L.V. Canh, N.T. Ngọc / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 4 (2017) 10-23
20
Một phần trách nhiệm của chúng ta [giáo viên,
cán bộ quản lý] là giúp người học kết nối với
môi trường ngôn ngữ ngoài lớp học – giúp họ
thích ứng được những thay đổi to lớn đang
làm biến đổi thế giới, hoặc ít ra cũng thích
ứng được một phần của những biến đổi đó liên
quan đến việc sử dụng ngôn ngữ (tr. 7).
Những chủ trương xây dựng cộng đồng
học tập ngoại ngữ của Việt Nam là rất vu vơ,
hình thức. Những chủ trương áp dụng công
nghệ một cách duy ý chí, thiếu những chứng
cứ khoa học sẽ chỉ dẫn đến tham nhũng và lãng
phí nguồn lực. Nếu chúng ta chưa hiểu cách
thức người học học ngoại ngữ ngoài lớp học
như thế nào thì những khái niệm như ‘áp dụng
công nghệ trong dạy và học ngoại ngữ” hay
“học kết hợp phương thức truyền thống với học
bằng công nghệ (blended learning) sẽ mãi mãi
là những khái niệm mang tính đãi bôi. Vấn đề
không phải là cố áp dụng công nghệ mới nhất
vào dạy và học ngoại ngữ mà câu hỏi cần đặt ra
là: “Vấn đề X cần được giải quyết bằng công
nghệ nào?”. Nếu không làm như vậy, chúng ta
sẽ rơi vào ‘hiệu ứng đồ chơi mới’.
Từ những kinh nghiệm của các nước châu
Á, Việt Nam cần thay đổi tư duy áp đặt, đề ra
những chủ trương và mục tiêu dạy tiếng Anh
phi thực tế. Tiếng Anh đã là ngôn ngữ toàn
cầu cho nên cần xem lại chủ trương đánh giá
năng lực sử dụng ngoại ngữ của người học
theo tiêu chí sử dụng tiếng Anh của người
bản ngữ. Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo: “Dạy và học ngoại ngữ mà
không chuẩn thì thà không dạy còn hơn. Vì
các em học sai từ nhỏ thì sau này rất khó sửa.
Không phải cứ tốt nghiệp đại học sư phạm
ngoại ngữ là dạy được ngoại ngữ, vì phải
chuẩn và có kỹ năng” (Sài Gòn Giải phóng
Online ngày 17/9/2016,
http://www.sggp.org.
vn/day-ngoai-ngu-khong-chuan-tha-khong-day-
con-hon-145950.html
) cần được bàn lại một
cách khoa học. Không có tiếng Anh nào là
tiếng Anh chuẩn trên thế giới và ngay cả ở
các nước nói tiếng Anh.
Cuối cùng, Việt Nam cần đặt hoạt động
học ngoại ngữ vào vị trí trung tâm của đổi
mới chứ không phải là hoạt động dạy, hay
trình độ ngoại ngữ của giáo viên ở bậc mấy
trong Khung năng lực ngoại ngữ quốc gia.
Thành công trong việc học tiếng Anh của
Phillipines là nhờ phương pháp học chứ
không phải chỉ là nhờ phương pháp dạy. Do
vậy cần chú trọng cả việc bồi dưỡng cách dạy
của giáo viên và cách học của học sinh. Đã
đến lúc những cán bộ quản lý giáo dục có
liên quan đến giáo dục ngoại ngữ ở Việt Nam
phải tự vượt lên chính mình từ bỏ văn hóa ‘ra
lệnh’ hay ‘áp đặt’, từ bỏ suy nghĩ cho rằng
mọi thứ đều có thể đánh giá theo định lượng
và ‘mọi người đều mặc áo cùng một cỡ’. Đặt
ra chuẩn làm mục tiêu phấn đấu là việc cần
làm nhưng chuẩn hóa (standardization) mà
không tính đến sự khác biệt về điều kiện dạy
và học sẽ dẫn đến tai họa.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |