Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 33, Số 4 (2017) 10-23
19
không hơn gì chất lượng dạy tiếng Anh ở các
nước châu Á (Driscoll, Macaro & Swarbrick,
2014). Do vậy, các nước châu Á nói chung
và Việt Nam nói riêng cần phải biết cách
tham gia cuộc chơi toàn cầu trong lĩnh vực
dạy tiếng Anh bằng minh triết (wisdom) của
chính mình. Một minh triết như vậy sẽ khuyến
khích các nước châu Á đi tìm cho mình một
mô hình đổi mới dạy, học và đánh giá phù hợp
với những giá trị truyền thống cũng như điều
kiện kinh tế, xã hội của nước mình. Mô hình
đó phải bắt đầu từ những nghiên cứu miêu tả
thực trạng bằng những phương pháp nghiên
cứu và phương pháp báo cáo kết quả phù hợp
và khoa học. Không một mô hình nào, không
một lý thuyết nào có thể giúp chúng ta hiểu
được bản chất của hiện tượng mà không bắt
đầu bằng việc miêu tả hiện tượng. Nói cách
khác phải tìm ra bản chất của vấn đề rồi mới
có thể đưa ra giải pháp mang tính lý thuyết.
Mô hình mới đó phải dựa trên những phân
tích chính trị vi mô (micropolitics), tức là
những yếu tố liên quan đến các bên liên đới và
quan hệ giữa họ với nhau trong quá trình cạnh
tranh hợp tác với nhau để đạt được mục đích
của mình trong một môi trường xã hội cụ thể.
Triết lý đó dựa trên câu nói nổi tiếng của Earl
Stevick (1980, tr. 4) rằng: “Thành công ít phụ
thuộc vào việc phân tích ngôn ngữ, học liệu và
phương pháp giảng dạy mà phụ thuộc nhiều
vào những gì diễn ra bên trong từng con người
và giữa những người hiện diện trong lớp học
ngoại ngữ.” Không có đổi mới nào trong giáo
dục nói chúng và giáo dục ngoại ngữ nói riêng
thành công nếu không quan tâm đến cái đang
diễn ra bên trong người dạy và người học và
giữa người học với người học, giữa người dạy
với người học trong một lớp học cụ thể.
Công việc đó bắt đầu bằng việc đoạn
tuyệt với quan niệm nhấn mạnh vào những
yếu kém (deficiency view), coi kiến thức
và kỹ năng sử dụng tiếng Anh của người
dạy và người học là yếu kém để chấp nhận
quan điểm phát triển (developmental view)
coi kiến thức và kỹ năng đó đang trong quá
trình phát triển. Quan điểm phát triển đặt
trọng tâm vào việc bồi dưỡng và phát triển
động lực vươn tới thành tích (achievement
motivation) của người học và người dạy,
giúp họ thay đổi bản ngã (identity) mà thiếu
yếu tố này thì thành công của việc dạy và
học ngoại ngữ sẽ rất hạn chế (Norton, 2017).
Việc đặt ra những mục tiêu học tiếng Anh
phi thực tế, không dựa trên những chứng
cứ khoa học sẽ chỉ mang tính chính trị và
lãng phí nguồn lực. Trong môi trường học
tiếng Anh như các nước châu Á, do thiếu
môi trường ngôn ngữ cần thiết nên người
học không có nhu cầu trước mắt phải có kỹ
năng sử dụng tiếng Anh nên động lực và sự
đầu tư của học không cao. Năng lực sử dụng
tiếng Anh của giáo viên không đáp ứng đòi
hỏi của việc dạy tiếng Anh theo các phương
pháp giảng dạy do các nước phương Tây
đề xướng. Cho dù Việt Nam và các nước
châu Á khác có đầu tư nâng cao năng lực
tiếng Anh của giáo viên khi quay lại trường
giảng dạy, năng lực đó sẽ giảm đi rất nhanh
do không có môi trường sử dụng tiếng Anh
thường xuyên ở trình độ cao. Do vậy, cần
đặt ra một trình độ ngưỡng cơ bản (threshold
level) để giáo viên phấn đấu chứ không nên
đề ra yêu cầu quá cao vì nó vừa không thực
tế, vừa gây áp lực không cần thiết cho giáo
viên. Đối với việc bồi dưỡng giáo viên,
điều quyết định là giúp họ có kiến thức và
kỹ năng tổ chức các hoạt động tương tác
(interaction) trong lớp học sao cho những
hoạt động đó giúp người học sử dụng được
tiếng Anh ở trình độ cơ bản một cách tự tin.
Một vấn đề quyết định khác đối với việc
dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam là coi trọng
hơn nữa các hoạt động học tiếng Anh ở ngoài
nhà trường hay ở nhà của người học. Muốn
vậy, trước tiên phải tạo được động lực và
hứng thú cũng như thái độ tích cực của người
học đối với tiếng Anh. Đây là một thách thức
không nhỏ. Larsen-Freeman (2016) cho rằng:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |