ trẽn”.

Đến đây, chúng ta tự hỏi khi nêu lên vấn đề định hướng cho sinh hoạt văn hóa, cổ súy văn hóa dăn tộc, thì chúng ta có cần tiếp tục đưa thêm một nét riêng nào đó trong nếp sinh hoạt của cộng đồng người Việt, một nét riêng trong muôn ngàn sinh hoạt như Đào Duy Anh gợi lên, để chủ trương sinh hoạt ấy là thiết yếu như thiên hạ thường làm hay không ?

Hay chúng ta đề nghị với nhau trước hết nên cố lắng nghe những bậc tiến bối  là phát ngôn tâm hồn văn hóa của cha ông chúng ta xem họ cảm nhận ý nghĩa của văn hóa như thế nào.


 

VỀ MỤC LỤC


tải về 1.11 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương