Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 831/TTr-ubtvqh13



tải về 122.61 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích122.61 Kb.
#26271

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI



Số: 831/TTr-UBTVQH13




CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2015

TỜ TRÌNH
dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thành lập Ban soạn thảo dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để xây dựng dự án Luật. Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã chỉ đạo các cơ quan, tổ chức hữu quan tiến hành tổng kết việc thi hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003) và tổng kết hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Trên cơ sở kết quả tổng kết, tiếp thu ý kiến tham gia của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, nhà khoa học, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo hoàn thiện dự án Luật.

Dưới đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội về dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.



I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân được thực hiện trên cơ sở quy định của Luật tổ chức Quốc hội (năm 2001), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Qua quá trình thực hiện theo các quy định này, hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nội dung giám sát khá toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian, trong đó tập trung vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đòi hỏi. Hình thức giám sát, phương thức tổ chức hoạt động giám sát được đổi mới theo hướng phát huy dân chủ, nâng cao tính công khai, minh bạch, có sự tham gia ý kiến của nhân dân, sự tham gia, phối hợp giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Hoạt động giám sát đã phát huy tính chủ động, tích cực của các cơ quan thực hiện giám sát, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng chịu sự giám sát. Qua giám sát đã đưa ra nhiều kiến nghị đóng góp vào hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và của địa phương, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế, chính sách và quản lý điều hành kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, được dư luận và nhân dân đồng tình, ủng hộ, quan tâm, đánh giá cao, qua đó góp phần nâng cao vai trò, uy tín, chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử.

Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cũng bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập sau đây:



Một là, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân hiện còn được quy định trong nhiều văn bản khác nhau; một số quy định về nội dung, đối tượng, hình thức giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân còn trùng lặp, chưa rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện. Phạm vi giám sát quá rộng với nhiều chủ thể, nhiều hình thức giám sát, nhưng lại chưa phân định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi chủ thể với từng đối tượng chịu sự giám sát cũng như sự phối hợp giữa các chủ thể giám sát dẫn tới sự chồng chéo trong thực hiện.

Hai là, nhiều quy định về hình thức giám sát chưa được thực thi hoặc tính khả thi còn thấp, như quy định về việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; quy định Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định; quy định Quốc hội xem xét báo cáo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; hoạt động giám sát văn bản pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên; chưa có biện pháp hữu hiệu để theo dõi, kiểm tra việc tiếp thu, giải quyết các kiến nghị sau giám sát. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát như cơ sở vật chất, trang thiết bị, bộ máy giúp việc… chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động giám sát.

Ba là, một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân mới được thực hiện đã phát huy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cuộc sống như giám sát theo chuyên đề, giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, tổ chức phiên giải trình, tổ chức chất vấn giữa hai kỳ họp… nhưng lại chưa được ghi nhận trong các quy định của luật; một số thẩm quyền giám sát được quy định trong các đạo luật về tổ chức nhưng không có trình tự, thủ tục thực hiện trong luật hoạt động giám sát.

Những bất cập nêu trên dẫn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân còn hạn chế.

Để kịp thời thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể chế hoá các quy định liên quan đến hoạt động giám sát trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội mới được Quốc hội thông qua, đồng thời khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử thì việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về giám sát trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành để ban hành một đạo luật chung về hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là thực sự cần thiết.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Việc xây dựng Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được thực hiện trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp liên quan đến hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

2. Kế thừa và phát triển những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm là hợp lý, đúng đắn và hiệu quả của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan; khắc phục những hạn chế, bất cập; đồng thời hệ thống hóa, pháp điển các quy định về hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử từ các văn bản pháp luật có liên quan.

3. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; bảo đảm sự thống nhất, khoa học trong việc xác định đối tượng, phạm vi, hình thức, thẩm quyền, trình tự giám sát của từng chủ thể giám sát; bảo đảm quyền, trách nhiệm của chủ thể giám sát, của đối tượng chịu sự giám sát; phát huy vai trò của giám sát trong việc góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước.

4. Bảo đảm sự đồng bộ, phù hợp giữa những đổi mới về hoạt động giám sát với những đổi mới về tổ chức của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức khác của hệ thống chính trị.

5. Tham khảo tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử một số nước trên thế giới.

III. BỐ CỤC CỦA DỰ THẢO LUẬT

Dự thảo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được xây dựng để quy định một cách thống nhất về hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử, trong đó, không chỉ xác định rõ thẩm quyền, phạm vi giám sát của từng chủ thể mà còn tăng cường sự phối hợp trong quá trình tiến hành hoạt động giám sát nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và tránh sự chồng chéo, trùng lặp. Do vậy, bên cạnh việc rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định để thể chế hóa các văn kiện của Đảng, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp, dự thảo đã bổ sung những nội dung được đặt ra trong thực tiễn, sửa đổi các quy định của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành, Chương III của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), đồng thời, pháp điển hóa các quy định về hoạt động giám sát trong các nội quy, quy chế hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân để khi Luật mới được ban hành sẽ sớm đi vào cuộc sống mà không phải chờ sửa đổi các văn bản khác có liên quan hoặc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Với tinh thần đó, dự thảo Luật được thiết kế gồm 4 chương với 90 điều, cụ thể như sau:

- Chương I – Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 11) quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, chức năng, thẩm quyền giám sát, nguyên tắc hoạt động giám sát, trách nhiệm của chủ thể giám sát, quyền, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát, việc tham gia giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hiệu lực, hiệu quả giám sát.

- Chương II – Giám sát của Quốc hội (từ Điều 12 đến Điều 56) gồm 4 mục quy định về các hoạt động giám sát, trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội.

- Chương III – Giám sát của Hội đồng nhân dân (từ Điều 57 đến Điều 86) gồm 4 mục quy định về các hoạt động giám sát, trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Chương IV – Bảo đảm hoạt động giám sát và điều khoản thi hành (từ Điều 87 đến Điều 90), quy định về bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát, bảo đảm việc thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát, bảo đảm kinh phí và tổ chức phục phục vụ hoạt động giám sát; hiệu lực thi hành, các văn bản bị bãi bỏ.

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA DỰ THẢO LUẬT

1. Về tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân

Dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cụ thể như sau:

- Bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát, trong đó khẳng định rõ “giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc yêu cầu, kết luận, kiến nghị và nghị quyết về giám sát (Điều 11);

- Kế thừa quy định hiện hành, đồng thời cụ thể hóa thẩm quyền của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong việc xử lý những trường hợp có vi phạm pháp luật, cụ thể là: thẩm quyền, trình tự, thủ tục bãi bỏ, đình chỉ hoặc kiến nghị bãi bỏ, đình chỉ một phần hoặc toàn bộ văn bản pháp luật trái Hiến pháp, pháp luật (các điều 15, 22, 26, 30, 37, 42, 61, 65...); việc miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu (Điều 22 và Điều 65); lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (các điều 19, 20, 36, 47, 63 và 64); yêu cầu kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm (các điều 17, 28, 62); giải tán Hội đồng nhân dân trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân (Điều 37 và Điều 65); bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân giám sát có quyền yêu cầu cơ quan cấp trên của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát xem xét xử lý trách nhiệm của người đứng đầu (Điều 8)...;

- Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục Quốc hội xem xét kiến nghị giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét kiến nghị giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát không thực hiện kiến nghị giám sát của các chủ thể này (Điều 21 và Điều 35). Đây là các quy định mới, tạo cơ chế để các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quyền đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định đối với các vấn đề đã được cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội giám sát nhằm bảo đảm cho kiến nghị giám sát của các chủ thể này có tính hiệu lực, hiệu quả và khả thi cao hơn;

- Quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân; thực hiện đầy đủ kế hoạch, nội dung, yêu cầu giám sát; báo cáo trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu giám sát; giải quyết, trả lời yêu cầu, kiến nghị của các chủ thể thực hiện giám sát; đồng thời quy định biện pháp xử lý trong trường hợp cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện những yêu cầu, quyết định giám sát (các điều 8, 44 và 45).

- Bổ sung quy định nhằm xác định rõ thời hạn các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện các yêu cầu, kiến nghị giám sát đối với từng hoạt động giám sát. Cụ thể là: thời hạn gửi nội dung trả lời chất vấn (Điều 16); thời hạn xem xét, thực hiện kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản có dấu hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật (Điều 42); thời hạn thông báo cho đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội biết việc giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội (Điều 55)…;

- Quy định rõ việc các cơ quan tiến hành giám sát ra nghị quyết về giám sát (ví dụ như nghị quyết về chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn, nghị quyết giám sát chuyên đề, nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo), đồng thời, cụ thể hóa nội dung của các nghị quyết này (các điều 14, 16, 17, 25, 29, 60, 62...); bổ sung các quy định về trách nhiệm báo cáo việc thực hiện kết luận, kiến nghị, nghị quyết về giám sát để tạo điều kiện cho các chủ thể giám sát theo dõi, đánh giá việc thực hiện kết luận, kiến nghị, nghị quyết về giám sát, cụ thể là: người trả lời chất vấn, cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát có trách nhiệm báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về chất vấn, các vấn đề đã hứa tại các kỳ họp trước, báo cáo kết quả thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kết luận trong nghị quyết giám sát chuyên đề (Điều 16 và Điều 37).

- Quy định nguyên tắc minh bạch, khách quan, công khai trong hoạt động giám sát (Điều 4); đồng thời, bổ sung các quy định cụ thể để tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động này, tạo điều kiện cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, qua đó, nâng cao trách nhiệm của các chủ thể giám sát cũng như các đối tượng chịu sự giám sát, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát, cụ thể là: quy định các phiên chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội được phát thanh, truyền hình trực tiếp (Điều 16 và Điều 27); trường hợp trả lời câu hỏi chất vấn bằng văn bản thì nội dung trả lời chất vấn không chỉ được gửi đến đại biểu Quốc hội đã chất vấn mà còn được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội và các đại biểu Quốc hội khác (Điều 16); hoạt động giải trình tại phiên họp của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, giải trình tại phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân được tổ chức công khai (Điều 45 và Điều 71); quy định các cơ quan thông tin đại chúng có quyền tiếp cận, đưa tin về hoạt động giám sát theo quy định của pháp luật (Điều 87); chương trình, kế hoạch giám sát, báo cáo kết quả giám sát, nghị quyết về giám sát, kết luận, kiến nghị giám sát và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát được công bố công khai trên trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành giám sát, trừ trường hợp phải bảo đảm bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật; trường hợp cần thiết, được công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng (Điều 88)…

- Quy định chi tiết, toàn diện hơn về việc bảo đảm hoạt động giám sát, theo đó, bên cạnh các nội dung đã đề cập trên đây, dự thảo Luật đã bổ sung các điều luật quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát, bảo đảm thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát, bảo đảm kinh phí và tổ chức phục vụ hoạt động giám sát. Cụ thể như: chủ thể giám sát có quyền tổ chức lấy ý kiến, có quyền trưng cầu giám định khi cần thiết theo quy định của pháp luật; mọi tổ chức, cá nhân có quyền cung cấp thông tin, tài liệu cho các chủ thể giám sát; trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị và nghị quyết giám sát… (các điều 87, 88 và 89).



2. Về khái niệm “giám sát” và “giám sát tối cao của Quốc hội”

Trên cơ sở kế thừa khái niệm giám sát trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (năm 2003), khái niệm “giám sát” được chỉnh lý, bổ sung theo hướng giám sát trong dự thảo Luật không chỉ là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát” mà còn bao gồm cả việc “xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý” (Điều 3).

Về “giám sát tối cao của Quốc hội”, trên cơ sở quy định của Hiến pháp, dự thảo Luật đã cụ thể hóa giám sát tối cao của Quốc hội, cụ thể như sau:

- Làm rõ tính chất “tối cao” trong hoạt động giám sát của Quốc hội nhằm tạo cơ sở cho việc phân biệt hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát do Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội tiến hành, theo đó chỉ Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao và hoạt động giám sát tối cao phải được tiến hành tại kỳ họp Quốc hội, trong đó có việc Quốc hội xem xét báo cáo về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội (Điều 21); đồng thời xác định rõ nghị quyết giám sát của Quốc hội là quyết định cao nhất (Điều 3).

- Bổ sung một số hoạt động giám sát chưa được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành, đồng thời quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động giám sát này. Cụ thể là: xem xét báo cáo giám sát chuyên đề; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kiến nghị giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội (các điều 17, 19, 20 và 21);

- Sửa đổi quy định về việc Quốc hội xem xét văn bản pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội cho phù hợp với quy định có liên quan của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội mới theo hướng xác định rõ chủ thể có thẩm quyền trình Quốc hội xem xét văn bản pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; mở rộng các chủ thể có quyền kiến nghị, đề nghị về văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (Điều 15);

- Quy định cụ thể hơn về hoạt động chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội như: trình tự, thủ tục trong việc trả lời chất vấn; thời điểm, thời hạn báo cáo và xem xét báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về chất vấn... (Điều 15).

3. Về hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Dự thảo Luật cơ bản giữ bố cục các quy định về giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội như Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành, đồng thời bổ sung một số nội dung mới như sau:

- Về chương trình giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, để tạo điều kiện chủ động trong hoạt động giám sát, dự thảo Luật bỏ quy định về chương trình giám sát hàng quý; bổ sung quy định về việc các cơ quan, tổ chức đề xuất nội dung đưa vào chương trình giám sát; quy định cụ thể trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua chương trình giám sát và trách nhiệm báo cáo việc thực hiện chương trình giám sát với Quốc hội (Điều 24);

- Bổ sung một số hoạt động giám sát chưa được quy định trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội hiện hành, đồng thời cụ thể hóa trình tự, thủ tục các hoạt động giám sát này. Cụ thể là quy định trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội: xem xét báo cáo việc giải quyết kiến nghị của cử tri và thực hiện giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri; giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; xem xét kiến nghị giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; quy định trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị, kiến nghị của các chủ thể có thẩm quyền xem xét việc trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (các điều 33, 34, 35 và 36).

- Bổ sung một số loại báo cáo giữa hai kỳ họp của Quốc hội, khi cần thiết được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét tương ứng với quy định về thẩm quyền xem xét báo cáo của Quốc hội; bổ sung quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo công tác của Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; quy định Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết hoặc đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết (Điều 25);

- Sửa đổi quy định về trình tự Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo hướng quy định rõ các trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét đối với các văn bản này; mở rộng chủ thể có quyền kiến nghị, đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét; quy định việc Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội cho ý kiến đối với văn bản trước khi báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội...(Điều 26);

- Bổ sung quy định về thời hạn trả lời chất vấn đối với câu hỏi chất vấn được cho trả lời bằng văn bản, việc công khai trong trả lời chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, nội dung nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chất vấn (Điều 27);

- Quy định về hoạt động giám sát chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội, trong đó, quy định về việc thành lập Đoàn giám sát để giám sát chuyên đề, xác định rõ thành phần của Đoàn giám sát khi thực hiện giám sát chuyên đề, bổ sung quyền trưng cầu giám định về những vấn đề Đoàn giám sát thấy cần thiết, quy định về nội dung nghị quyết giám sát chuyên đề (Điều 28).



4. Về hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội

Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội mới, quy định chi tiết trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, cụ thể như sau:

- Quy định rõ ràng hơn về nội dung Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội xem xét văn bản pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách theo hướng không nhắc lại thẩm quyền xử lý văn bản trái Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan khác; quy định kết quả giám sát văn bản pháp luật phải được báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội; trường hợp cần thiết, Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc ban hành văn bản pháp luật (Điều 42);

- Quy định về hoạt động giám sát chuyên đề, tổ chức Đoàn giám sát để thực hiện giám sát chuyên đề, quy định rõ về thành phần tham gia Đoàn giám sát chuyên đề của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; cụ thể hóa một số nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn giám sát chuyên đề (Điều 43);

- Quy định trong dự thảo Luật về hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội với những nội dung như: trách nhiệm giải trình, nội dung, kế hoạch giải trình, trình tự tiến hành phiên giải trình, kết luận của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội về vấn đề được giải trình, tính công khai của phiên giải trình... (Điều 45);

- Quy định việc “kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” là một hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; làm rõ các trường hợp Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Uỷ ban của Quốc hội phải báo cáo Hội đồng, Uỷ ban xem xét, quyết định việc kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định nội dung này tại phiên họp Hội đồng, Ủy ban (Điều 47).



5. Về hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu

Dự thảo Luật quy định chi tiết hơn cách thức tiến hành một số hoạt động nhằm bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện quyền giám sát của đại biểu Quốc hội. Cụ thể như: quy định về việc tổ chức để đại biểu Quốc hội chất vấn tại kỳ họp của Quốc hội và phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội (các điều 16, 27 và 52); quy định cách thức xác định số lượng đại biểu Quốc hội cần thiết để kiến nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Điều 56).



6. Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

Dự thảo Luật cơ bản giữ quy định về chủ thể giám sát, phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân như quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003), tuy nhiên có sửa đổi, bổ sung về hình thức giám sát, cụ thể hóa các trình tự, thủ tục tiến hành giám sát; đồng thời về mặt kỹ thuật, các điều luật đã được đặt tên và thể hiện lại cho thống nhất với các quy định khác trong dự thảo Luật. Cụ thể:

- Bổ sung các quy định để cụ thể hóa trình tự xem xét, thông qua chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân, trong đó quy định về việc gửi kiến nghị nội dung giám sát, lập dự kiến nội dung, chương trình giám sát, thảo luận và biểu quyết thông qua chương trình giám sát (Điều 58);

- Quy định theo hướng linh hoạt về thời điểm Hội đồng nhân dân xem xét báo cáo (tại kỳ họp cuối năm và giữa năm), cụ thể hóa một số loại báo cáo được Hội đồng nhân dân xem xét, quy định rõ Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định việc ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo và nội dung của nghị quyết này (Điều 59);

- Quy định cụ thể hơn về việc tổ chức chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp Hội đồng nhân dân; quy định việc Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn là một hoạt động thường xuyên trong quy trình xem xét việc trả lời chất vấn, đồng thời bổ sung trách nhiệm của người được chất vấn trong việc báo cáo với Hội đồng nhân dân về việc thực hiện những vấn đề đã hứa tại kỳ họp trước (Điều 60);

- Quy định về hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân, việc tổ chức Đoàn giám sát để thực hiện giám sát chuyên đề; quy định rõ thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn giám sát, trình tự Hội đồng nhân dân xem xét báo cáo giám sát chuyên đề của Đoàn giám sát (Điều 62);

- Bổ sung quy định về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu (Điều 63); quy định các trường hợp Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm và hậu quả pháp lý của việc bỏ phiếu tín nhiệm (Điều 64).

7. Về hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân

Dự thảo Luật đã bố cục lại các quy định về hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân và bổ sung một số nội dung nhằm làm rõ hơn hình thức giám sát, trình tự thực hiện giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân với tư cách là một chủ thể giám sát, phân biệt các hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân với các hoạt động khác do chủ thể này tiến hành nhằm tổ chức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, cụ thể là:

- Quy định rõ về các hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, trong đó có các hoạt động chưa được ghi nhận trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2003) như: giải trình tại phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân; xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân; giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri (các điều 71, 72 và 73);

- Quy định rõ việc thành lập Đoàn giám sát để thực hiện giám sát chuyên đề của Thường trực Hội đồng nhân dân, việc Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét báo cáo giám sát chuyên đề của Đoàn giám sát (Điều 69 và Điều 70); bổ sung quy định về trình tự Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét văn bản pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp (Điều 68).

- Quy định các hoạt động giám sát của Ban của Hội đồng nhân dân với tư cách là chủ thể hoạt động giám sát, đồng thời, cụ thể hóa một số nội dung liên quan tới trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động này, bao gồm: thẩm tra các báo cáo do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công; xem xét văn bản pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; giám sát chuyên đề; xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (các điều từ Điều 76 đến Điều 81).

8. Về hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành không có mục riêng quy định về hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân mà lồng ghép nội dung này trong các quy định về quyền và trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân.

Khắc phục hạn chế này, dự thảo Luật đã bổ sung một mục trong đó hệ thống hóa các hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân, quy định rõ trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát cụ thể như chất vấn, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, giám sát văn bản pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương; đồng thời, quy định về hoạt động giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, Đoàn giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và việc Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tổ chức để đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát việc thi hành pháp luật trên địa bàn đại biểu ứng cử (các điều từ Điều 83 đến Điều 86).

9. Về điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân

Dự thảo Luật đã bổ sung các quy định để khắc phục sự chồng chéo, trùng lặp trong việc thực hiện các hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo hướng:

- Bổ sung, quy định cụ thể hơn trách nhiệm chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cụ thể như: yêu cầu Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội phối hợp thực hiện một số hoạt động giám sát ở cùng một cơ quan, địa phương, đơn vị để bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát; điều hòa hoạt động giám sát chuyên đề của các cơ quan của Quốc hội tại địa phương để bảo đảm trong cùng một thời điểm chỉ có một đoàn giám sát, khảo sát của cơ quan của Quốc hội tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; điều hòa hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo nguyên tắc mỗi Bộ trưởng, Trưởng ngành trong 01 tháng có không quá hai lần đến giải trình; cùng một thời điểm không tổ chức giải trình tại hai cơ quan khác nhau; các nội dung giải trình trùng nhau thì các cơ quan cùng phối hợp tổ chức (Điều 38);

- Quy định Thường trực Hội đồng nhân dân điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp trên có trách nhiệm xem xét, xử lý chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian giám sát giữa hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình và cấp dưới (Điều 75).

- Nhằm bảo đảm sự phối hợp trong hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử ở trung ương và địa phương, dự thảo Luật quy định rõ về trách nhiệm báo cáo và cơ quan có thẩm quyền xử lý trong trường hợp có chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian giám sát giữa hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cụ thể là: Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm xem xét, xử lý chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian giám sát giữa hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đồng thời, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội trong trường hợp có sự chồng chéo về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian giám sát giữa hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội với hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (Điều 38 và Điều 75).

V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN

1. Về giám sát đối với văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (các điều 15, 26 và 42)

Điều 15 của Luật tổ chức Quốc hội (năm 2014) quy định Quốc hội bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan khác do Quốc hội thành lập trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Quốc hội bãi bỏ văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước. Bên cạnh đó, tại Điều 80 của Luật này quy định Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm phát hiện văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp và kiến nghị cơ quan đã ban hành văn bản thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ văn bản đó; trường hợp cơ quan đã ban hành văn bản không thực hiện kiến nghị thì Hội đồng, Ủy ban có quyền kiến nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, xử lý theo thẩm quyền; Ủy ban pháp luật có trách nhiệm thẩm tra kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đề nghị của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc của đại biểu Quốc hội về văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, xử lý theo thẩm quyền.

Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến như sau:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định chung trình tự, thủ tục Quốc hội xem xét văn bản pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp với văn bản pháp luật có dấu hiệu trái luật, nghị quyết của Quốc hội theo hướng chỉ có 2 chủ thể có quyền đề nghị Quốc hội xem xét là Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; còn đối với các chủ thể khác (bao gồm Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội) thì có quyền gửi kiến nghị, đề nghị về văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đến Ủy ban thường vụ Quốc hội, trường hợp văn bản có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội là văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì gửi kiến nghị, đề nghị đến Chủ tịch nước để các chủ thể này xem xét trình Quốc hội (Phương án 1 trong dự thảo Luật – Điều 15).

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định riêng trình tự, thủ tục Quốc hội xem xét văn bản pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp với văn bản pháp luật có dấu hiệu trái luật, nghị quyết của Quốc hội theo hướng: đối với văn bản pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, Quốc hội xem xét theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; đối với văn bản pháp luật có dấu hiệu trái luật, nghị quyết của Quốc hội, Quốc hội xem xét theo đề nghị, kiến nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội; (phương án 2 trong dự thảo Luật - Điều 15a và Điều 15b).

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình hai phương án như trong dự thảo Luật để Quốc hội xem xét, cho ý kiến.



2. Về chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp (các điều 16, 27, 60 và 72)

Theo quy định tại Điều 80 của Hiến pháp, người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản. Quy định này tiếp tục được khẳng định trong Luật tổ chức Quốc hội (năm 2014). Đối với hoạt động chất vấn tại Hội đồng nhân dân, Hiến pháp quy định “người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân”.

Liên quan tới vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến như sau:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng để bảo đảm quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, tăng cường hơn nữa hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chất vấn, đề nghị quy định rõ người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trực tiếp các câu hỏi tại phiên họp chất vấn của Quốc hội hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Thường trực Hội đồng nhân dân; việc trả lời chất vấn bằng văn bản chỉ thực hiện đối với chất vấn cần được xác minh theo quyết định của Chủ tọa phiên họp (phương án 1 trong dự thảo Luật).

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị thiết kế theo hướng đại biểu có chất vấn gửi chất vấn đến người bị chất vấn; trên cơ sở chất vấn của đại biểu, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân sẽ dự kiến danh sách những người trả lời chất vấn, nội dung nhóm vấn đề chất vấn tại phiên họp. Đối với câu hỏi ngoài nội dung nhóm vấn đề chất vấn và những câu hỏi trực tiếp tại phiên họp chất vấn cần được xác minh thì Chủ tọa phiên họp cho phép trả lời bằng văn bản. Quy định như vậy để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoạt động không thường xuyên (phương án 2 trong dự thảo Luật).

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình hai phương án như trong dự thảo Luật để Quốc hội xem xét, cho ý kiến.



3. Về giám sát chuyên đề của Quốc hội (Điều 17)

Qua tổng kết việc thi hành Luật hoạt động giám sát của Quốc hội cho thấy, giám sát theo chuyên đề là hoạt động giám sát thiết thực, có hiệu quả, được dư luận, cử tri đồng tình và đánh giá cao. Vì vậy, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, về cách thức tổ chức hoạt động này còn có ý kiến khác nhau, đề nghị Quốc hội cho ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để tránh trùng lặp, chồng chéo giữa hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội với hoạt động giám sát chuyên đề của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì nên quy định Quốc hội quyết định việc thành lập Đoàn giám sát để tiến hành giám sát chuyên đề. Đoàn giám sát ban hành kế hoạch, đề cương giám sát, thực hiện hoạt động giám sát và báo cáo trực tiếp với Quốc hội (Phương án 1 trong dự thảo Luật).

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị giao Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát chuyên đề của Quốc hội. Theo đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội căn cứ vào chương trình giám sát của Quốc hội quyết định thành lập Đoàn giám sát của Quốc hội để thực hiện giám sát chuyên đề, ban hành kế hoạch, đề cương giám sát; xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát; báo cáo kết quả giám sát trước Quốc hội. Ý kiến này cho rằng, việc giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức giám sát chuyên đề của Quốc hội phù hợp với tính chất của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, phù hợp với thực tiễn và bảo đảm tính khả thi trong thực hiện (Phương án 2 trong dự thảo Luật).



4. Về hoạt động lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (các điều 19, 20, 63 và 64)

Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 85/2014/QH13 quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Dự thảo Luật đã được thể hiện theo hướng quy định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhưng không đưa hết nội dung của Nghị quyết này vào Luật.

Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị nên thu hút các quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm trong Nghị quyết số 85/2014/QH13 vào dự thảo Luật này để thể hiện cho thống nhất, tránh tình trạng hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân lại quy định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau.

5. Về giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân

Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến như sau:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị kế thừa quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện hành về thẩm quyền, trách nhiệm giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, theo đó Thường trực Hội đồng nhân dân là chủ thể giám sát độc lập.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, thực tế thời gian qua việc tổ chức hoạt động giám sát độc lập của Thường trực Hội đồng nhân dân, nhất là Thường trực Hội đồng nhân dân ở cấp huyện, cấp xã gặp nhiều khó khăn do trong cơ cấu của Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ có ba thành viên. Vì vậy, đề nghị không quy định Thường trực Hội đồng nhân dân là chủ thể giám sát độc lập mà chỉ quy định trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc tổ chức hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.

Dự thảo Luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất (Mục 2 Chương III).

6. Về giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân

Về giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, hiện có hai loại ý kiến khác nhau:

- Loại ý kiến thứ nhất đề nghị quy định hình thức giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, vì qua tổng kết cho thấy ở một số Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, việc giám sát của các đại biểu Hội đồng nhân dân thông qua các Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân đã phát huy vai trò tích cực trong hoạt động giám sát.

- Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định trong dự thảo Luật về hoạt động giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, bởi vì Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ là hình thức để tổ chức hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân mà không có cơ cấu, tổ chức chặt chẽ.

Dự thảo Luật được thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là Tờ trình về dự án Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.





Nơi nhận:

- Như trên;

- Lưu: BST, HC.

- E-pas: 11194






TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH

Uông Chu Lưu





tải về 122.61 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương