L.V. Canh, N.T. Ngọc / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 4 (2017) 10-23
18
quả cho thấy nhóm bắt đầu học từ lớp 7 vượt
xa nhóm bắt đầu học từ lớp 5 về khả năng sủ
dụng tiếng Anh.Việc đưa tiếng Anh vào các
trường tiểu học cũng ảnh hưởng đến thời gian
dành cho trẻ em phát triển các kỹ năng ngôn
ngữ bằng tiếng mẹ đẻ. Các học giả quốc tế đã
nhiều lần khuyến cáo trẻ em cần được phát
triển các kỹ năng ngôn ngữ bằng tiếng mẹ đẻ
đầy đủ trước khi bắt đầu học một ngoại ngữ
nào đó (Benson, 2008; Haddad, 2008). Đây
cũng chính là quan điểm của UNESCO.
Chủ trương ‘dạy tiếng Anh bằng tiếng
Anh’ gần đây đã bị các nghiên cứu về hiện
tượng chuyển ngữ (code-switching) trong
các lớp học ở châu Á bác bỏ (Braine, 2010;
Macaro, 2009; Barnard & McLellan, 2013).
Các nghiên cứu về việc sử dụng tiếng mẹ đẻ
trong học ngoại ngữ được tiến hành vào đầu
thế kỷ 21 đều khẳng định rằng tiếng mẹ đẻ
là nguồn tài nguyên (resources) quý đối với
quá trình học ngoại ngữ (Canagarajah, 2011;
Creese & Blackledge, 2010; Garcia & Li,
2014; Macaro, 2009). Macaro (2014) cho
rằng: “vấn đề có nên sử dụng ngôn ngữ thứ
nhất trong giao tiếp bằng khẩu ngữ hay trong
các học liệu được in ấn cho các lớp học ngôn
ngữ thứ hai hay ngoại ngữ hay không có lẽ
là vấn đề cơ bản nhất đối với các nhà nghiên
cứu thụ đắc ngôn ngữ thứ hai, giáo viên ngoại
ngữ và những người làm chính sách trong
thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21” (tr. 10). Thế
kỷ 21 là kỷ nguyên đa ngôn ngữ, đa văn hóa.
Do vậy, Việt Nam cũng như các quốc gia châu
Á cần nghiên cứu xây dựng mô hình giảng
dạy song ngữ linh hoạt (dynamic bilingual
model), tránh áp dụng máy móc chủ trương
đơn ngữ tức là dạy tiếng Anh bằng tiếng Anh.
Giáo viên cần được bồi dưỡng những kỹ năng
giúp học sinh biết cách sử dụng tiếng mẹ đẻ
một cách hiệu quả cho việc học tiếng Anh như
một ngoại ngữ (Canagarajah, 2011; Creese &
Blackledge, 2010).
Ở hầu hết các nước châu Á, các phương
pháp dạy ngoại ngữ của châu Âu và Bắc Mỹ
được các học giả địa phương và phương Tây
nhập khẩu trọn gói với một niềm tin không
có căn cứ là cái gì tốt cho phương Tây sẽ tốt
cho châu Á và giúp châu Á sánh ngang châu
Âu. Đã có nhiều bằng chứng khoa học (Butler,
2011; Canh & Barnard, 2009; Chow & Mok-
Cheung ,2004; Hiệp, 2007; Hu, 2005 Li, 1998;
Littlewood, 2007; Nishino & Watanabe, 2008;
Sato and Kleinsasser, 1999; Wang, 2007) cho
thấy rằng hiệu quả của việc bồi dưỡng giáo
viên về các phương pháp giảng dạy ngoại ngữ
của phương Tây là rất hạn chế do nhiều lý do.
Một là, giáo viên không hiểu cơ sở lý luận của
phương pháp giảng dạy mới. Hai là, thiếu sự
hỗ trợ giáo viên thực hiện phương pháp giảng
dạy sau khi được bồi dưỡng. Ba là, phương
pháp giảng dạy mới không tạo ra được sự
gắn kết với văn hóa học truyền thống của địa
phương. Rất tiếc, những kết quả nghiên cứu
này không được các nhà làm chính sách ở các
nước châu Á tiếp thu.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |