* howard b. Wilder robert p. Ludlum harriett mc. Cune brown


- Ông John Fitch thất bại trong việc phát triển tàu chạy bằng hơi nước



tải về 2.16 Mb.
trang22/33
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.16 Mb.
#9902
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   33

- Ông John Fitch thất bại trong việc phát triển tàu chạy bằng hơi nước

Một trong những người đầu tiên đi tìm giải đáp cho vấn đề này là ông John Fitch, một người thợ khóa ở Connecticut, đến sinh sống ở Philadelphia. Năm 1787, ông cho hạ thủy một chiếc tàu thô sơ chạy bằng hơi nước ở trên sông Delaware. Sau này, ông lại đóng một chiếc tàu chạy bằng hơi nước khác và đã cho chạy được nhiều chuyến đi từ Philadelphia đến Trenton. Nhưng ông John Fitch lại thiếu kỹ năng và tiền bạc để phát triển hẳn một chiếc tàu chạy bằng hơi nước cho tới hoàn toàn thành công. Ông chết đi trong cảnh đau lòng không một đồng xu dính túi.



- Robert Fulton đóng chiếc tàu đầu tiên thành công chạy bằng hơi nước

Một người Hoa Kỳ khác tên là Robert Fulton đã chiếm được thành tích trong việc chế tạo được chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Xuất thân trong một gia đình tầm thường ở Pennsylvania, Fulton học hành chẳng được bao nhiêu. Lớn lên ông trở thành một nghệ sĩ và sinh sống bằng nghề bán những họa phẩm của ông. Năm 21 tuổi, ông đi Âu châu và ở đấy ít lâu. Sau đó ông thích thú để ý đến máy móc và các phát minh khoa học hơn là nghệ thuật. Ông bắt đầu cho thí nghiệm ý định cho đặt một chiếc máy chạy bằng hơi nước trong một chiếc tàu. Nếu thành công thì chiếc tàu này sẽ không phải tùy thuộc vào gió trời hay các dòng sông. Tàu này cũng có thể chạy nhanh hơn các thuyền buồm.

Sau thời gian làm việc cần cù và kiên nhẫn để đặt kế hoạch, Fulton cho hạ thủy chiếc tàu chạy bằng hơi nước vào năm 1803. Tàu chìm ngay tức khắc. Không nản lòng, Fulton lại đóng một chiếc tàu khác. Mặc dầu tàu này không chìm nhưng nếu so với sức mạnh của nó thì tàu chạy rất chậm. Fulton trở về Hoa Kỳ và khởi công đóng chiếc tàu khác nữa chạy bằng hơi nước.

Đầu năm 1807, một chiếc tàu mới của ông chạy bằng hơi nước sắp được hoàn thành tại bến tàu bên bờ sông East ở thành phố New York. Những người đến coi chiếc tàu đang được đóng cười ngạo chế giễu nhà sáng chế ra nó và gọi chiếc tàu của ông là “Sự điên rồ của Fulton”. Tuy nhiên, Fulton vẫn tiếp tục công trình của ông. Một ngày vào tháng 8, chiếc tàu Clermont chạy bằng hơi nước của ông được chuẩn bị để thí nghiệm chuyến đi trên sông Hudson. Chiếc tàu trông thật là kỳ lạ đối với những người xếp hàng hai bên bờ sông để xem. Khói và than lửa từ các ống khói phùn phụt phun lên. Máy móc thì phát ra những tiếng kêu loảng xoảng inh ỏi, và các bánh xe quay làm tung tóe nước lên cả hai bên bờ sông. Con tàu vẫn chạy đều đều ngược dòng sông đi tới tận Albany và trở lại nơi khởi hành. Tính ra tàu chạy được quãng đường vừa đi vừa về dài chừng ba trăm dặm trong 62 tiếng đồng hồ. Sau chuyến đi này Robert Fulton viết:

“Lực đẩy của chiếc tàu có cánh quạt đẩy mạnh bằng hơi nước đã được xác nhận. Buổi sáng mà tôi rời New York có lẽ không có hơn 30 người trong thành phố tin rằng tàu này có thể chạy được một dặm một giờ hay là sẽ ít được sử dụng nhất. Trong khi hạ thủy, bến tàu chật ních những người xem, tôi đã nghe thấy những lời lẽ mỉa mai chế nhạo. Đây là một cách của những người ngu dốt khen ngợi những nhà phát minh”.

- Tàu chạy bằng hơi nước đã tỏ ra có giá trị

Chiếc tàu chạy bằng hơi nước của Fulton không còn bị chế giễu là “Sự điên rồ của Fulton” nữa. Người ta cải tiến và đóng thêm nhiều tàu khác nữa. Mấy năm sau, tàu chạy bằng hơi nước chất chứa hàng hóa và hành khách phùn phụt nhả khói tấp nập ngược xuôi trên các dòng sông lưu thông quan trọng. Tuy nhiên, tàu chạy bằng hơi nước vào lúc đầu còn có nhiều nguy hiểm. Đá ngầm, cây nổi, nước chảy xiết và nồi súp de nổ thường gây ra nhiều tai nạn. Đôi khi còn xảy ra hỏa hoạn do than lửa phun ra từ các ống khói gây nên. Gặp trường hợp này hành khách và nhân viên trong tàu phải xúm lại dập tắt ngọn lửa tàn hại. Có khi có những vụ đụng tàu rất nguy hiểm do sự liều lĩnh trong các cuộc chạy đua tranh chấp nhau mà ra.

Dù rằng gặp phải những nguy hiểm như vậy, nhưng sự di chuyển bằng tàu chạy bằng hơi nước vẫn gia tăng đều đều. Tàu chạy bằng hơi nước ở các Đại hồ đã chuyên chở được rất nhiều người đến miền Tây định cư, và chuyển vận hàng hóa đi lại giữa hai vùng này. Vào cuối thập niên 1830, người ta đã đem tàu chạy bằng hơi nước ra chạy thí nghiệm ở ngoài biển khơi và đã thành công. Tuy nhiên, người Hoa Kỳ vẫn còn bấu víu bám chặt lấy tàu buồm chạy nhanh và đã để cho người Anh đi trước họ trong hình thức mới này của ngành chuyển vận hàng hải.

- Xe lửa chạy bằng hơi nước xuất hiện

Trong khi người ta đang hăng hái phát triển tàu thuyền chạy bằng hơi nước, thì các nhà phát minh khác cũng cố gắng tìm cách sử dụng máy hơi nước để cải tiến phương tiện chuyển vận trên bộ. Ông Oliver Evans là một trong những người này. Ông Evans tin rằng xe lửa sẽ được chế tạo theo như ông tiên đoán vào năm 1812.

“Rồi đây người ta sẽ di chuyển từng một đoạn đường từ một thị trấn này đến một thị trấn khác bằng xe có động cơ chạy bằng hơi nước nhanh như chim bay từ 15 đến 20 dặm một giờ…Xe khởi hành ở Washington vào buổi sáng, hành khách sẽ ăn sáng ở Baltimore, ăn cơm chiều ở Philadelphia, và ăn tối ở New York trong cùng một ngày.

Muốn chu toàn công trình này, người ta phải đặt ra hai hàng đường rày bằng gỗ hay bằng sắt cùng ở trên một mặt phẳng bằng đá xanh hay đá sỏi, với một đường rày hướng dẫn xe để có thể chạy vượt nhau theo nhiều hướng khác nhau, và có thể chạy ban đêm dễ dàng như ban ngày vậy. Hành khách sẽ có thể ngủ thoải mái ở trong xe trên các đoạn đường này, giống như người ta di chuyển bằng các tàu thuyền chạy bằng hơi nước hiện nay”.

Dù rằng tư tưởng của ông Evans đối với chúng ta ngày nay rất là hợp lý, nhưng hầu hết dân chúng lúc bấy giờ lại chế giễu nhạo báng ông. Tuy nhiên, nhiều quãng đường rày (lúc bấy giờ thì bằng gỗ, sau này thì được bọc sắt) đã được thiết lập từng đoạn ngắn. Người ta đã sử dụng ngựa kéo các toa xe chạy trên các đường rày như vậy. Một người Anh tên George Stephenson phát minh ra chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước. Tới năm 1830, ông Peter Ceoper đóng một đầu máy xe lửa đặt tên là Tom Thumb, cho thí nghiệm ở Baltimore, Maryland và đạt được thành công. Cuộc thí nghiệm này được thực hiện trên đoạn đường Baltimore – Ohio, con đường rày mà người ta thường dùng ngựa kéo các toa xe lửa chạy trên đó. Đã có dịp chiếc Tom Thumb chạy đua với chiếc xe có ngựa kéo. Chiếc Tom Thumb đã vượt chiếc xe có ngựa kéo nhưng lại bị bể trên con đường chiến thắng. Rốt cuộc chiếc xe có ngựa kéo lại thắng cuộc.

- Những chiếc xe lửa lúc đầu như thế nào?

nếu đem so sánh với những chiếc xe lửa có những toa móc theo sau dài dằng dặc của ngày nay thì chiếc xe lửa của ngày xưa giống như những đồ chơi kỳ quặc. Động cơ đầu máy rất xấu xí, toa kéo thì mở trần, và dùng củi gỗ đốt thay vì dùng than. Tốc độ thì thật là chậm đến nỗi trong cuộc chạy đua với các toa xe có ngựa kéo thì cả hai loại xe chạy gần như ngang nhau. Nhiều người không tin tưởng vào những phát minh này. Họ không những coi xe lửa là một việc nguy hiểm mà còn cho rằng thượng đế không muốn cho nhân loại di chuyển bằng những phương tiện máy móc quá nhanh như vậy. Những người không đủ can đảm để thử di chuyển bằng đường xe lửa mới này thì lại cho rằng dùng đường xe lửa không được thoải mái. Những toa xe lúc đầu không hơn gì những chiếc xe ngựa kéo là bao nhiêu. Đường xá thì không được bằng phẳng, có nhiều chỗ nứt nẻ làm cho hành khách phải chịu cực nhọc vì xe dằng, xóc giật nẩy cả người lên. Khói và bồ hóng bay tạt cả vào mặt người ta, và những mảnh than lửa tung tóe ra làm cháy lỗ chỗ cả quần áo hành khách. Các nhà nông thì phàn nàn rằng đầu máy xe lửa đã gây ra những tiếng động ghê gớm làm cho gà của họ không còn đẻ trứng, và bò bị mất sữa.

Ông Charles Dickens, một nhà văn nổi tiếng người Anh đã viết về một chuyến đi bằng xe lửa trong thời gian ông viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1842. Ông viết như sau:

“Con tàu dừng lại trong rừng hoang vắng, nơi mà không một ai muốn có một lý do nào để đi ra ngoài xe được. Sự vô cùng tuyệt vọng của mọi người đều như nhau là đều ở lại trong tàu. Tàu chạy băng qua xa lộ có thu thuế. Qua đường mà cũng không có cổng, không có cảnh sát, không có dấu hiệu gì hết, ngoại trừ một khung gỗ hình cong trên đó viết chữ bằng sơn “Khi nào có chuông kêu, hãy trông chừng xe lửa”. Tàu lại hấp tấp lao vút vào trong rừng một lần nữa rồi hiện ra trong ánh sáng, làm rung chuyển các khung cửa mong manh, gây chuyển động cả mặt đất rồi phóng xuống chui qua chiếc cầu gỗ như bị khuất dạng ánh sáng trong chớp mắt, rồi thình lình làm những người ngủ gật phải thức dậy, gây vang động trên đường phố chính của thành phố lớn, và ngẫu nhiên lao tới giữa đường. Ở đó, các ông thợ máy đang làm việc, người người tựa vào cửa ra vào và cửa sổ, trẻ em đang thả diều và chơi bi, đàn ông hút thuốc, các bà nói chuyện, con nít bò lê, đàn heo ủi đất kiếm ăn, có những con ngựa chưa quen đang chồm lên lao xuống, tất cả choán kín cả mặt đường rầy. Những mảnh vụn than lửa từ trong lò than củi cháy phụt ra, làm tung tóe như nước mắt của con rồng điên của đầu máy, kêu thất thanh, hú lên, rồi thở hồng hộc. Sau cùng con quái vật dừng lại bên đường để uống nước (để lấy nước) dân chúng xúm lại vây quanh và bây giờ bạn mới có thì giờ để thở”.



- Đường hỏa xa ở Hoa Kỳ phát triển rất nhanh

Những đầu máy xe lửa và các toa xe luôn luôn được cải tiến, và các đường xe lửa được phát triển rất mau. Năm 1830, Hoa Kỳ có chừng 30 dặm đường rầy, 10 năm sau, con số này lên tới 2800, năm 1850 tăng lên đến 9 ngàn dặm. Đường xe lửa lúc đầu chỉ là những đoạn ngắn, thường là để nối liền hai thành phố quan trọng với nhau. Ba con đường chính là Baltimore- Ohio, đường Pennsylvania và đường Nữu Ước trung ương được thiết lập trong giai đoạn ban đầu này. Vào lúc đó, hầu hết các đường đều chạy theo hướng Đông Tây. Trong thời gian khá lâu, rất ít có đường nối liền miền Bắc với miền Nam.

­- Tại sao các đường xe lửa lại quan trọng?

Trong các phương tiện di chuyển được phát triển ở Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ XIX thì xe lửa là quan trọng hơn cả. Các xí nghiệp ở miền Đông Bắc mong muốn có thị trường để tiêu thụ hàng hóa kỹ nghệ của họ. Xe lửa đã giúp các xí nghiệp này để chuyển vận hàng hóa của họ một cách dễ dàng đến với nông dân miền Tây đang cần mua. Ngược lại, xe lửa cũng chuyển vận những sản phẩm của miền Tây đến các thị trường ở miền Đông. Chuyển vận bằng xe lửa mau hơn là chuyển vận bằng đường bộ khác và đường thủy. Người ta có thể dùng xe lửa để chuyển vận hàng hóa tới những nơi không thể nào dùng đường thủy được.

Xe lửa đã giúp cho người ta di chuyển và chuyển vận hàng hóa được dễ dàng hơn. Xe lửa giúp cho miền Tây và miền Đông Bắc gần nhau hơn.

NHỮNG PHÁT MINH MỚI CÁCH MẠNG NGÀNH GIAO THÔNG TRUYỀN TIN



- Cần phải có những phương tiện giao thông truyền tin nhanh chóng

Dù rằng vào đầu thế kỷ thứ XIX, các phương tiện chuyển vận đã được cải thiện rất nhiều nhưng người ta vẫn chưa có cách gì để gởi thư tín được một cách mau chóng. Muốn giao dịch với một người ở xa thì cần phải đi tới nơi để gặp người đó hay là phải viết thơ cho người đó. Vào khi mà dân định cư càng tiến xa về phía Tây thì việc giao dịch với người ở xa được dễ dàng và mau lẹ càng trở nên quan trọng. Rồi thì xe lửa cũng cần có một cách nào để gửi thư tính cho được mau lẹ. Nếu các thư tín từ trạm này đến trạm khác mà không được gửi đi trước thì rất khó mà kiểm soát được việc lưu thông của xe lửa.



- Ông Morse phát minh ra tín hiệu

Ông Samuel F.B. Morse khám phá ra một cách để đáp ứng nhu cầu này. Giống như Robert Fulton, ông Morse vốn là một nghệ sĩ có tài và cũng rất thích chú ý theo dõi khoa học. Đặc biệt ông rất chú ý về điện học. Ông tin rằng nhờ điện lực, ông có thể gửi thư tín qua một đường dây thép. Ông khởi sự thực hành hàng loạt thí nghiệm để chứng minh tư tưởng của ông.

Vào khoảng năm 1837, Morse được an ủi khích lệ rất nhiều. Ông thành công trong việc phát minh ra một dụng cụ được gọi là Telegraph (điện tín). Dụng cụ này có thể gửi âm thanh qua một dây bằng đồng dài 1700 bộ. Để có thể truyền đi xa và sử dụng âm thanh, Morse phát minh ra một hệ thống ký hiệu âm thanh gọi là Morse Code gồm những chấm và gạch thay thế cho mẫu tự A, B, C… Nhưng muốn chứng minh rằng phát minh của ông thật hữu dụng, ông phải lo kiếm đủ tiền để thiết lập một đường dây điện tín dài hơn. Trong nhiều năm, Morse cùng các bạn bè của ông đã cố gắng một cách vô ích để lôi cuốn các ông dân biểu quốc hội chú ý đến kế hoạch của ông. Ông rất nghèo, nghèo đến nỗi không đủ tiền nuôi gia đình và chính ông vẫn thường nhịn đói. Sau cùng, khi ông thất vọng gần đến tuyệt vọng, Quốc hội mới thuận chi tiền cho dự án của ông. Đường điện tín từ Washington đến Baltimore dài chừng 40 dặm được thành lập.

- Thành công trong việc gửi điện tín

Tháng 5, năm 1844, ông Morse ở Washington chuẩn bị gửi một lá thư qua đường điện tín cho các bạn bè ở Baltimore. Ông đánh đi câu “thượng đế đã làm được những gì?”. Tại đầu kia của đường dây, người ta ghi nhận bức điện tín một cách rõ ràng và lại đánh lại cho ông đúng như vậy. Điện tín là một sự thành công của loài người.

Nhu cầu của điện tín thật là vô cùng lớn lao đến độ người ta cho phát triển các đường điện tín một cách mau lẹ. Tất cả các thành phố lớn dọc theo duyên hải miền Đông đều được thiết lập các đường điện tín. Điện tín đã làm cho báo chí dễ dàng có tin tức hàng ngày trong toàn quốc đăng trên mặt báo. Thư tín của các công việc làm ăn và việc riêng cũng có thể được gởi đi một cách mau chóng. Nếu các đường xe lửa được sử dụng cho việc di chuyển bằng xe lửa đi về khắp nơi thì điện tín của ông Morse đã giúp cho người ta được gần nhau nhiều hơn.

*

* *



CHƯƠNG XV

MIỀN NAM TRỞ THÀNH VƯƠNG QUỐC BÔNG VẢI
Nhiều người trong các bạn đọc sách này là những người cư ngụ trong các thành phố lớn. Thành thị, có rất nhiều ảnh hưởng đối với các bạn đó. Nó ảnh hưởng tới nhà cửa, trường học, và cả đến những cách giải trí của các bạn trong những giờ nhàn rỗi. Đối với các bạn sinh sống ở nơi thôn dã đồng ruộng, cách sinh hoạt của các bạn đó có phần nào khác với cách sinh hoạt của người dân thành thị. Một vài người trong các bạn đã từng sinh sống ở nhiều nơi trong đất nước. Hẳn các bạn đó biết rõ ràng cách sinh hoạt ở khắp trong đất nước Hoa Kỳ không giống nhau.

Vào giữa thế kỷ thứ XIX, những sự khác biệt về sinh hoạt giữa các miền trong lãnh thổ đất nước còn rõ rệt nhiều hơn như chúng ta thấy ngày nay. Như chúng ta đã thấy trong chương XIV, miền Đông Bắc đã trở thành trung tâm kỹ nghệ, thủy vận và thương mại. Miền Nam vẫn còn là miền chuyên về nông nghiệp như thời thuộc địa. Tuy nhiên, vào khoảng năm 1860, bông vải vượt xa các nông phẩm khác và đã trở thành sản phẩm chính của miền Nam.

Chương này nói về “Bông vải trở thành vua” ở miền Nam như thế nào. Chúng ta sẽ tìm hiểu công việc trồng bông vải đã biến đổi lối sinh hoạt ở miền Nam và làm cho nô lệ trở nên quan trọng. Chúng ta hãy tìm hiểu những vấn đề dưới đây:

1. Máy cán bông vải đã làm thế nào khiến cho bông vải trở thành nông phẩm chính ở miền Nam?

2. Trước năm 1860 dân chúng ở miền Nam sinh sống ra sao?

3. Lối sống khác biệt có khuynh hướng phân chia đất nước ra làm hai miền Nam, Bắc như thế nào?

*

* *
PHẦN MỘT



MÁY CÁN BÔNG ĐÃ LÀM THẾ NÀO KHIẾN CHO BÔNG VẢI TRỞ THÀNH NÔNG PHẨM CHÍNH Ở MIỀN NAM
Miền Nam vốn là miền chuyên về nông nghiệp từ khi có người da trắng đến lập nghiệp định cư. Từ thời thuộc địa cho đến năm 1790 chỉ có thay đổi chút ít. Nô lệ vẫn còn làm mọi công việc trong các đồn điền lớn và ở trong các gia đình. Người ta còn trồng rất nhiều chàm, thuốc lá và lúa, gạo để xuất cảng. Mặc dầu người ta trồng bông vải nhưng bông vải không mang nhiều lợi bằng các loại cây mùa khác. Trái bông gồm có hạt và sợi bông, rất khó mà tách rời được sợi bông ra khỏi hạt bông. Chỉ khi nào hạt bông được tách rời ra thì sợi bông mới có thể sử dụng để dệt thành vải được. Người ta phải tách rời hạt bông ra khỏi sợi bông bằng tay. Một người phải mất cả ngày mới tách rời được chừng một cân sợi bông ra khỏi hạt bông.

- Eli Whitney phát minh ra máy cán bông

Từ lâu, các ông chủ đồn điền vẫn hằng mong muốn có một loại máy có thể tách rời hạt bông ra khỏi sợi bông một cách mau chóng và dễ dàng hơn là phải làm bằng tay như vậy. Ông Eli Whitney đã phát minh ra một cái máy để làm công việc này. Ngay khi còn là một thanh niên trẻ tuổi, ông Whitney đã chú ý rất nhiều đến cơ khí. Người ta nói rằng ông tháo rời chiếc đồng hồ của phụ thân ông rồi lại ráp vào khéo đến nỗi phụ thân ông không hề biết được ông đã làm như vậy. Sau khi tốt nghiệp đại học Yale, cậu thanh niên Whitney nhất quyết trở thành một nhà giáo. Ngay sau đó, ông được một trường học ở Carolina mời dạy. Những gì đã xảy ra theo sau đó đều được ông viết trong bức thơ gởi cho thân phụ ông:

“Từ Nữu Ước, con cùng với gia đình của cố Trung tướng Greene đến Georgia. Chúng con đi thẳng tới đồn điền của gia đình này chỉ cách Savannah có 12 dặm. Con hy vọng ở lại đồn điền chừng 4 hay 5 ngày rồi sau đó con sẽ đi Carolina để nhận công việc ở trường học như con đã thưa với ba ở trong những lá thư trước. Trong thời gian gần đây, con còn được nghe rất nhiều về sự vô cùng khó khăn của công việc cán bông, nghĩa là việc tách rời sợi bông ra khỏi hạt bông. Một số lớn các vị đáng kính ở trong gia đình này, (bà Greene) đều đồng ý rằng nếu có ai phát minh ra một cái máy có thể cán bông một cách mau lẹ thì đó là một điều vô cùng lớn lao cho cả đất nước và người phát minh ra nó. Con…ngẫu nhiên đang suy nghĩ về vấn đề này, và cố gắng phác họa một họa đồ về một cái máy ở trong đầu óc con…Trong vòng 10 ngày, con đã thực hiện được một mẫu hình nhỏ mà người ta đề nghị với con rằng nếu con bằng lòng từ bỏ mọi quyền lợi và danh nghĩa của cái mẫu hình này thì con sẽ được 100 đồng guinea (bằng vàng, tương đương với 500 mỹ kim). Con quyết định từ bỏ việc dạy học và quay ra miệt mài hoàn tất cái máy này. Trước khi con đi khỏi, con đã hoàn thành chế tạo được chiếc máy chỉ cần một người quay nó, và như vậy số bông cán được nhiều gấp 10 lần của một người dù bằng cách nào đi nữa để nhặt hạt ra khỏi bông như trước kia. Bông cán bằng máy của con chế tạo còn tốt đẹp hơn những cách thông thường khác. Có thể dùng ngựa hay thủy lực để quay máy này một cách dễ dàng. Một người và một ngựa sẽ cán được một số lượng bông nhiều hơn 50 người làm như vậy với các loại máy cũ. Nó đã giảm đi được 50 lần nhân công mà không phải loại một lớp người nào ra khỏi công việc”.

Whitney chế tạo cái máy cán bông đầu tiên của ông vào năm 1793. Tuy nhiên, công việc phát minh lại đem lại cho ông rất ít tiền. Đã thế, nó lại còn làm cho ông gặp rất nhiều rắc rối. Muốn được quyền độc nhất để chế tạo và bán công trình phát minh của mình, nhà sáng chế phải được chính phủ cấp cho bằng chứng nhận phát minh. Ông Whitney nhận được cái bằng chứng nhận phát minh ra máy cán bông của ông, nhưng vì rằng tư tưởng trong công trình phát minh của ông quá đơn giản cho nên nhiều người khác đã bắt chước và chế ra nhiều máy cán bông khác. Dĩ nhiên là ông không được hưởng một chút lợi nào của các máy cán bông này. Phải mất nhiều năm sau ông mới chứng tỏ được rằng chỉ có mình ông mới có quyền chế tạo và bán máy cán bông.



- Miền Nam trồng thêm nhiều bông vải

Dù rằng ông Whitney được hưởng rất ít lợi trong công việc sáng chế ra máy cán bông, nhưng phát minh của ông quả là biến cố đi vào lịch sử ở miền Nam. Như các bạn đã thấy trong chương XIV, những máy kéo sợi và dệt vải mới được phát minh đang được sử dụng ở miền Đông Bắc và ở Anh quốc. Càng ngày người ta càng cần nhiều bông vải để cho các nhà máy này chạy đều. Nhờ sử dụng máy cán bông mà miền Nam có thể trồng và bán được bông vải hơn bao giờ hết.

Dân miền Nam đã sớm nhận thức được rằng phát minh của ông Eli Whitney có thể giúp cho họ có cơ hội để làm giàu. Nông dân và các ông chủ đồn điền liền bỏ không trồng các loại cây mùa vẫn được sản xuất từ trước, mà quay ra trồng bông vải. Đồng thời, họ mở rộng nông trại và đồn điền để trồng được nhiều bông hơn. Nhưng đất đai ở vùng gọi là miền Nam cũ (1) (đặc biệt là Maryland, Virginia và North Carolina) tỏ ra không thích hợp với công việc trồng bông. Trong khi đó thì đất đai ở các tiểu bang South Carolina và Georgia lại rất tốt cho việc trồng loại cây mùa này. Nhưng ngay cả đất trồng bông tốt nhất cũng bị kiệt quệ vì các nhà trồng bông quá ham khai thác để kiếm nhiều lời. Trồng bông liên tiếp trong nhiều năm trên cùng một mảnh đất, đất sẽ bị kiệt quệ. Tuy nhiên, thay vì giữ cho đất được màu mỡ bằng phương pháp luân canh hay dùng phân bón thì các nhà trồng bông lại thích trồng được càng nhiều bông càng tốt rồi sau đó di chuyển đến khu đất mới.

- Dân miền Nam tìm đất tốt hơn để trồng bông

Xa về phía Tây Nam của miền Nam cũ là một vùng đất rộng mênh mông phì nhiêu chưa có người da trắng đến định cư. Vùng này còn dày đặc những rừng cây. Nhiều sông ngòi chảy qua các vùng đất phì nhiêu này có thể sử dụng để chuyển vận bông vải tới các thị trấn ở trên bờ biển vịnh Mễ Tây Cơ. Rồi từ các thị trấn này, bông vải được chuyên chở đến thị trường Âu châu.

Trong thời gian chừng 50 năm sau khi phát minh ra máy cán bông, có rất nhiều người kéo đến miền Tây và miền Nam, đi xa tới tận những vùng đất phì nhiêu chưa có người tới định cư này để lập nghiệp. Một số nhà trồng tỉa ở Virginia và Carolina tiến đến tận nơi hoang vu. Một số người từ các vùng núi rừng cũng kéo đến vùng đất mới này. Đây là những người không có nô lệ, chỉ có rất ít tiền của, nhưng hy vọng với sự cần cù làm việc, họ sẽ trở nên chủ nhân những đồn điền giàu có.

Những người mới tới này đẩy dồn dân da đỏ đi, chiếm từng giải đất để làm nông trại. Họ phá rừng, khai hoang các bụi rậm và đốn gỗ. Họ hăm hở trồng bông đến nỗi họ không cần đốn những cây cao. Thật ra, họ không đốn những cây cao, nhưng họ lại bóc hết vỏ cây ở gần gốc để làm cho cây chết khô. Để đáp ứng nhu cầu nhân công, các ông chủ đồn điền trồng bông ở Virginia và Carolina (2) đem hàng trăm nô lệ da đen đến miền Hạ nam để khai thác. Những căn nhà sừng sững oai nghiêm và những cánh đồng bông bát ngát hiện lên trong những khu đất mà trước kia chỉ là những khu rừng rộng lớn, tối tăm trầm lặng. Một số người phiêu lưu hơn tiến đến chiếm đất ở vùng Texas nằm ở phía bên kia sông Mississippi.



- Bông vải là vua

Vào khoảng thập niên 1840, giải đất rộng lớn từ hai tiểu bang miền Bắc và Nam Carolina chạy dài tới phía Tây Nam đã có nhiều người đến định cư lập nghiệp. Thật ra, nông phẩm quan trọng nhất ở miền Nam là bông vải. Chắc chắn các tiểu bang Virginia, North và South Carolina vẫn còn trồng nhiều thuốc lá. Ở South Carolina và Georgia, người ta trồng rất nhiều lúa gạo, và ở Louisiana thì trồng rất nhiều mía. Nhưng bông vải vẫn được trồng nhiều hơn cả so với các sản phẩm khác ở miền Nam. Trước khi phát minh ra máy cán bông, năm 1790, Hoa Kỳ sản xuất chừng bốn ngàn kiện bông, mỗi kiện nặng chừng 500 cân. Vào khoảng năm 1850, sản lượng bông của Hoa Kỳ vượt lên trên 2 triệu kiện. Hầu hết những bông này được sản xuất ở các vùng đất mới được khai phá tại miền Nam. Vùng đất này đã trở thành vương quốc của bông vải.

Dần dần vùng hạ Nam trở nên quan trọng. Dân số ở vùng này gia tăng nhanh hơn ở các tiểu bang miền Nam cũ. Các lãnh thổ Louisiana (1812), Mississippi (1817), và Alabama (1819) trở thành các tiểu bang gia nhập cộng đồng Liên bang. Hải cảng Mobile và New Orlean ở miền hạ Nam trở thành những trung tâm thương mại quan trọng hơn các hải cảng Charleston và Savannah. Vì rằng có nhiều xưởng kỹ nghệ và hầm mỏ, hoặc là trung tâm kỹ nghệ ở miền Nam cho nên phần lớn dân miền Nam nghĩ rằng sự thịnh vượng của họ tùy thuộc vào việc trồng bông. Đó là nguyên nhân tại sao họ thường nói rằng “Bông vải là vua”.

*

* *


PHẦN HAI

DÂN CHÚNG Ở MIỀN NAM SINH SỐNG VÀO THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1860 NHƯ THẾ NÀO?
- Các ông chủ đồn điền là các nhà lãnh đạo ở miền Nam

Khi mà miền Nam càng đem hết cố gắng để trồng càng nhiều bông càng tốt thì có một nhóm các nhà trồng tỉa trở nên rất quyền thế và giàu có. Họ dùng nô lệ để làm việc trong các đồn điền rộng lớn, và như vậy họ kiếm được rất nhiều lời. (Hệ thống trồng trọt trên một giải đất rộng lớn có những nô lệ làm việc ở đó được gọi là hệ thống đồn điền). Nhưng nô lệ lại rất tốn tiền. Vào thập niên 1850, một nô lệ làm việc ở ngoài đồng giá từ 1200 đến 2000 mỹ kim. Vào khoảng năm 1860 thì cứ một trong bốn gia đình da trắng đều có nuôi nô lệ. Thực ra trong 5 triệu rưỡi dân da trắng ở miền Nam thì chưa tới 10 ngàn người nuôi từ 50 nô lệ trở lên. Những ông chủ làm chủ nhiều nô lệ và những đồn điền rộng lớn kiếm được rất nhiều lời và họ kiểm soát hầu hết các tài sản ở miền Nam. Các gia đình đồn điền này là những nhà lãnh đạo trong làng xóm của họ cũng như toàn thể miền Nam. Các ông chủ đồn điền đồng thời cũng là những người phát ngôn của miền Nam tại hành lang Quốc hội.




tải về 2.16 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương