BỘ lao đỘng thưƠng binh và XÃ HỘi tổng cục dạy nghề


Quy trình điều khiển chung vào ra



tải về 0.76 Mb.
trang8/16
Chuyển đổi dữ liệu15.08.2016
Kích0.76 Mb.
#20347
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   16

4. Quy trình điều khiển chung vào ra


Mục tiêu: Nắm được quy trình điều khiển vào ra.

4.1 Các khối điều khiển dữ liệu


Các chương trình hệ thống phải quản lý được các thông tin về các File đang làm việc trong hệ thống, cách thức truy nhập chúng, thông tin về vật dẫn ngoài chứa nội dung các File đó. Để có thể thực hiện được các chức năng của mình, hệ thống xây dựng (hoặc đòi hỏi) một số khối điều khiển dữ liệu. Các khối điều khiển dữ liệu điển hình được giới thiệu ở dưới đây.

Khối FCB (File Control Block): chứa thông tin quản lý làm việc đối với File. Trong một số hệ điều hành thuật ngữ “thẻ File” có ý nghĩa thay thế tương đương. Trong khối này có những thông tin cụ thể về File tương ứng: số lượng bản ghi, bản ghi hiện thời, địa chỉ các khối liên kết v.v…

Khối DCB (Data Control Block): chương trình người dùng được viết theo ngôn ngữ bậc cao thì chương tình dịch tạo DCB, còn nếu được viết theo hợp ngữ thì chương trình người dùng tạo DCB. Khối DCB chứa mọi thông tin liên quan đến điều khiển vào ra: tổ chức File, phương pháp truy nhập, địa chỉ các khối điều khiển liên quan v.v…

Khối UCB (Unit Control Block): chứa thông tin về thiết bị vào ra, vật dẫn ngoài tương ứng, giúp cho quá trình điều khiển thiết bị.

Ngoài ra còn có một số khối mở rộng khác cho điều khiển dữ liệu.

4.2 Ví dụ về sơ đồ chung điều khiển vào ra trong hệ điều hành


Qua xem xét sơ đồ ở hình 2.3 chúng ta thấy:

Chương trình người dùng và chương trình của phương pháp truy nhập ở vùng bộ nhở RAM (địa chỉ của chúng tùy theo trạng thái máy trước khi chúng được nạp vào).

Các chương trình gọi ngắt vào ra, thân ngắt và kết thúc ngắt được đặt trên những địa chỉ xác định. Trong thân ngắt có chứa lệnh bắt đầu vào/ra(SIO: start Input/Output). Như đã biết điều khiển vào ra do kênh đảm nhận và kênh hoạt động theo hệ thống lệnh riêng (lệnh kênh).

(Trong sơ đồ trên, vùng nằm trong đường rời nét là thuộc các vùng nhớ cố định của bộ nhớ trong)

Hình 2.3. Một ví dụ về điều khiển vào – ra trong hệ điều hành OS
Chi tiết quá trình được tóm tắt như sau (xét các máy theo hệ OS):

-chuẩn bị một chương trình kênh (dãy các lệnh kênh)

-xây dựng từ địa chỉ kênh (CAW: channel address Word)

-gửi từ địa chỉ kênh nói trên vào một địa chỉ quy định sẵn

-đưa ra lệnh SIO và tải chương trình kênh (theo kênh và thiết bị tương ứng)

-phân tích kết quả việc tải chương trình kênh

-sau khi tải thành công chương trình kênh, CPU và kênh làm việc song song

-sau khi kết thúc (tốt hay không tốt) công việc vào ra, kênh đưa ra tín hiệu cho ngắt vào/ra. Chương trình xử lý ngắt sẽ phân tích tín hiệu trên để biết thành công hay không và dấu hiệu sai sót.

Chương trình người dùng, dựa vào kiểm tra kết quả vào/ra để xử lý: nếu hoàn thiện thì công việc tiếp tục; nếu có sai sót sẽ tùy từng ngữ cảnh để xử lý.

Nếu chỉ ra rằng, thao tác vào ra không thể kết thúc ngay được thì chương trình sẽ chuyển sang trạng thái chờ đợi.

5. Tổ chức lưu trữ dữ liệu trên bộ nhớ ngoài

Mục tiêu: Nắm được cách thức tổ chức lưu trữ dữ liệu, các phương pháp quản lý trên bộ nhớ ngoài.

5.1. Các khái niệm cơ bản


Yêu cầu quản lý bộ nhớ ngoài

Khi cần lưu trữ các chương trình hoặc dữ liệu, các hệ thống máy tính bắt buộc phải sử dụng bộ nhớ ngoài (đĩa từ, băng từ,...). Nhiệm vụ chính hệ điều hình phải đảm bảo các chức năng sau:

Quản lý không gian nhớ tự do trên bộ nhớ ngoài (free space manage)

Cấp phát không gian nhớ tự do (allocation methods)

Cung cấp các khả năng định vị bộ nhớ ngoài

Lập lịch cho bộ nhớ ngoài

Cấu trúc vật lý đĩa từ

Đĩa từ bao gồm một hoặc nhiều lá đĩa đặt đồng trục. Mỗi mặt đĩa chia thành các rãnh tròn đồng tâm gọi là track, mỗi track được chia thành các cung gọi là sector. Trên mỗi mặt đĩa có đầu đọc ghi dữ liệu.

Hệ điều hành xem đĩa như mảng một chiều mà thành phần là các khối đĩa (disk block). Mỗi khối đĩa ghi các thông tin về mặt đĩa, track, sector mà hệ điều hành có thể định vị trên đó.

5.2. Các phương pháp quản lý không gian tự do


Vì không gian trống là giới hạn nên chúng ta cần dùng lại không gian từ các tập tin bị xoá cho các tập tin mới nếu có thể. Để giữ vết của không gian đĩa trống, hệ thống duy trì một danh sách không gian trống. Danh sách không gian trống ghi lại tất cả khối đĩa trống. Để tạo tập tin, chúng ta tìm trong danh sách không gian trống lượng không gian được yêu cầu và cấp phát không gian đó tới tập tin mới. Sau đó, không gian này được xoá từ danh sách không gian trống. Khi một tập tin bị xoá, không gian đĩa của nó được thêm vào danh sách không gian trống. Mặc dù tên của nó là danh sách nhưng danh sách không gian trống có thể không được cài như một danh sách.
a) Bit vector
Thường thì danh sách không gian trống được cài đặt như một bản đồ bit (bit map) hay một vector bit (bit vector). Mỗi khối được biểu diễn bởi 1 bit. Nếu khối là trống, bit của nó được đặt là 1, nếu khối được cấp phát bit của nó được đặt là 0.

Thí dụ, xét một đĩa khi các khối 2, 3, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 17, 18, 25, 26, và 27 là trống và các khối còn lại được cấp phát. Bản đồ bit không gian trống sẽ là:

001111001111110001100000011100000…

Lợi điểm chính của tiếp cận này là tính tương đối đơn giản và hiệu quả của nó trong việc tìm khối trống đầu tiên, hay n khối trống tiếp theo trên đĩa.

Một lần nữa, chúng ta thấy các đặc điểm phần cứng định hướng chức năng phần mềm. Tuy nhiên, các vector bit là không đủ trừ khi toàn bộ vector được giữ

trong bộ nhớ chính. Giữ nó trong bộ nhớ chính là có thể cho các đĩa nhỏ hơn, như trên các máy vi tính nhưng không thể cho các máy lớn hơn. Một đĩa 1.3 GB với khối 51 bytes sẽ cần một bản đồ bit 332 KB để ghi lại các khối trống. Gom bốn khối vào một nhóm có thể giảm số này xuống còn 83 KB trên đĩa.


b) Danh sách liên kết

Hình 2.4 danh sách không gian trống được liên kết trên đĩa
Một tiếp cận khác để quản lý bộ nhớ trống là liên kết tất cả khối trống, giữ một con trỏ tới khối trống đầu tiên trong một vị trí đặc biệt trên đĩa và lưu nó trong bộ nhớ. Khối đầu tiên này chứa con trỏ chỉ tới khối đĩa trống tiếp theo,..Trong thí dụ trên, chúng ta có thể giữ một con trỏ chỉ tới khối 2 như là khối trống đầu tiên. Khối 2 sẽ chứa một con trỏ chỉ tới khối 3, khối này sẽ chỉ tới khối 4,…(như hình X-10). Tuy nhiên, cơ chế này không hiệu quả để duyệt danh sách, chúng ta phải đọc mỗi khối, yêu cầu thời gian nhập/xuất đáng kể. Tuy nhiên, duyệt danh sách trống không là hoạt động thường xuyên. Thường thì, hệ điều hành cần một khối trống để mà nó có thể cấp phát khối đó tới một tập tin, vì thế khối đầu tiên trong danh sách trống được dùng. Phương pháp FAT kết hợp với đếm khối trống thành cấu trúc dữ liệu cấp phát.
c) Nhóm
Thay đổi tiếp cận danh sách trống để lưu địa chỉ của n khối trống trong khối trống đầu tiên. n-1 khối đầu tiên này thật sự là khối trống. Khối cuối cùng chứa địa chỉ của n khối trống khác, …Sự quan trọng của việc cài đặt này là địa chỉ của một số lượng lớn khối trống có thể được tìm thấy nhanh chóng, không giống như trong tiếp cận danh sách liên kết chuẩn.
d) Bộ đếm
Một tiếp cận khác đạt được lợi điểm trong thực tế là nhiều khối kề có thể được cấp phát và giải phóng cùng lúc, đặc biệt khi không gian được cấp phát với giải thuật cấp phát kề hay thông qua nhóm. Do đó, thay vì giữ một danh sách n địa chỉ đĩa trống, chúng ta có thể giữ địa chỉ của khối trống đầu tiên và số n khối kề trống theo sau khối đầu tiên. Mỗi mục từ trong danh sách không gian trống sau đó chứa một địa chỉ đĩa và bộ đếm. Mặc dù mỗi mục từ yêu cầu nhiều không gian hơn một địa chỉ đĩa đơn,

nhưng toàn bộ danh sách sẽ ngắn hơn với điều kiện là bộ đếm lớn hơn 1.


5.3. Các phương pháp cấp phát không gian tự do

Tính tự nhiên của truy xuất trực tiếp đĩa cho phép chúng ta khả năng linh hoạt trong việc cài đặt tập tin. Trong hầu hết mọi trường hợp, nhiều tập tin sẽ được lưu trên cùng đĩa. Vấn đề chính là không gian cấp phát tới các tập tin này như thế nào để mà không gian đĩa được sử dụng hiệu quả và các tập tin có thể được truy xuất nhanh chóng. Ba phương pháp quan trọng cho việc cấp phát không gian đĩa được sử dụng rộng rãi: cấp phát kề, liên kết và chỉ mục. Mỗi phương pháp có ưu và nhược điểm. Một số hệ thống hỗ trợ cả ba. Thông dụng hơn, một hệ thống sẽ dùng một phương pháp cụ thể cho tất cả tập tin.


a) Cấp phát kề
Phương pháp cấp phát kề yêu cầu mỗi tập tin chiếm một tập hợp các khối kề nhau trên đĩa. Các địa chỉ đĩa định nghĩa một thứ tự tuyến tính trên đĩa. Với thứ tự này, giả sử rằng chỉ một công việc đang truy xuất đĩa, truy xuất khối b+1 sau khi khối b không yêu cầu di chuyển trước. Khi di chuyển đầu đọc được yêu cầu (từ cung từ cuối cùng của cylinder tới cung từ đầu tiên của cylinder tiếp theo), nó chỉ di chuyển một rãnh (track). Do đó, số lượng tìm kiếm đĩa được yêu cầu cho truy xuất kề tới các tập tin được cấp phát là nhỏ nhất.

Cấp phát kề của một tập tin được định nghĩa bởi địa chỉ đĩa và chiều dài (tính bằng đơn vị khối) của khối đầu tiên. Nếu tập tin có n khối và bắt đầu tại khối b thì nó chiếm các khối b, b+1, b+2,..,b+n-1. Mục từ thư mục cho mỗi tập tin hiển thị địa chỉ của khối bắt đầu và chiều dài của vùng được cấp phát cho tập tin này



Hình 2.5 danh sách không gian trống được cấp phát kề


b) Cấp phát liên kết
Cấp phát liên kết giải quyết vấn đề của cấp phát kề. Với cấp phát liên kết, mỗi tập tin là một danh sách các khối đĩa được liên kết; các khối đĩa có thể được phân tán khắp nơi trên đĩa. Thư mục chứa một con trỏ chỉ tới khối đầu tiên và các khối cuối cùng của tập tin. Thí dụ, một tập tin có 5 khối có thể bắt đầu tại khối số 9, tiếp tục là khối 16, sau đó khối 1, khối 10 và cuối cùng khối 25 . Mỗi khối chứa một con trỏ chỉ tới khối kế tiếp. Các con trỏ này không được làm sẳn dùng cho người dùng.

Hình 2.6 danh sách không gian trống được cấp phát liên kết

Một thay đổi quan trọng trên phương pháp cấp phát liên kết là dùng bảng cấp phát tập tin (file allocation table-FAT). Điều này đơn giản nhưng là phương pháp cấp phát không gian đĩa hiệu quả được dùng bởi hệ điều hành MS-DOS và OS/2. Một phần đĩa tại phần bắt đầu của mỗi phân khu được thiết lập để chứa bảng này. Bảng này có một mục từ cho mỗi khối đĩa và được lập chỉ mục bởi khối đĩa. FAT được dùng nhiều như là một danh sách liên kết. Mục từ thư mục chứa số khối của khối đầu tiên trong tập tin. Mục từ bảng được lập chỉ mục bởi số khối đó sau đó chứa số khối của khối tiếp theo trong tập tin. Chuỗi này tiếp tục cho đến khi khối cuối cùng, có giá trị cuối tập tin đặc biệt như mục từ bảng. Các khối không được dùng được hiển thị bởi giá trị bảng 0. Cấp phát một khối mới tới một tập tin là một vấn đề đơn giản cho việc tìm mục từ bảng có giá trị 0 đầu tiên và thay thế giá trị kết thúc tập tin trước đó với địa chỉ của khối mới. Sau đó, số 0 được thay thế với giá trị kết thúc tập tin. Một thí dụ minh hoạ là cấu trúc FAT của hình X-7 cho một tập tin chứa các khối đĩa 217, 618 và 339.


Hình 2.7 Bảng cấp phát tập tin
Cơ chế cấp phát FAT có thể dẫn tới số lượng lớn tìm kiếm đầu đọc đĩa nếu FAT không được lưu trữ(cache). Đầu đọc đĩa phải di chuyển tới điểm bắt đầu của phân khu để đọc FAT và tìm vị trí khối sau đó di chuyển tới vị trí của chính khối đĩa đó. Trong trường hợp xấu nhất, cả hai di chuyển xảy ra cho mỗi khối đĩa. Lợi điểm là thời gian truy xuất ngẫu nhiên được cải tiến vì đầu đọc đĩa có thể tìm vị trí của bất cứ khối nào bằng cách đọc thông tin trong FAT.

c) Cấp phát được lập chỉ mục


Cấp phát liên kết giải quyết việc phân mãnh ngoài và vấn đề khai báo kích thước của cấp phát kề. Tuy nhiên, cấp phát liên kết không hỗ trợ truy xuất trực tiếp hiệu quả vì các con trỏ chỉ tới các khối được phân tán với chính các khối đó qua đĩa và cần được lấy lại trong thứ tự. Cấp phát được lập chỉ mục giải quyết vấn đề này bằng cách mang tất cả con trỏ vào một vị trí: khối chỉ mục (index block).

Mỗi tập tin có khối chỉ mục của chính nó, khối này là một mảng các địa chỉ khối đĩa. Mục từ thứ i trong khối chỉ mục chỉ tới khối i của tập tin. Thư mục chứa địa chỉ của khối chỉ mục (như hình 2.8). Để đọc khối i, chúng ta dùng con trỏ trong mục từ khối chỉ mục để tìm và đọc khối mong muốn. Cơ chế này tương tự như cơ chế phân trang.




Hình 2.8 Cấp phát không gian đĩa được lập chỉ mục


5.4. Lập lịch cho đĩa


Khái niệm về lập lịch cho đĩa

Lập lịch cho đĩa là xây dựng các thuật toán dịch chuyển đầu từ đọc ghi sao cho thời gian truy nhập đĩa là tối ưu nhất.



Một số phương pháp lập lịch

-FCFS


-SSTF

-Scan


-C-Scan

-Look


-C-Look

5.5. Hệ file


Dữ liệu được xử lý trong máy tính được bảo quản lâu dài trên băng từ, đĩa từ, đĩa quang v.v… và dữ liệu được tập hợp lại một cách có tổ chức thành các file dữ liệu theo mục đích sử dụng. File có thể là chương trình của người dùng, một chương trình của hệ điều hành, một văn bản, một tập hợp dữ liệu. Trong một số hệ điều hành, một số thiết bị ngoại vi cũng được quan niệm như file dữ liệu.

Theo góc độ quan sát của người dùng, dữ liệu trong một file lại được tổ chức thành các bản ghi lôgic (gọi tắt bản ghi), mà mỗi bản ghi lôgic có thể là một byte hoặc một cấu trúc dữ liệu nào đó. Bản ghi chính là đơn vị dữ liệu mà chương trình người dùng quan tâm đến và xử lý theo mỗi nhịp làm việc: file là tập hợp (được người dùng quan niệm là một dãy) các bản ghi có tổ chức. Thông thường, trong file tồn tại một thứ tự giữa các bản ghi, thứ tự đó thể hiện vị trí logic giữa các bản ghi với nhau (chẳng hạn như thứ tự đưa bản ghi vào file).





tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương