ĐỀ TÀI: Chính sách đối ngoại đa phương Việt Nam- asean I. Sự thành lập và phát triển, mục tiêu hoạt động của asean



tải về 213.54 Kb.
trang3/8
Chuyển đổi dữ liệu09.06.2023
Kích213.54 Kb.
#54832
1   2   3   4   5   6   7   8
Chính sách đối ngoại đa phương VN ASEAN (NHÓM 13)

2.2. Vai trò của VN với ASEAN
Kể từ trước khi gia nhập ASEAN (năm 1995) đến nay, Việt Nam luôn chủ động tham gia, đóng góp tích cực, có trách nhiệm đối với các hoạt động của ASEAN, được các nước thành viên ghi nhận và đánh giá cao. Để phát huy hơn nữa vai trò của Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo về đẩy mạnh và nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, đặc biệt là trong tổ chức ASEAN.
Là thành viên của ASEAN, Việt Nam luôn chủ động, tích cực và có trách nhiệm khi tham gia vào các công việc của ASEAN. Việt Nam đã phối hợp cùng các nước ASEAN xây dựng những quy định chung, tích cực tham gia các hội nghị, chủ động đóng góp xây dựng nội dung và các cơ chế hợp tác.
Ví dụ như: Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc năm Chủ tịch ASEAN năm 2010, với nhiều sáng kiến và đóng góp quan trọng trong Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), mở rộng Cơ chế Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), thành lập cơ chế Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)... Đặc biệt, trong năm 2020, trước những khó khăn bởi đại dịch Covid-19, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc trọng trách của năm Chủ tịch ASEAN, đó là: ASEAN đã ra được Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao lần thứ 37: “Tuyên bố Tầm nhìn của các nhà lãnh đạo ASEAN về một Cộng đồng ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng: vượt lên các thách thức và duy trì tăng trưởng”
Việt Nam cũng luôn nâng tầm và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương như tham gia một cách thực chất hơn, trực tiếp đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, nắm những vai trò chủ chốt, xác định tính trách nhiệm, nòng cốt, tích cực chủ động, dẫn dắt, đề xuất, xây dựng các luật chơi, quy tắc của ASEAN, định hình con đường phát triển của ASEAN...
III. Chính sách đối ngoại đa phương giữa VN với ASEAN
3.1 Các hoạt động đối ngoại VN – Asean.
Trong tiến trình gia nhập và tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong đổi mới tư duy đối ngoại, từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, “chuyển từ đối đầu sang đối thoại” tới trở thành “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm” trong ASEAN và nay là phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh”. Kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995, đường lối, chính sách đối ngoại với ASEAN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và được chỉ đạo rõ trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
+ VN là một trong 18 thành viên tham gia diễn đàn khu vực Asean (Asean Regional Forum – ARF) ngay từ đầu. Với tư cách là chủ tịch ARF nhiệm kỳ 2000-2001, VN đã phối hợp chặt chẽ với các nước khác trong Asean, duy trì những nguyên tắc cơ bản, bước đi vững chắc của Asean trên con đường tiến tới ngoại giao vững bền vững với Asean.
+ Ngay sau khi gia nhập tổ chức, Việt Nam đã giải quyết nhiều lực cản để tích cực thúc đẩy ASEAN kết nạp các nước Lào, Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm 1999). Điều này đã giúp Việt Nam trở thành cầu nối giữa khu vực Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo. Nhờ đó, đến năm 1999, toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á đã hiện thực hóa giấc mơ về một đại gia đình, quy tụ sức mạnh tập thể của toàn khu vực, xóa bỏ nghi kỵ giữa các dân tộc, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao đáng kể tinh thần tự chủ của khu vực. Việt Nam đã xây dựng quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước.
+ 1998, VN đã đảm nhận nghĩa vụ đầu tiên với việc tổ chức Hội Nghị Cấp Cao Asean lần thứ 6, chủ trì xây dựng và thông qua qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) triển khai Tầm nhìn ASEAN 2010 cũng như đề ra các biện pháp ứng phó với các vấn đề nảy sinh sau khủng hoảng tài chính khu vực, để lại dấu ấn tốt đẹp đầu tiên của Việt Nam trong ASEAN.
+ Ba năm tiếp theo đó, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (2000 - 2001) khóa 34, chủ trì thành công chuỗi các Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và giữa ASEAN với các Đối tác tại Hà Nội tháng 7 năm 2001.
+ Việt Nam tiếp tục có những chính sách đóng góp tích cực cho quá trình xây dựng các văn kiện định hướng lớn đưa ASEAN chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh liên kết và xây dựng cộng đồng như: Tuyên bố Hòa hợp Ba-li II năm 2003, Chương trình Hành động Viêng Chăn (VAP) năm 2004, Hiến chương ASEAN năm 2007, Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2009 - 2015, Kế hoạch công tác Sáng kiến Liên kết ASEAN…
+Việt Nam đã tích cực chủ động trong việc đóng góp nội dung cho “Tuyên bố Bali II” và “Dự thảo cộng đồng Asean” nhằm hình thành Tuyên bố và Kế hoạch hành động của cộng đồng An ninh Asean. VN cho rằng, cách tiếp cận An ninh toàn diện với việc khẳng định sự ổn định của chính trị - xã hội, tăng trưởng kinh tế với thu hẹp khoảng cách phát triển, xóa đói giảm nghèo làm nền tảng và cơ sở đảm bảo sự bền vững của Cộng đồng An ninh Asean (ASC). Ý kiến đề xuất này được các nước Asean nhất trí và được nhấn mạnh trong Hành động của của Cộng đồng An ninh Asean. VN đã vận động nhiều nước khác đề cao chủ quyền quốc gia, dựa vào văn kiện ASC.
+Việt Nam cũng góp phần vào việc mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của Asean, giúp Asean mở rộng thêm nhiều đối tác như Nga, Ấn Đọ, TQ, tổ chức nhiều diễn đàn hợp tác lớn như Asem, Apec 2006.
+ Năm 2010, lần thứ hai khi Việt Nam đảm nhiệm cương vị chủ tịch Asean, sự liên kết và thống nhất của ASEAN phát triển sâu rộng và chặt chẽ hơn.VN hoàn thành các hoạt động thiết thực sau khi ASEAN thông qua các tuyên bố và kế hoạch hành động.

  • Việt Nam đã thúc đẩy mở rộng Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) để Nga và Mỹ tham gia. Theo sáng kiến của Việt Nam, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) được hình thành, với thành viên là các nước ASEAN và các đối tác, rở thành một cơ chế hợp tác đa phương về quốc phòng, góp phần thúc đẩy lòng tin, tăng cường hiểu biết về chính sách quốc phòng giữa các bên.

  • Hợp tác về phát triển tiểu vùng Mekong cũng đạt được những bước tiến quan trọng, với sự quan tâm và tham gia ngày càng lớn từ phía các đối tác của ASEAN. Việt Nam đã tổ chức Hội nghị cấp cao Mekong-Nhật Bản lần thứ 2 và Hội nghị Bộ trưởng các nước hạ nguồn sông Mekong-Mỹ lần thứ 2; đóng góp quan trọng vào thành công của Hội nghị cấp cao đầu tiên của Ủy hội sông Mekong.

  • Hội nghị cấp cao lần thứ 16 do Việt Nam chủ trì đã đóng góp tích cực vào việc triển khai Hiến chương và xây dựng Cộng đồng ASEAN; hợp tác ứng phó với các thách thức toàn cầu, quan hệ đối ngoại của ASEAN và vai trò ASEAN trong khu vực với chủ đề “Hướng tới cộng đồng ASEAN, từ tầm nhìn đến hành động”.

  • Đặc biệt, Hội nghị cấp cao ASEAN 17 đã thông qua Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN nhằm tăng cường kết nối ASEAN cả về hạ tầng, thể chế và người dân, cũng như tạo cơ sở để kết nối ASEAN với khu vực rộng lớn hơn là Đông Á. Về trụ cột chính trị-an ninh, VN đã cùng ASEAN đẩy mạnh việc thực hiện 14 lĩnh vực ưu tiên, phát huy cao độ hiệu quả của các cơ chế, công cụ hợp tác vì hòa bình và an ninh ở khu vực. Đồng thời, chủ động đề xuất Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh (MACOSA), thúc đẩy và khởi động Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các bên đối tác; góp phần làm sâu sắc hơn và mở rộng hơn quan hệ của ASEAN với các đối tác.

  • Về kinh tế, việc thực hiện Kế hoạch tổng thể về xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã tiến hành nghiêm túc theo các chỉ tiêu và lộ trình đã đề ra, đạt được tiến triển khả quan. Với những nỗ lực to lớn ở cả tầm khu vực và quốc gia, ASEAN đã và đang triển khai hiệu quả các lộ trình tự do hóa và thuận lợi hóa về thương mại, dịch vụ, đầu tư, thông qua các thỏa thuận quan trọng như Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), Gói cam kết thứ 8 của Khung hợp tác về dịch vụ…

  • Chủ trì thành công nhiều sự kiện quan trọng: các hoạt động của Quốc hội (Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN-AIPA), hơn 10 Hội nghị cấp Bộ trưởng và trên 20 Cuộc họp cấp quan chức liên quan đến cả chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội, cũng các hoạt động của các tổ chức quần chúng (Diễn đàn Nhân dân ASEAN) và doanh nghiệp (Hội nghị Thượng đỉnh về Kinh doanh và Đầu tư ASEAN)…

  • Việt Nam đã vận động thành công để thay mặt ASEAN tham dự Cấp cao G 20 tại Canada và Hàn Quốc và đã có những đóng góp quan trọng và thiết thực cho kết quả của các Hội nghị này trên cơ sở tham vấn chặt chẽ với các nước ASEAN khác.

Về an ninh và hòa bình, phải kể tới những đóng góp cụ thể của Việt Nam trong việc xây dựng Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) hiệu quả và hiệu lực nhằm góp phần đảm bảo hòa bình và ổn định ở khu vực Biển Đông. Ngoài ra, các công cụ bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực tiếp tục được củng cố và phát huy tác dụng, nhất là Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Hiệp ước về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ)
Cũng như tại văn kiện Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) nêu rõ Việt Nam phải: Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhiệm vụ được xác định là phấn đấu cùng các nước ASEAN xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.
+ Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016) đã xác định phương hướng đối với hợp tác trong ASEAN là “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh,” “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc.”
Với định hướng này, việc tham gia ASEAN trở thành một trong những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, một trọng tâm chiến lược của ngoại giao đa phương trong ASEAN của Việt Nam. Vì vậy, cần “phải nhận thức rõ tầm quan trọng của ASEAN trong tổng thể các hoạt động đối ngoại, coi ASEAN là vành đai an ninh trực tiếp của đất nước, là ngôi nhà chung của mình.”
+ Giữa năm 2019, Việt Nam đã hoàn tất việc ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EVFTA), và sau đó cuối năm 2020 là với Vương quốc Anh (UKVFTA. Hiệp định thương mại song phương này mang tới một sự tiếp nối quan trọng đối với mối quan hệ thương mại năng động và phát triển nhanh chóng của hai bên. Năm 2019, các doanh nghiệp vương quốc Anh đã xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá hơn 600 triệu bảng Anh sang Việt Nam. Cũng trong năm 2019, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang Anh với trị giá khoảng 4,6 tỷ bảng Anh. hai đối tác lớn và quan trọng hàng đầu đối với bất kỳ quốc gia nào.
+ Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với 5 nước, nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược với hai nước gồm Australia năm 2018 và New Zealand năm 2020, từ đối tác chiến lược lên đối tác chiến lược toàn diện với một nước là Ấn Độ năm 2016, nâng tổng số quan hệ đối tác chiến lược/ đối tác toàn diện lên 30 nước.
+ Năm 2020, đánh dấu 25 năm gia nhập ASEAN, cũng là lần thứ ba đảm đương cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung khi đó phải đối mặt với những thách thức to lớn do đại dịch COVID-19 gây ra. Việt Nam đã chứng tỏ bản lĩnh và vai trò dẫn dắt, chủ động của nước Chủ tịch luân phiên. Dưới sự chủ trì của Việt Nam, ASEAN đã tổ chức một loạt hội nghị trực tuyến nhằm thảo luận cách ứng phó với dịch, như tổ chức thành công hai hội nghị cấp cao ASEAN 36 và ASEAN 37; Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN và ASEAN+3 về đại dịch COVID-19. Nhiều sáng kiến về hợp tác ứng phó với COVID-19 và phục hồi sau đại dịch đã được công bố và đưa vào triển khai trong năm 2020 như: Quỹ ASEAN ứng phó COVID-19, Kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp ASEAN, Khung chiến lược ASEAN về các tình huống khẩn cấp, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và Kế hoạch triển khai,….

tải về 213.54 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương