BỘ TƯ pháp dự thảo số: /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam


d) Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý



tải về 0.92 Mb.
trang6/7
Chuyển đổi dữ liệu09.06.2018
Kích0.92 Mb.
#39815
1   2   3   4   5   6   7

d) Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý

Với vai trò đầu mối giúp Chính phủ tổ chức triển khai nhiệm vụ tổng kết nhiệm kỳ 2011-2015 việc thi hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện, bảo đảm yêu cầu về chất lượng, tiến độ. Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã hoàn thành Báo cáo67 và giúp Chính phủ xây dựng Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai: 48 nhiệm vụ khoa học (25 nhiệm vụ chuyển tiếp; 23 nhiệm vụ giao mới triển khai trong năm 2015). Trong đó có: 03 đề tài cấp nhà nước; 28 nhiệm vụ cấp bộ (bao gồm: 01 đề tài và 01 đề án thuộc chương trình; 25 đề tài; 01 đề án khảo sát, đánh giá tác động kinh tế - xã hội của việc thí điểm thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố); 10 nhiệm vụ cấp cơ sở (08 đề tài; 01 đề án và 01 hội thảo). Tại các cơ sở đào tạo của Bộ, công tác nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp tục được đẩy mạnh, phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy68.

Nhiệm kỳ 2011-2015, công tác nghiên cứu khoa học đã góp phần tích cực vào việc xây dựng các luận cứ lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các dự án luật lớn do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Bộ Luật dân sự (sửa đổi), Bộ Luật hình sự (sửa đổi), Luật ban hành VBQPPL (hợp nhất), Luật trợ giúp pháp lý, Luật chứng thực, Luật hộ tịch...); góp ý hoàn thiện những nội dung liên quan tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; giải đáp được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần quan trọng vào việc triển khai nhiều nhiệm vụ quản lý của ngành trên các lĩnh vực như thi hành án, hành chính tư pháp, trợ giúp pháp lý, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật...



10.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Việc triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV mới chỉ tập trung vào việc ban hành kế hoạch thực hiện và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp mà chưa quan tâm toàn diện đến các vấn đề kiện toàn về biên chế, cán bộ nên dẫn đến những khó khăn, lúng túng trong quá trình sắp xếp cán bộ theo mô hình tổ chức mới. Đến nay, vẫn còn 6/63 địa phương đang xây dựng dự thảo Quyết định69.

- Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức, người lao động trong Ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là sự gắn kết giữa chuyên môn luật với các lĩnh vực khác của kinh tế - xã hội.

- Việc kiện toàn tổ chức pháp chế ở địa phương còn chậm; chính sách thu hút đội ngũ người làm công tác pháp chế chậm được ban hành; tính chủ động trong việc triển khai các mặt công tác pháp chế ở một số tổ chức pháp chế từ Trung ương đến địa phương còn chưa cao; vẫn còn một số lãnh đạo Bộ, cơ quan, địa phương chưa coi trọng vị trí, vai trò công tác pháp chế trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội dẫn đến việc bố trí chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện.

- Việc triển khai một số Đề án về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là việc triển khai Đề án tổng thể "Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” còn chậm. Việc xây dựng Pháp lệnh đào tạo một số chức danh tư pháp gặp nhiều vướng mắc.

- Tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật còn gặp rất nhiều khó khăn. Chương trình và phương pháp đào tạo tuy có đổi mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Nội dung giảng dạy còn ít tính thực tiễn.

- Chất lượng của một số công trình nghiên cứu khoa học còn yếu, chưa có các phát hiện có giá trị khoa học cao, nghiên cứu hàn lâm còn ít; các giải pháp đưa ra trong nghiên cứu ứng dụng trong một số trường hợp còn chung chung, khó biến ý tưởng thành các giải pháp ứng dụng khả thi; chưa có giải pháp mang tính đột phá trong chuyển giao, quảng bá nghiên cứu đến địa chỉ ứng dụng để phục vụ kịp thời nhiệm vụ xây dựng pháp luật và quản lý ngành; việc thu hút các nhà khoa học trong và ngoài ngành, cũng như cán bộ tư pháp ở địa phương tham gia vào nghiên cứu còn hạn chế.

b) Nguyên nhân

- Khó khăn về biên chế, cán bộ của các cơ quan tư pháp nằm trong bối cảnh khó khăn chung của việc thực hiện quyết tâm tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; sự quan tâm của Lãnh đạo một số Bộ, ngành và địa phương trong việc kiện toàn cán bộ pháp chế, tư pháp chưa kịp thời; một số lãnh đạo địa phương chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò của công tác pháp chế; rất ít cán bộ tư pháp trúng cử cấp uỷ tại Đại hội Đảng bộ các cấp; nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan, cán bộ tư pháp còn hạn chế nên chưa có sự đổi mới, đề cao tính sáng tạo, tích cực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Nguồn đầu vào để tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật ngày càng thu hẹp do sự cạnh tranh của các cơ sở đào tạo, các loại hình đào tạo khác; chưa có đào tạo liên thông trung cấp – cao đẳng – đại học luật; kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở, vật chất của các Trường Trung cấp luật còn chưa kịp thời, đầy đủ.

- Lực lượng nghiên cứu khoa học pháp lý nhìn chung còn mỏng. Kinh phí phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn hạn chế; chưa có cơ chế phù hợp để thu hút, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành và các nhà khoa học trẻ tài năng.

11. Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản; thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

11.1. Kết quả đạt được

a) Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản

- Năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015, công tác xây dựng kế hoạch ngày càng đi vào nền nếp, được thực hiện đúng quy trình. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đều ban hành Kế hoạch công tác năm, trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong năm. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tích cực nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 20/2013/TT-BTP ngày 03/12/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thống kê để nâng cao chất lượng thông tin thống kê, phục vụ có hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành.

- Trong điều kiện cân đối kinh tế vĩ mô còn gặp nhiều khó khăn, Bộ đã tích cực, chủ động trong việc lập và điều hành dự toán kinh phí bám sát sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ thường xuyên cũng như các nhiệm vụ trọng tâm cấp bách phát như tổng kết, xây dựng dự thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và tổ chức triển khai Hiến pháp, Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật dân sự (sửa đổi)... Triển khai có hiệu quả 02 Đề án "Đầu tư xây dựng trụ sở, kho vật chứng cho các cơ quan THADS, các cơ sở đào tạo và trụ sở làm việc cho các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, theo nghị quyết số 49-NQ/TW, nhiệm kỳ 2011-2015” và "Đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cơ quan THADS giai đoạn 2011 - 2015” với việc hàng loạt dự án đầu tư xây dựng lớn được hoàn thành như: Dự án Nhà A Trường Đại học Luật Hà Nội, Dự án Trụ sở Học viện Tư pháp, Dự án đầu tư giai đoạn I của 04/05 Trường Trung cấp luật mới thành lập thuộc Bộ; Trụ sở Nhà Xuất bản Tư pháp, Trụ sở Cục Đăng ký quốc gia GDBĐ; hệ thống trụ sở, kho vật chứng cơ quan THADS được tăng cường.

b) Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

Tổ chức bộ máy thực hiện công tác thanh tra của Bộ Tư pháp tiếp tục được mở rộng với việc bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành cho Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và Cục Bổ trợ tư pháp; các hoạt động thanh tra, kiểm tra đã được thực hiện một cách thường xuyên theo kế hoạch hoặc đột xuất. Một số địa phương đã tiến hành được nhiều công việc, thực hiện tốt kế hoạch công tác đã đề ra (như Hải Dương, An Giang, Ninh Bình, Bắc Giang, Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Đắc Lắc, Bình Phước, Bình Dương, Tiền Giang, Cà Mau…).

Trong năm 2015, toàn ngành Tư pháp đã triển khai 572 cuộc thanh tra, kiểm tra (83 cuộc thanh tra hành chính, 444 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và 44 cuộc kiểm tra sau thanh tra, 11 cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo). Riêng Bộ Tư pháp đã triển khai 28 đoàn thanh tra, kiểm tra (17 đoàn thanh tra theo kế hoạch, 02 Tổ công tác thu thập thông tin liên quan để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; 05 đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và 04 đoàn thanh tra đột xuất do phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu quản lý nhà nước). Tính cả nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng số 134 cuộc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kết quả, đã thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền là 1.423.985.256 đồng70, xử phạt vi phạm hành chính số tiền là: 383.750.000 đồng71.

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được thực hiện thường xuyên, đúng quy định. Các đơn vị thuộc Bộ đã phân công cán bộ, công chức có năng lực, chuyên môn phù hợp để thực hiện việc tiếp công dân theo quy định của Luật tiếp công dân; hàng tháng, Lãnh đạo Bộ đều tổ chức tiếp công dân theo lịch tiếp công dân được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp 467 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo (tăng 80 lượt - 21% so với năm 2014) và tiếp nhận 2.221 đơn thư khiếu nại, tố cáo, trong đó có 531 đơn thuộc thẩm quyền (tăng 137 đơn - 34% so với năm 2014), 1.690 đơn không thuộc thẩm quyền (tăng 51 đơn - 37,8% so với năm 2014). Bộ, ngành Tư pháp cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tổng kết 10 năm thực hiện luật phòng, chống tham nhũng.



11.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Công tác phân bổ, thực hiện dự toán vẫn còn điều chỉnh, bổ sung nhiều lần trong năm; tình trạng chậm quyết toán một số dự án hoàn thành theo quy định; thời gian thực hiện chủ trương đầu tư các dự án trong kế hoạch đầu tư trung hạn (2017-2020) bị kéo dài.

- Việc gửi báo cáo thống kê của một số cơ quan, địa phương còn chậm so với quy định; chất lượng báo cáo thống kê vẫn chưa cao, tuy có cải thiện một bước nhưng nhìn chung nhiều báo cáo vẫn còn mắc các lỗi bất hợp lý về nội dung số liệu nên phải đính chính, điều chỉnh nhiều lần.

- Công tác thanh tra chậm được đổi mới về phương thức hoạt động, một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao; một số địa phương chưa thực hiện thường xuyên, chưa kịp thời trong bối cảnh xã hội hoá một số lĩnh vực công tác tư pháp đã và đang được đẩy mạnh; xử phạt vi phạm hành chính, nhất là đối với các tổ chức nghề nghiệp (luật sư, công chứng, đấu giá...) còn thấp. Có trường hợp chưa làm hết trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tình trạng chậm giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa được khắc phục. Việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành được giao tại Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp còn chậm.



b) Nguyên nhân

- Dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ của một số đơn vị được xây dựng chưa sát, chậm xây dựng; một số thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm về công tác thống kê; kỷ luật trong công tác thống kê chưa cao...; kỹ năng thống kê số liệu của một số cán bộ làm công tác tổng hợp số liệu của một số Sở Tư pháp địa phương, một số cơ quan, đơn vị, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế, chủ yếu còn thực hiện thủ công.



- Nhiều nhiệm vụ mới phát sinh, nhưng không được cấp bổ sung kinh phí, dẫn đến việc phải cân đối, điều chỉnh dự toán nhiều lần. Luật đầu tư mới được ban hành, chưa có văn bản hướng dẫn; nhiều chủ đầu tư không có chuyên môn về xây dựng nên việc tổ chức triển khai thực hiện dự án còn lúng túng, chậm tiến độ.

- Năng lực của một số cán bộ làm công tác thanh tra ở các cơ quan tư pháp vẫn còn hạn chế, đội ngũ cán bộ thanh tra còn thiếu về số lượng. Nhiều vụ việc khiếu nại có tính chất phức tạp, cần có sự thống nhất của nhiều ngành, nhiều cấp nên chưa bảo đảm được yêu cầu về mặt thời gian.



12. Công tác chỉ đạo, điều hành; thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản; ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính; thi đua khen thưởng

a) Công tác chỉ đạo, điều hành

Năm 2015 và cả nhiệm kỳ 2011-2015, công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, ngành Tư pháp đã bám sát với công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các nhiệm vụ công tác tư pháp đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo, quy định trong Nghị quyết số 01/NQ-CP hàng năm, tạo cơ sở quan trọng cho sự thống nhất chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp một cách toàn diện và tập trung vào các nhóm nhiệm vụ trọng tâm từng năm. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành, phê duyệt kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan, địa phương; tiếp tục quan tâm kiện toàn tổ chức, bộ máy; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai công tác. Trong năm 2015, công tác chỉ đạo điều hành cũng tập trung vào các hoạt động hướng tới những ngày lễ lớn của đất nước và đặc biệt là chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (xây dựng Phòng Truyền thống, Nhà chờ ở Khu di tích của Bộ tại tỉnh Tuyên Quang, thi sáng tác bài hát truyền thống, logo về Ngành, thi văn nghệ, hội thao Ngành...), qua đó góp phần giáo dục truyền thống, vun đắp tình yêu Ngành, yêu nghề của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Ngành.

Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với công tác tư pháp được thực hiện quyết liệt hơn, khả năng "phản ứng chính sách" đã có nhiều chuyển biến, đặc biệt trong công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực liên quan đến người dân, doanh nghiệp.

Để tăng cường công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đoàn Đại biểu Quốc hội thông qua các buổi làm việc, các chuyến công tác, nhờ đó nhiều vướng mắc, khó khăn trong công tác tư pháp, THADS đã được giải quyết tốt hơn, đạt được sự đồng thuận cao hơn, đồng thời, đã thu hút nhiều hơn sự tham gia và giám sát của xã hội đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.

Tiếp tục thực hiện chủ trương “Hướng về cơ sở”, tập trung giải quyết các điểm nghẽn từ cơ sở, ngành Tư pháp đã tăng cường tổ chức các chuyến công tác tại địa phương để kịp thời nắm bắt những bất cập, vướng mắc chuyên môn ở cơ sở để chỉ đạo, hướng dẫn. Công tác hướng dẫn chuyên môn, trả lời kiến nghị địa phương, pháp chế Bộ, ngành được quan tâm đẩy mạnh. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 138 kiến nghị (trong đó, đợt sơ kết 06 tháng công tác tư pháp tiếp nhận 67 kiến nghị, đợt tổng kết công tác năm 2015 tiếp nhận 71 kiến nghị); Bộ Tư pháp đã có văn bản tổng hợp trả lời đối với 100% số kiến nghị.

Nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, toàn Ngành cũng đã tích cực triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ban hành và thực hiện Chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Toàn ngành Tư pháp đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 25/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc, được dư luận xã hội đồng tình, đánh giá cao.

b) Công tác thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản

- Công tác báo chí, tạp chí, xuất bản đã bám sát nhiệm vụ công tác của Bộ, Ngành, thường xuyên được đổi mới về nội dung, hình thức của các ấn phẩm để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, bảo đảm thông tin kịp thời, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, định hướng tốt hơn cho dư luận xã hội.

Năm 2015, Báo Pháp luật Việt Nam đã xây dựng thêm chuyên trang báo điện tử Truyền thông pháp luật Pháp luật+ (phapluatplus.vn); tổ chức sản xuất các số phụ với nhiều ấn phẩm phong phú72; đặc biệt, Báo đã tổ chức thành công “Chương trình Vinh danh Gương sáng Tư pháp” ghi nhận, biểu dương những cán bộ tư pháp nỗ lực vượt khó, phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp Tư pháp, góp phần đổi mới, phát huy sáng tạo, thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã biên tập, xuất bản, phát hành 12 số tạp chí định kỳ, 12 số tạp chí chuyên đề, 08 số tạp chí chuyên sâu và hoàn thành sách về "Ngành Tư pháp - 70 năm xây dựng và phát triển", góp phần thông tin sâu rộng về vị thế, vai trò công tác tư pháp trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng, phát triển đất nước.

Nhà xuất bản Tư pháp thực hiện tốt công tác biên tập, không để xảy ra sai sót về nội dung đối với các xuất bản phẩm; xuất bản, phát hành các loại sách, biểu mẫu, sổ hộ tịch, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và các cơ quan nhà nước. Trong năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp đã hoàn thành xuất bản 211 cuốn sách; triển khai in 3.705.000 tờ biểu mẫu, 25.885 cuốn sổ hộ tịch, 24.000 cuốn sổ thi hành án dân sự...

- Chương trình "Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời" tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Tư pháp quan tâm, tham gia, góp phần minh bạch, định hướng chính sách, tuyên truyền sâu rộng hơn về các quy định pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ chính trị được giao của Bộ, ngành Tư pháp.

- Công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí tiếp tục được Bộ, các cơ quan, đơn vị trong Ngành thực hiện tốt. Tại Bộ Tư pháp, việc ban hành thông cáo báo chí các VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành được duy trì hàng tháng; việc tổ chức họp báo định kỳ và đột xuất được thực hiện đúng quy định, kịp thời cung cấp thông tin, mang lại hiệu quả thiết thực, trong đó hướng trọng tâm, trọng điểm vào những vấn đề thiết thực được báo chí, nhân dân, dư luận xã hội quan tâm, tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện để thăm dò dư luận; điểm tin báo chí hàng ngày, nắm bắt phản hồi của các cơ quan thông tấn, báo chí, giúp Lãnh đạo Bộ điều phối, chỉ đạo sâu sát, kịp thời các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.

c) Công tác ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính

- Công tác ứng dụng công nghệ thông tin luôn được Bộ, ngành Tư pháp xác định là giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ. Năm 2015, Bộ Tư pháp tiếp tục duy trì, đảm bảo vận hành an toàn, thông suốt Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ; đáp ứng hơn 100.000 lượt truy cập Cổng thông tin điện tử hàng ngày và hàng nghìn lượt truy cập của cán bộ, công chức trên các phần mềm nghiệp vụ. Bộ, Ngành tiếp tục xây dựng, nâng cấp triển khai các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ người dân và doanh nghiệp, cụ thể như: Phần mềm Quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ; Hệ thống phần mềm Quản lý Lý lịch tư pháp (được nâng cấp để đáp ứng việc cấp phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến); Hệ thống phần mềm quản lý quốc tịch; Phần mềm Quản lý cán bộ và các chức danh tư pháp; Phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật... Các Trang thông tin trong một số lĩnh vực trọng tâm của Bộ được xây dựng và đưa vào hoạt động: Trang thông tin Thanh tra; Trang thông tin thống kê; Cổng thông tin điện tử pháp điển và đặc biệt, năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai Trang thông tin cho toàn bộ 63 Cục Thi hành án dân sự toàn quốc.

Cùng với việc đưa Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật hoạt động chính thức, ngày 28/5/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2015/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trong đó quy định về việc xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác văn bản cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, hình thành môi trường nhập dữ liệu và khai thác dữ liệu VBQPPL thống nhất từ trung ương tới địa phương trên môi trường mạng. Đến nay, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã cập nhật được trên 80.000 văn bản do cơ quan Trung ương và địa phương ban hành, đáp ứng nhu cầu tra cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật của người dân, doanh nghiệp; phục vụ đắc lực cho các cơ quan nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất, pháp điển VBQPPL, thi hành và bảo vệ pháp luật.

Đến nay, 100% cán bộ, công chức, viên chức, các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Sở Tư pháp (đơn vị, Giám đốc, Phó Giám đốc, Chánh Văn phòng) đều được cấp hộp thư điện tử phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 12.000 tài khoản). Các cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử để trao đổi công việc. Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp trong những năm gần đây liên tiếp đứng đầu trong danh sách các Bộ, ngành của nước ta về lượng truy cập trên toàn thế giới (theo xếp hạng của Alexa). Hệ thống Hội nghị truyền hình, giao ban, tập huấn trực tuyến được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành, đặc biệt là phục vụ các Hội nghị lớn của Ngành.

- Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin cũng góp phần quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP, giai đoạn 2011- 2015, Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục quán triệt việc xác định cải cách hành chính là một khâu đột phá, trong đó đã xác định CCHC là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, công chức trước Đảng, trước nhân dân. Với vai trò là thành viên Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã tích cực tham gia, đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp có hiệu quả để đẩy mạnh các hoạt động cải cách hành chính nói chung và cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính nói riêng, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những giải pháp được chú trọng. Quy trình giải quyết công việc của ngành Tư pháp từng bước phát huy hiệu quả nhờ sự cải tiến, đổi mới phương pháp xây dựng quy trình theo Hệ thống tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008.

Với những kết quả đạt được, trong nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp luôn thuộc nhóm dẫn đầu trong Bảng xếp hạng mức độ Ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Hạ tầng kỹ thuật thông tin trong toàn Ngành được phát triển; các phần mềm ứng dụng chuyên ngành được đẩy mạnh xây dựng và triển khai, bước đầu đã đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hành chính của ngành và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

d) Công tác thi đua khen thưởng

Năm 2015, các Cụm, các Khu vực thi đua của Ngành đã đẩy mạnh các phong trào thi đua, nhất là thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp. Xác định việc quan tâm phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt là biện pháp quan trọng tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào thi đua của Ngành, nhân dịp tổ chức Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV, toàn Ngành đã tổ chức các Hội nghị điển hình tiên tiến và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã công nhận và tặng Bằng khen cho 103 tập thể và 122 cá nhân là điển hình tiên tiến ngành Tư pháp giai đoạn 2010-2015. Năm 2015, Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động cho 04 tập thể, 07 cá nhân; Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 05 cá nhân; đặc biệt, nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống, ngành Tư pháp đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Huân chương Độc lập hạng Nhất.

Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015 thấy rằng, công tác thi đua khen thưởng đã ngày càng thực chất, gắn với kết quả thực hiện kế hoạch công tác tư pháp hàng năm và nhiệm vụ chuyên môn được giao. Việc xếp hạng các Sở Tư pháp, Cục THADS hàng năm được thực hiện khách quan, chính xác, qua đó, sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương tới công tác tư pháp, THADS ngày càng cao. Việc tổ chức phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” và Cán bộ tư pháp tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào thi đua hàng năm đã mang lại nhiều đóng góp tích cực, tạo động lực mạnh mẽ động viên từng cá nhân, đơn vị phát huy truyền thống, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, nêu cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bên cạnh đó, các Cụm, các Khu vực thi đua của Ngành ngày càng phát huy hiệu quả, phong trào thi đua đã dần đi vào chiều sâu, ngày càng thực chất, tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành các nhiệm vụ trong chương trình, kế hoạch công tác được giao.

12.2. Hạn chế và nguyên nhân

a) Hạn chế

- Chương trình, kế hoạch triển khai công tác năm 2015 tại một số địa phương, đơn vị thuộc Bộ ban hành còn chậm so với yêu cầu.

- Công tác hướng dẫn nghiệp vụ, chuyên môn, trả lời kiến nghị của các đơn vị vẫn còn chậm, các địa phương kiến nghị phải đề xuất nhiều lần, có trường hợp chưa bám sát nội dung kiến nghị. Nhiều kiến nghị của Bộ, ngành địa phương còn lặp lại nhiều lần. Một số đơn vị tổ chức các đoàn công tác địa phương còn chồng chéo về nội dung, việc tổ chức các hội nghị, hội thảo còn tập trung nhiều vào những tháng cuối năm, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết công việc chung.

- Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp còn hạn chế nhất là phần mềm quản lý văn bản điều hành; việc nghiên cứu, bổ sung các dịch vụ công trực tuyến còn chậm.



b) Nguyên nhân

- Công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ ở một số đơn vị chưa thực sự quyết liệt, chưa chú trọng vào khâu xây dựng chương trình, kế hoạch công tác.

- Một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp chưa tập trung cao cho việc trả lời kiến nghị, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời cập nhật những hướng dẫn nghiệp vụ, trả lời kiến nghị từ Bộ Tư pháp. Việc xây dựng kế hoạch đi công tác địa phương, tổ chức các hội nghị, hội thảo chưa khoa học.

II . ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Về thực hiện công tác tư pháp năm 2015

Năm 2015, toàn Ngành đã khẩn trương triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát Chương trình, Kế hoạch công tác, các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương; một số mặt công tác có chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao: Toàn Ngành đã tham gia tích cực, có hiệu quả vào văn kiện trình đại hội Đảng các cấp; đã tiếp tục phát huy tốt vai trò tham mưu, giúp Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương triển khai thi hành Hiến pháp 2013; tổ chức thành công Cuộc thi viết tìm hiểu Hiến pháp, thu hút sự tham gia rộng rãi của cán bộ, công chức và Nhân dân; công tác xây dựng pháp luật nói chung, việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nói riêng có chuyển biến tích cực, nhiều bộ luật, luật quan trọng đã được trình Quốc hội thông qua, được dư luận đánh giá cao, nhất là đối với các đạo luật lớn như Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi), Luật ban hành VBQPPL; kết quả thi hành án dân sự đạt cao hơn so với năm trước; thành công trong việc thí điểm chế định Thừa phát lại, được Quốc hội ghi nhận và cho triển khai chính thức; công tác hành chính tư pháp tiếp tục đạt kết quả tích cực, đã giải quyết một lượng lớn yêu cầu của người dân, chưa để xảy ra sai sót, bức xúc lớn; công tác lý lịch tư pháp từng bước khắc phục được tình trạng chậm cấp phiếu thông qua việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; việc phát triển đội ngũ luật sư, xã hội hóa công chứng tiếp tục được đẩy mạnh, việc phát triển các nghề tư pháp đạt nhiều kết quả tích cực với sự ra đời của đội ngũ quản tài viên; việc tham gia với vai trò đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tiếp tục đạt một số kết quả quan trọng; quản lý nhà nước trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật được tăng cường; cơ sở dữ liệu quốc gia về VBQPPL được vận hành chính thức, phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm quyền được thông tin và tiếp cận thông tin pháp luật của người dân, doanh nghiệp; Bộ, ngành Tư pháp đã hoàn thành nhiệm vụ giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2011-2015 và tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; toàn Ngành cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Truyền thống Ngành và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV, qua đó góp phần giáo dục truyền thống, vun đắp tình yêu Ngành, yêu nghề của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Ngành.

Những kết quả nêu trên đã khẳng định tốt hơn vai trò của các cơ quan tư pháp, pháp chế, góp phần vào thành tựu chung của địa phương, của đất nước về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có được những kết quả nêu trên, trước hết là ngành Tư pháp tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành Trung ương, cấp ủy và chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sự ủng hộ của Nhân dân; sự nỗ lực, phấn đấu của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động toàn Ngành trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tư pháp năm 2015 vẫn còn một số hạn chế, tồn tại. Mặc dù các Bộ, cơ quan đã có nhiều cố gắng và ngày càng chú trọng hơn đến việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh nhưng số lượng văn bản nợ đọng vẫn còn; hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật chưa cao; việc thi hành các vụ án lớn, liên quan đến thu hồi tài sản cho ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn; việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn chậm, việc thực thi thủ tục hành chính chưa nghiêm; việc rà soát, sửa đổi, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính còn chưa được như yêu cầu; việc kiện toàn biên chế, cán bộ theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV còn gặp nhiều khó khăn; việc triển khai một số quy định mới trong lĩnh vực công chứng, chứng thực, xử lý vi phạm hành chính còn lúng túng; việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đạt kết quả như mong muốn... Những hạn chế nêu trên cần nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan để kịp thời khắc phục.



2. Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015

Đánh giá việc thực hiện công tác tư pháp nhiệm kỳ 2011-2015, có thể thấy rằng, đặt trong điều kiện chung của đất nước còn nhiều khó khăn, nền kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, nhưng dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự điều hành sát sao, kịp thời, quyết liệt, sáng tạo của Chính phủ, với những nỗ lực, quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, ngành Tư pháp đã tiến hành triển khai đồng bộ nhiều mặt công tác, bám sát ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, toàn ngành Tư pháp đã có sự trưởng thành, gắn bó hơn với nhiệm vụ chung của đất nước, phối kết hợp tốt hơn, chủ động hơn với các Bộ, ngành, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền địa phương, kết quả công tác đã có những đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của đất nước và từng địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường vị thế đối ngoại của đất nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, người dân. Có thể nói rằng, vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước đã tiếp tục được khẳng định rõ nét hơn; vị thế Ngành từ Trung ương đến địa phương được củng cố và tăng cường vượt bậc. Khái quát một số kết quả chính như sau:

a) Đã tham mưu cho Chính phủ trong việc tổ chức tổng kết thi hành Hiến pháp 1992, tham gia tích cực trong xây dựng và chủ trì tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp mới - bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

b) Phát huy tốt vai trò là cơ quan tham mưu tin cậy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương trong việc hoạch định chính sách, pháp luật; xây dựng và hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Việc hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực quản lý của Ngành đạt được nhiều kết quả, hầu hết các lĩnh vực đều có luật điều chỉnh.

c) Hệ thống cơ quan THADS tiếp tục được kiện toàn và ngày càng phát triển bền vững. Công tác phối hợp, nhất là phối hợp liên ngành trong công tác THADS được chú trọng và phát huy hiệu quả. Kết quả THADS cơ bản đạt và vượt các chỉ tiêu được Quốc hội giao. Thừa phát lại được mở rộng thí điểm và thành công, được Quốc hội ghi nhận, cho triển khai chính thức.

d) Công tác xây dựng Ngành tiếp tục được đẩy mạnh. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng được mở rộng, nhất là ở các lĩnh vực mới, nhiều thử thách như kiểm soát thủ tục hành chính; quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính; theo dõi, đôn đốc việc ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh; đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, thi hành án hành chính... Công tác đào tạo pháp luật có những bước phát triển quan trọng, nhất là đã về đích sớm 02 năm trong việc thành lập mạng lưới các trường trung cấp luật, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cho Ngành và xã hội; tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành và đang từng bước triển khai các Đề án xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội thành trường trọng điểm; Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp.

e) Chủ trương xã hội hoá công tác bổ trợ tư pháp được triển khai quyết liệt, theo đúng tinh thần cải cách tư pháp và đạt nhiều kết quả nổi bật so với nhiệm kỳ trước. Việc phát triển các nghề tư pháp như luật sư, công chứng viên, đấu giá viên, quản tài viên và các tổ chức hành nghề trong các lĩnh vực này đạt nhiều kết quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ pháp lý của người dân, doanh nghiệp. Công chứng Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên minh công chứng quốc tế. Thể chế trong các lĩnh vực này cũng dần được hoàn thiện.

f) Quản lý nhà nước đối với công tác hành chính tư pháp được tăng cường và từng bước được đổi mới theo hướng hiện đại hóa, đơn giản hóa thủ tục hành chính đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân. Việc Quốc hội thông qua Luật hộ tịch là một bước đột phá quan trọng, tạo tiền đề cho việc quản lý dân cư, quản lý xã hội trong giai đoạn mới, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

g) Quản lý nhà nước về PBGDPL và hòa giải ở cơ sở được chú trọng và tăng cường hơn; thể chế, chính sách về PBGDPL, hòa giải ở cơ sở được hoàn thiện, tạo cú hích cho sự chuyển biến về chất trong các lĩnh vực công tác này. Đặc biệt, kể từ năm 2013, Ngày Pháp luật Việt Nam đã được triển khai đồng bộ trên cả nước; thực sự trở thành sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của người dân.

h) Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bộ Tư pháp ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong bảo đảm yêu cầu pháp lý phục vụ hội nhập sâu rộng của đất nước; việc đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế bước đầu đạt nhiều kết quả. Hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật được đẩy mạnh trên cả 3 phương diện (song phương, đa phương và đa phương khu vực), trong đó đã củng cố, nối lại và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ hợp tác truyền thống và mở rộng quan hệ hợp tác mới với các nước và các tổ chức quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.



Bên cạnh những kết quả nổi bật, trong nhiệm kỳ 2011-2015, công tác tư pháp vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; một số định hướng của nhiệm kỳ 2011-2015 chưa đạt được kết quả như mong muốn; thậm chí, có những hạn chế trong nhiều năm liền, kể cả từ nhiệm kỳ trước, nhưng chưa khắc phục hiệu quả, cụ thể là: Năng lực xây dựng và thực thi pháp luật chưa cao, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, một số VBQPPL chưa phù hợp với thực tiễn, tính ổn định chưa cao, nhiều chính sách còn chồng chéo, tình trạng chậm ban hành VBQPPL, nhất là văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh còn phổ biến; hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn thấp, pháp luật chậm đi vào cuộc sống; thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, việc công bố, công khai TTHC vẫn còn chậm, việc thực thi TTHC chưa nghiêm, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp; tình trạng vi phạm trong công tác THADS còn nhiều; việc triển khai một số nhiệm vụ mới của Ngành (quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật) còn lúng túng, nhất là ở các địa phương; công tác hành chính tư pháp còn chậm được đổi mới; công tác nghiên cứu khoa học pháp lý chưa thực sự đi vào chiều sâu, việc xây dựng Chiến lược phát triển ngành Tư pháp còn chậm; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành chưa đạt kết quả như mong muốn.

Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong nhiệm kỳ 2011-2015 nêu trên là: Về khách quan, khối lượng công việc, nhiệm vụ mới bổ sung cho Ngành tăng nhiều, mức độ phức tạp, yêu cầu chất lượng công việc ngày càng cao, trong khi đó tổ chức, biên chế, chất lượng nguồn nhân lực, kinh phí để triển khai chưa theo kịp yêu cầu công việc, đặc biệt là biên chế cho các cơ quan tư pháp địa phương, tổ chức pháp chế; Về chủ quan, sự quan tâm của một số Bộ, ngành và UBND các cấp đối với công tác tư pháp, pháp chế chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra; việc đề xuất kế hoạch công tác đối với một số nhiệm vụ, trong một số lĩnh vực chưa sát với thực tế; sự phối hợp giữa các Bộ, ngành với nhau, giữa Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế; công tác chỉ đạo, điều hành có lúc, có việc chưa chủ động; sự tham mưu của một số tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp cho Lãnh đạo các Bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương chưa kịp thời, đầy đủ, cá biệt có trường hợp chưa theo đúng trọng tâm, trọng điểm.

3. Bài học kinh nghiệm nhiệm kỳ 2011-2015

Thứ nhất, phải biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm, ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, nhất là sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động, tích cực trong thực hiện nhiệm vụ, kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về những khó khăn, vướng mắc hoặc những vấn đề mới.

Thứ hai, xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm, bám sát kế hoạch, nhiệm vụ chính trị của Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương, nhất là các nhiệm vụ phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội; có giải pháp phù hợp, khả thi và tập trung nguồn lực để thực hiện.

Thứ ba, quan tâm xây dựng, hoàn thiện thể chế, nâng cao kiến thức kinh tế, xã hội, khắc phục tư duy pháp lý thuần tuý; chú trọng công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành theo kế hoạch; đặc biệt coi trọng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ tâm, tầm và tài.

Thứ tư, sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, dám chịu trách nhiệm, đương đầu và vượt qua khó khăn; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, lắng nghe ý kiến phản ánh từ cơ sở, từ xã hội; kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn triển khai hoạt động tư pháp.

Thứ năm, chú trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra; thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin; đầu tư nhân lực có chất lượng cao; quy chế hoá cơ chế phối hợp với các Ban, Bộ, ngành Trung ương, cơ quan tại địa phương; chủ động thiết lập, thường xuyên duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành.

Phần thứ hai:

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TƯ PHÁP NHIỆM KỲ 2016-2020;

NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC NĂM 2016

I. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TƯ PHÁP NHIỆM KỲ 2016-2020

1. Tiếp tục phát huy vai trò của Bộ, ngành Tư pháp trong việc tham mưu giúp Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ nội dung, tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; các quy định của Hiến pháp năm 2013 với trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Kết luận của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược này và Luật ban hành VBQPPL năm 2015, phấn đấu đến năm 2020, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Nghiên cứu, đề xuất bổ sung, phát triển Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình mới. Chủ động xây dựng, hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động của Ngành.

2. Tham mưu cho Chính phủ, chính quyền các cấp thực hiện bước chuyển hướng chiến lược sang giai đoạn hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm gắn kết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Tổ chức thi hành hiệu quả Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, bảo đảm đồng bộ với việc triển khai các bộ luật, luật về tố tụng để đưa các chính sách mới mang tính cải cách về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường đi vào cuộc sống. Phấn đấu giảm cơ bản và tiến tới chấm dứt tình trạng trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh; thực hiện pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật. Triển khai thực hiện tốt công tác theo dõi thi hành pháp luật bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ với việc sử dụng có hiệu quả các công cụ kiểm tra VBQPPL, kiểm soát TTHC, theo dõi thi hành pháp luật. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, coi đây là khâu đầu tiên và có vai trò quan trọng trong tổ chức thi hành pháp luật. Từng bước hoàn thiện các quy định kiểm soát hành vi thực thi công vụ, nhất là với những người có vị trí nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội Luật ban hành quyết định hành chính. Tích cực tham gia nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng cơ chế bảo vệ hiến pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.

3. Tạo chuyển biến cơ bản, bền vững, thực chất công tác THADS, hành chính; phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu được giao; hàng năm giảm ít nhất 5% lượng án tồn đọng; khắc phục cơ bản những tồn tại, hạn chế, nhất là đối với công tác phân loại án, công tác thống kê THADS. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, hành chính; tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nhất là cán bộ quản lý đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ. Tập trung giải quyết các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài, giải quyết đúng thời hạn các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan THADS, nhất là kho vật chứng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động THADS. Thực hiện tốt công tác phối hợp liên ngành, phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương trong THADS.

4. Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như công chứng, bán đấu giá tài sản, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý, thừa phát lại, quản lý, thanh lý tài sản, đồng thời triển khai thực hiện tốt các chiến lược, quy hoạch, đề án trong các lĩnh vực này, bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, bảo đảm sự vận hành thông suốt của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đẩy mạnh việc xã hội hóa các lĩnh vực này theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp, phấn đấu đến năm 2020 hình thành được mạng lưới dịch vụ pháp lý rộng khắp, thuận tiện, tin cậy cho người dân, doanh nghiệp. Thành lập Hội công chứng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và hoàn thành các thủ tục thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc. Tăng cường quản lý nhà nước kết hợp với phát huy vai trò tự quản của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.

5. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và pháp chế, trong đó tập trung vào những lĩnh vực như hộ tịch, chứng thực, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước, giao dịch bảo đảm, xử lý vi phạm hành chính; đưa các lĩnh vực công tác tư pháp thực sự đến gần với người dân, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Từng bước hiện đại hóa các lĩnh vực công tác này với trọng tâm là xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử gắn với việc tổ chức thực hiện Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Nghiên cứu xây dựng Luật đăng ký tài sản, phấn đấu đến năm 2020 hình thành hệ thống đăng ký tài sản công khai, minh bạch, dễ tiếp cận.

6. Phát huy vai trò, hiệu quả tham gia của ngành Tư pháp trong việc xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong hội nhập quốc tế, đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước quốc tế, nhất là hiệp định TPP, Việt Nam – EU, Việt Nam – Liên minh kinh tế Á - Âu cũng như quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế. Tiếp tục triển khai, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế; thực hiện có hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định thương mại TPP và Việt Nam - EU. Nghiên cứu, đề xuất vận dụng các quy định linh hoạt trong các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Chủ động, tích cực thực hiện hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước phục vụ hiệu quả cho quá trình cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền; rà soát, đánh giá việc thực hiện các thoả thuận hợp tác đã ký.

7. Đổi mới tổ chức bộ máy và tiếp tục kiện toàn nhân lực ngành Tư pháp phù hợp với Chiến lược phát triển Ngành đến năm 2035 và Đề án vị trí việc làm được phê duyệt, bảo đảm sự gắn kết giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật, có sự phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương, phát triển một số ngành dọc (như trợ giúp pháp lý, hộ tịch), phấn đấu đến năm 2020 khắc phục cơ bản mâu thuẫn giữa việc tăng cường chức năng, nhiệm vụ với số lượng, đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp và pháp luật. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tư pháp cơ sở, bảo đảm am hiểu pháp luật, tinh thông về kỹ năng, nghiệp vụ. Phấn đấu hoàn thành việc xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật vào năm 2020; từng bước mở rộng quy mô đào tạo cử nhân luật với nguồn tuyển sinh là người đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác. Phấn đấu hoàn thành việc xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp vào năm 2020 và thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo chung nguồn 3 chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư.

8. Đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với tinh giản biên chế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ có hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, pháp chế, thi hành án dân sự, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 đối với những lĩnh vực quản lý của Bộ, Ngành theo tinh thần, nội dung Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra gắn với phòng chống vi phạm, tiêu cực, nhũng nhiễu trong toàn Ngành; khắc phục triệt để thói quen tùy tiện, bệnh quan liêu, tham nhũng, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ; đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, tuân thủ kỷ cương, kỷ luật công vụ, sống và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2016

1. Nhiệm vụ công tác tư pháp năm 2016

1.1. Tổ chức học tập, quán triệt và xây dựng Chương trình, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2016-2020, trong đó chú trọng vào các vấn đề liên quan đến cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.

1.2. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật

- Xây dựng trình Quốc hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Tập trung phối hợp chỉnh lý, hoàn thiện các dự án Luật tiếp cận thông tin, Luật đấu giá tài sản; chủ trì xây dựng và hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, các dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi), Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi), Luật chứng thực, Luật lý lịch tư pháp (sửa đổi). Kịp thời xây dựng, trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết có hiệu lực trong các năm 2016, 2017 như: Luật ban hành VBQPPL, Bộ luật dân sự (sửa đổi), Nghị quyết của Quốc hội về Thừa phát lại..., đồng thời tăng cường đôn đốc các Bộ, ngành việc xây dựng văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh.

- Tổ chức thi hành hiệu quả Luật ban hành VBQPPL năm 2015; chú trọng những điểm mới của Luật, nhất là quy định đột phá trong khâu thẩm định, phân tích chính sách pháp luật để bảo đảm tính khả thi của dự án, dự thảo VBQPPL. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định VBQPPL, ưu tiên bố trí đủ nhân lực, nguồn lực đảm bảo thẩm định đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, liên quan đến hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chủ động phát huy công cụ công tác kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền, nhất là các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh và kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc và theo dõi việc xử lý các văn bản trái pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương.

- Tổ chức thực hiện rà soát thường xuyên VBQPPL và theo một số chuyên đề, lĩnh vực phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, trọng tâm là các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp mà Quốc hội vừa thông qua luật (bộ luật) trong năm 2015 và dự kiến thông qua luật (bộ luật) trong năm 2016. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL và Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL; đồng thời, nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các pháp lệnh này, bảo đảm phù hợp với Luật ban hành VBQPPL và phù hợp với thực tiễn triển khai các pháp lệnh.



1.3. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật

- Ban hành đầy đủ, kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, đảm bảo thống nhất, khả thi; kịp thời rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (rút ngắn thời hạn, đơn giản hóa thủ tục lập hồ sơ). Tập trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thống nhất, đồng bộ các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhất là đối với đối tượng là người chưa thành niên; tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; từng bước triển khai thực hiện đầy đủ, chất lượng các nội dung của nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở các Bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc.

- Hoàn thiện thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, toàn diện, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật. Xây dựng và triển khai Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật năm 2016 đáp ứng yêu cầu quản lý, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng địa phương. Đẩy mạnh hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật nói chung và công tác thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành theo hướng lựa chọn lĩnh vực phức tạp, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của người dân, đang là điểm nóng trong dư luận xã hội, được các đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm.

1.4. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính

- Đẩy mạnh đơn giản hóa TTHC, cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó ưu tiên các TTHC phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc quy định TTHC ngay từ khâu dự thảo VBQPPL, góp phần nâng cao chất lượng thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cải cách TTHC theo đúng Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

- Tăng cường công khai, minh bạch TTHC, trong đó chú trọng việc công bố TTHC thuộc phạm vi quản lý hoặc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành, địa phương.

- Triển khai thiết lập và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC tại các cấp chính quyền. Tiếp tục tổ chức thực hiện có kết quả Đề án Tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Xây dựng Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Nghiên cứu, nhân rộng mô hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách TTHC trên phạm vi toàn quốc.

- Tập trung cải cách TTHC trong nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, dịch vụ công và các thủ tục hành chính liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; triển khai thực hiện đầy đủ, đồng bộ và có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.


Каталог: tintuc -> Lists -> ChiDaoDieuHanh -> Attachments
Attachments -> ĐẢng bộ khối các cơ quan tw
Attachments -> BỘ TÀi chính cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ CÔng an số: 411/bc-bca cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Điều Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 103/2013/NĐ-cp ngày 12/9/2013 quy định về xử phạt VI phạm hành chính trong hoạt động thủy sản
Attachments -> Hội nghị toàn quốc sơ kết công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2016
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 1215/btp-pbgdpl v/v tăng cường quản lý về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ TƯ pháp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
Attachments -> VĂn phòng số: 1470/tb-vp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> DỰ thảO ngày 16/12/2014

tải về 0.92 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương