CÁc biện pháp tu từ VỰNG



tải về 114.95 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích114.95 Kb.
#3693
CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ VỰNG
SO SÁNH
* Cách cấu tạo: A như B (A: Sự vật chưa biết hoặc chưa được rõ), (B: Sự vật đã biết). Qua B để hiểu A. Giữa A và B có từ so sánh: như, tựa, bằng, là…
* Chức năng, tác dụng:
- Nhận thức: Nghĩa là nhờ B ta hiểu thêm về A
- Gợi hình ảnh và cảm xúc ở người đọc, người nghe…
VD:

Trên trời mây trắng như bông


Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.
(Ngô Văn Phú)


Bài ca dao mở đầu bằng kiểu so sánh chéo (mây như bông, bông như mây) từng sự vật, kết thúc bằng việc so sánh hợp nhất (đội bông như thể đội mây). Như vậy chủ yếu không phải là miêu tả bông hay miêu tả mây, mà để gây ấn tượng về độ tràn ngập màu trắng của “bông”, của 1 vụ bội thu “bông”. Con người như lâng lâng bay trong khoảng không gian mênh mông màu trắng. Đó là những con người mà lao động không còn là gánh nặng đè họ xuống, mà thực sự là niềm vui nâng họ lên ngang tầm của trời mây. Bài ca dao là 1 bức tranh rất sáng, rất đẹp với sự láy đi láy lại của bông mây, láy đi láy lại màu trắng, loáng thoáng điểm chút màu đỏ của những đôi má trẻ tươi.

ẨN DỤ
* Cách cấu tạo: A giống B. A là sự vật ẩn đi, nhưng vẫn có thể nhận biết được, mô tả đựơc. B là sự vật xuất hiện trực tiếp nhằm để gợi ra A, nói về A. Giữa sự vật A và sự vật B có những nét giống nhau. Vì vậy ẩn dụ được hình thành dựa trên sự liên tưởng, tưởng tượng…
* Chức năng, tác dụng:
- Nhận thức: qua B biết về A
- Gợi hình ảnh, cảm xúc ở người đọc, người nghe, là cách nói mang tính hàm súc, cô đọng, giá trị biểu đạt cao.
VD:

Thuyền về có nhớ bến chăng?


Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Cặp ẩn dụ thuyền- bến, thuyền: Sự vật có đặc tính động, nay đây, mai đó trên sông nước. Bến là sự vật có đặc tính tĩnh, cố định ở một nơi, một chốn trên sông nước. A-thuyền: Gợi đến hình ảnh người con trai thời xưa đi làm ăn xa, tung hoành ngang dọc. B- bến gợi tới hình ảnh người con gái ở nhà thuỷ chung chờ đợi. Như vậy cặp ẩn dụ trên nói về tình yêu nam nữ.

Ngập ngừng mép núi quanh co


Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang.


Trong dòng thơ trên có ẩn dụ tu từ “ngập ngừng”, “ngập ngừng” dùng để chỉ trạng thái quanh co của mép núi: lúc hiện ra, lúc khuất đi trong tầm mắt. Từ này còn đựơc dùng để chỉ tâm trạng của người đi đường xa, vừa muốn bước tiếp, lại vừa muốn dừng chân, bước chân cũng “ngập ngừng” như e sợ một cái gì đó ở trước mặt.
* Các loại ẩn dụ:
- Nhân hoá: ẩn dụ lấy từ ngữ chỉ hiện tượng, tính chất, trạng thái của con người để chỉ hiện tượng, tính chất của sự vật.
- Vật hoá: ẩn dụ lấy từ ngữ chỉ vật dùng cho người.
- Ẩn dụ cảm giác: Ẩn dụ lấy cảm giác của giác quan này để gọi tên cảm giác thuộc giác quan khác.

HOÁN DỤ
* Cách cấu tạo: A (gần) B. A là sự vật ẩn đi nhưng có thể nhận biết, mô tả đựơc. B là sự vật xuất hiện trực tiếp, nhằm để gợi ra A, nói về A. Giữa sự vật A và sự vật B có mối quan hệ gần gũi với nhau, đi đôi với nhau. Vì vậy hoán dụ được hình thành dựa trên sự liên tưởng tiếp cận.


* Chức năng, tác dụng:
- Nhận thức: Nghĩa là qua B biết về A.
- Gợi hình ảnh cảm xúc ở người đọc, người nghe.
- Dùng tính chất tiêu biểu, đại diện ở sự vật B để nói về sự vật A, cho nên có tác dụng nhấn mạnh, gây ấn tượng ở người đọc, người nghe.
* VD:

Áo chàm đưa buổi phân li


Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.


B: Áo chàm-trang phục quen thuộc của đồng bào các dân tộc Việt Bắc.
A: Áo chàm chỉ người dân Việt Bắc


Ẩn dụ và hoán dụ

Monday, 18. June 2007, 08:49:55



Giúp các em ôn thi THPT môn Ngữ văn.

Có hai phương thức chuyển nghĩa phổ biến


Có hai phương thức chuyển nghĩa phổ biến:

3.1. Phương thức ẩn dụ:

Là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên các sự vật b,c,d vì giữa a,b,c,d có điểm giống nhau. Hay nói cách khác, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật liên tưởng tương đồng.

* Có 2 hình thức chuyển nghĩa:

- Dùng cái cụ thể để nói cái cụ thể (ẩn dụ cụ thể - cụ thể)

- Dùng cái cụ thể để gọi tên những cái trừu tượng (ẩn dụ cụ thể - trừu tượng).

* Một số cơ chế chuyển nghĩa của phương thức ẩn dụ thường thấy:

- Dựa vào sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng.

- Dựa vào sự giống nhau về vị trí giữa các sự vật, hiện tượng.

- Dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai hoạt động.

- Dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa các sự vật, hiện tượng.

- Dựa vào sự giống nhau về tính chất, trạng thái hoặc kết quả giữa các đối tượng.

* Nhận xét:

Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế trên không phải bao giờ cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều trường hợp không chỉ một mà có nhiều nét nghĩa cùng tác động.

3.2. Phương thức hoán dụ:

Là phương thức lấy tên gọi A của sự vật a để gọi tên cho sự vật b,c,d vì giữa a,b,c,d tuy không giống nhau nhưng có một quan hệ gần nhau gần nhau nào đó về không gian hay thời gian. Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa dựa vào quy luật liên tưởng tiếp cận.

* Các dạng chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ:

a. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa bộ phận và toàn thể. Dạng chuyển nghĩa này có các cơ chế chuyển nghĩa cụ thể sau:

- Lấy tên gọi của một bộ phận cơ thể gọi tên cho người hay cho cả toàn thể.

- Lấy tên gọi của tiếng kêu, đặc điểm hình dáng của đối tượng gọi tên cho đối tượng.

- Lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên cho đơn vị thời gian lớn.

- Lấy tên gọi của toàn bộ gọi tên cho bộ phận.

b. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa vật chứa và vật bị chứa hay lượng vật chất được chứa.

c. Lấy tên nguyên liệu gọi tên cho hoạt động hoặc sản phẩm được chế ra từ nguyên liệu đó.

d. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa đồ dùng hoặc dụng cụ và người sử dụng hoặc ngành hoạt động sử dụng dụng cụ đó.

e. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa cơ quan chức năng và chức năng.

f. Hoán dụ dựa vào quan hệ giữa tư thế cụ thể và hành vi hoặc trạng thái tâm - sinh lí đi kèm.

g. Hoán dụ dựa trên quan hệ giữa tác giả hoặc địa phương và tác phẩm hoặc sản phẩm của họ hoặc ngược lại.

....


Tóm lại, mỗi sự vật, hiện tượng có quan hệ với nhiều sự vật, hiện tượng khác chung quanh, do đó có thể có rất nhiều dạng hoán dụ. Vấn đề quan trọng cần chú ý là cần phải biết lựa chọn quan hệ nào là cơ bản để chuyển đổi tên gọi.

* Mối quan hệ giữa ẩn dụ và hoán dụ:

- Giống:

+ Bản chất cùng là sự chuyển đổi tên gọi.

+ Cùng dựa trên quy luật liên tưởng.

- Khác:


+ Cơ sở liên tưởng khác nhau:

ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương đồng. Do đó, trong trường hợp này sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi thường khác phạm trù hoàn toàn. Do đó, ta có thể nói ẩn dụ mang nhiều sắc thái chủ quan hơn.

Hoán dụ dựa vào sự liên tưởng tiếp cận. Mối quan hệ giữa sự vật chuyển đổi tên gọi và sự vật được chuyển đổi tên gọi là có thật, chứ không hoàn toàn tùy thuộc vào sự suy luận chủ quan của con người. Do đó hoán dụ mang nhiều tính khách quan hơn.

* Nhận xét:

- Một từ có thể được chuyển nghĩa theo nhiều phương thức.

- Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm cùng một cấu trúc thì sự chuyển nghĩa thường theo cùng một hướng.

- ẩn dụ và hoán dụ tồn tại ở bình diện ngôn ngữ lẫn lời nói, tuy nhiên sự chuyển nghĩa của hai bình diện này khác nhau. Cần phân biệt ẩn dụ và hoán dụ tu từ với ẩn dụ và hoán dụ từ vựng.

+ ẩn dụ và hoán dụ tu từ được sử dụng nhằm giúp cho sự diễn đạt tăng tính hình ảnh, biểu cảm, chứ không có tác dụng tạo nghĩa mới nhằm làm giàu cho hệ thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ dân tộc. ẩn dụ và hoán dụ tu từ là sự sáng tạo của cá nhân do đó nghĩa tu từ mang tính tạm thời, lệ thuộc hoàn toàn vào văn cảnh, tách khỏi văn cảnh, nghĩa tu từ biến mất.

+ ẩn dụ và hoán dụ từ vựng có tác dụng tạo nghĩa mới cho hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa của dân tộc, do đó sự chuyển nghĩa đó là sản phẩm của toàn dân, được cố định hóa trong kho từ vựng tiếng Việt, được ghi vào từ diển như một nghĩa sẵn có, được tái dụng một cách tự do trong lời nói.



Thụy Khuê

Cấu Trúc Thơ

VI. Ẩn dụ và hoán dụ

Ẩn dụ và hoán dụ là hai phép tu từ giữ địa vị chủ yếu trong cấu trúc văn thơ. Nếu những tìm tòi về ngữ học không ngừng soi sáng bộ môn thi học, nghiên cứu đến ngành ngọn chức năng của  ẩn dụ trong thơ, thì ngược lại, vai trò hoán dụ trong văn xuôi ít được chú ý. Vì sao? Lý do đơn giản: thơ lấy ngôn ngữ làm giá trị tự tại trong khi văn dùng ngôn ngữ như một phương tiện dẫn giải. Giá trị của thơ chủ yếu nằm trong lời, giá trị của văn cốt ngụ ở ý. Vai trò của ẩn dụ trong thơ đã được trình bày trong chương trước.
     Phần này chủ đích phân tích vai trò của hoán dụ. Tìm một định nghĩa, nhận định sự khác biệt với ẩn dụ và giải thích những áp dụng trong địa hạt văn, thơ. 

*


     Xin nhắc lại, ẩn dụ (métaphore) đựa trên tương quan tương đồng, là thay thế một khái niệm bằng một khái niệm khác, trên căn bản so sánh ngầm, nhưng vế bị so sánh và liên từ để so sánh đã bị xóa, chỉ còn lại vế đem ra so sánh. Ví dụ: Anh như con thuyền, em như cái bến trở thành:

 Thuyền về có nhớ bến chăng


 Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
                                              (Ca dao)

     Ẩn dụ là lối tạo hình cổ điển xuất hiện thường xuyên trong ngôn ngữ. Nhưng ẩn dụ dùng quen dễ thành nhàm, sáo, phải thay đổi, phải luôn luôn làm mới. Sự biến đổi không ngừng của ẩn dụ giải thích những tiến hóa của tiếng lóng, ký hiệu ngôn ngữ riêng của một thành phần xã hội (hoặc nghề nghiệp), chỉ người trong bọn mới hiểu nổi. Tiếng lóng dùng quen sẽ "lộ" và bị đào thải.


     Trở lại địa hạt văn chương, nhà văn, nhà thơ vẫn có thể cách tân những ẩn dụ đã "sáo mòn" bằng cách tạo một hình ảnh mới. Ví dụ: chim sa, cá lặn là những hình ảnh rất cổ điển ca tụng vẻ đẹp của người đàn bà. Nhưng:

 Chìm đáy nước, cá lừ đừ lặn


 Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa
                              (Cung oán)

lại khác. Những trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ tạo một tâm cảm cho cá, nhạn, biến chúng thành những nhân tố có tâm hồn, đã bị sắc đẹp quyến rũ, lôi cuốn, làm say sưa mê hoặc đến độ "ngẩn ngơ, lừ đừ". Ngoài ra cá lặn, nhạn sa chỉ là những động tác chính xác, có tính cách không gian. Nhưng cá lừ đừ lặn, nhạn ngẩn ngơ sa thì khác: ở đây có thêm yếu tố thời gian lạc vào; những trạng từ lừ đừ, ngẩn ngơ láy âm bâng khuâng, man mác, vừa vang âm trong không gian, vừa kéo dài trong thời gian, vừa phôi pha ý nghĩa. Chúng tôi sẽ trở lại vai tò của từ láy trong chương VIII.


     Với những ẩn dụ cổ điển: chim sa, cá lặn có tính cách chính xác và thuần túy không gian ấy, Ôn Như Hầu đã cách tân, tạo thêm cho ngôn ngữ những chiều kích mới: chiều dài của thời gian, chiều sâu của tâm tư và dàn trải trong chiều rộng nhập nhòe của ngữ nghĩa. 

*


     Hoán dụ (métonymie) dựa trên tương quan kết hợp, là thay thế một khái niệm bằng một khái niệm khác có với nó một liện hệ tất yếu. Ví dụ:

 - Liên hệ giữa đồ vật (objet) và chất liệu (matière): mặc (áo) lụa, mặc gấm, mặc nhung, v.v...


 - Liên hệ giữa vật chứa (contenant) và chất được chứa (contenu): uống một chén (nước), ăn hai, ba bát (cơm) v.v....
 - Liên hệ nhân quả: dùng binh đao hay khói lửa... để chỉ chiến tranh. Hoặc viết: đỏ mặt tía tai để chỉ tình trạng giận lắm...
 - Liên hệ giữa bộ phận và toàn thể: dùng má hồng để chỉ người phụ nữ.
                           Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (Kiều)
 - Liên hệ giữa trang phục (hay phụ tùng) và con người:
                           Ðường hoa son phấn đợi
                            Áo gấm sênh sang về
                                     (Vũ Hoàng Chương)

 Ẩn dụ và hoán dụ có những tính chất giống nhau:

1. Rút gọn lời nói và tạo hình.
2. Vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ.
3. Mang vào ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, do đó gây cảm xúc.

và đồng thời cũng có những khác biệt sâu xa:


     Ẩn dụ, tuy dựa trên tương quan tương đồng, nhưng thực ra khi ví: anh như chiếc thuyền, em như cái bến, thì cũng chẳng bắt buộc anh phải có vẻ gì giống thuyền và em phải có gì giống bến; nhất là khi đã bỏ các vế "em như, anh như" đi rồi thì thuyền và bến hoàn toàn tự do, có thể là anh, em hay bất kỳ một hình ảnh nào khác mà người đọc tưởng tượng ra.  
     Mặt khác, ngay trong tương quan anh-em, thuyền-bến cũng đã mơ hồ, không rõ ai là thuyền, ai là bến:

 Theo gió thuyền xuôi


 Sóng đưa bèo trôi
 Tiếng đàn trầm trầm
 Man mác lòng tôi
 Nhìn con thuyền xa bến
 Lòng ta còn lưu luyến...
 (Con Thuyền Xa Bến, Lưu Bách Thụ)

tiếng nhạc luyến say lời ca: Em đã đi, sóng đưa em đi, bèo trôi em đi... thuyền đây rõ là em vì có ta xác định vị trí của em. Niềm lưu luyến em cũng là của riêng ta.


Nhưng với Con Thuyền Không Bến của Ðặng Thế Phong:

 Ðêm nay thu sang cùng heo may


 Ðêm nay sương lam mờ chân mây
 Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
 Như nhớ thương ai chùng tơ lòng
 ...
 Biết đâu bờ bến
 Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu?
 ...
 Trên sông bao la
 Thuyền mơ bến nơi đâu?

thì không rõ ai là thuyền, ai là bến, ai thương nhớ ai... Qua ẩn dụ thuyền-bến, qua biến từ ai, qua những trạng từ có tính chất biến từ: đâu, nơi đâu, qua những động tác mông lung đưa đẩy: trôi, lững lờ trôi, xuôi dòng... Ðặng Thế Phong tạo sức phiếm định, nhiều chiều: ở đây, lưu luyến, nhớ thương, mơ tưởng đã trùng phùng và mờ xóa trong bao la, không bờ, không bến, không biết ai gửi cho ai. Ẩn dụ có tác dụng làm lu mờ ý nghĩa, do đó mở rộng địa bàn biểu đạt tư tưởng của ngôn từ. Cho nên, khi Ôn Như Hầu viết: "Trải vách quế gió vàng hiu hắt" hoặc khi Phạm Duy dùng hình ảnh "cỏ hồng", thì bất cứ một họa sĩ nào cũng có thể họa được một hay vô vàn vách quế, gió vàng, cỏ hồng theo cảm tác riêng của mình. Riêng đối với cỏ hồng, phân tích, tìm hiểu, hoặc nói rõ ra là gì, chỉ làm triệt tiêu giá trị nghệ thuật của từ ngữ nằm trong chỗ mơ hồ, phiếm định. Valéry tuyên bố: "Người ta gán cho thơ tôi nghĩa gì thì gán. Nghĩa mà tôi định, chỉ đúng với tôi và không buộc ai phải theo. Nếu quả quyết rằng mỗi bài thơ phải mang một ý nghĩa đích xác và độc nhất, phù hợp hoặc đồng nhất với một ý tưởng nào đó của tác giả, là một sai lầm đi ngược với bản chất thơ, hủy hoại thơ" (Variété). 


*


     Hoán dụ, cũng là thay thế chữ, nhưng chữ thay thế phải có liên hệ tất yếu với chữ bị thay hoặc ngược lại, như áo với nhung, lụa, gấm,..., bát với cơm, nước..., chiến tranh với đao binh, binh lửa, gươm đao... Tóm lại, khi thay thế một từ như áo, bằng lụa, nhung, gấm..., người viết đã làm một hoán dụ.
     Khi thay thế áo bằng một từ khác, không nhất thiết phải có liên hệ gì với áo, như: Người trăng ăn vận toàn trăng cả  (Hàn Mặc Tử) hoặc khi thay thế chất liệu để may áo như tơ, lụa, nhung, gấm,... bằng một "thứ" hoàn toàn khác, không có liên hệ gì đến chất liệu ấy như: Ta vận áo xuân đi hớn hở (Huy Cận) thì nhà thơ đã thực hiện những ẩn dụ.  
     Sự khác biệt của hai phép tu từ căn bản ở chỗ: ẩn dụ không có giới hạn chọn lựa, hoán dụ bị giới hạn trong cái quan hệ tất yếu.
     Hoán dụ không có tính cách phiếm định như ẩn dụ, ngược lại hoán dụ dùng cái quan hệ tất yếu để kết hợp những yếu tố có cùng với nhau một mẫu số chung, thành một hệ thống lô-gích. Do đó, đặc tính của hoán dụ:

 - Bằng kết hợp, biện pháp hoán dụ tạo cho ngôn ngữ sự mạch lạc giữa các ý tưởng.


 - Nhờ biện pháp hoán dụ, người viết có thể dùng chi tiết để biểu dương hoặc bổ xung toàn diện.
 - Khi thay thế các trạng thái tâm hồn: buồn, giận, ưu tư,... bằng những động tác hậu quả của các trạng thái đó, hoán dụ có tác dụng kích động, gây cảm xúc.

   Tất cả những yếu tính trên đây được tận dụng trong tiểu thuyết, kịch, điện ảnh,... 


*


     Trong địa hạt tiểu thuyết, biện pháp hoán dụ giúp các tiểu thuyết gia thay thế kỹ thuật kể chuyện trong văn chương cổ điển bằng kỹ thuật hiện thực.
     Nghiên cứu về Tolstoi, không thể bỏ qua phương cách tác giả xoáy ngòi bút vào một số chi tiết thuộc cá tính, cử chỉ, diện mạo của nhân vật, rồi lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm: những chi tiết này giúp tác giả không cần dài dòng mà vẫn vẽ được chân dung độc đáo của nhân vật, gây ấn tượng, khắc sâu vào trí nhớ người đọc:
     Trong Chiến Tranh Và Hòa Bình: André mặt mũi khinh khỉnh. Lise có môi trên hơi ngắn, hay cong lên, phủ lông tơ. Hélène hay mỉm cười. Pierre cặp mắt cận thị luôn luôn ngơ ngác như muốn tìm ai trong đám đông. Vassili có những thớ thịt giật giật trên má. Bắp chân trái của Napoléon hay run run...
     Trong Anna Karénine: Anna thay đổi sắc diện hơn một trăm lần. Riêng xen Anna tự tử: Tolstoi rọi lăng kính vào đồ phụ tùng của người bạc mệnh, vào chiếc ví tay "định mệnh" của nàng, tạo "không khí", gây tác dụng bất ngờ, khiến độc giả xúc động đến tột cùng trước cái chết của Anna.
     Ảnh hưởng Tolstoi, Nhất Linh cũng đưa những biện pháp hoán dụ tương tự vào tiểu thuyết: Trúc, trong Ðôi Bạn, luôn mồm: "Vì tôi đã nhất định thế rồi". Trong Xóm Cầu Mới, Triết hay ngồi buồn. U già hay nói ngang phè nhưng có lý. Bà Ký Ân mở miệng ra là: "Người trần mắt thịt ôi!". Bác Lê gái hay cốc các con thủng đầu...  
      Thạch Lam nói về kỹ thuật hiện thực: "Tác giả diễn tả bằng chi tiết chứ không bằng lời giảng giải. Những việc xảy ra cả đến sự u uẩn của tâm hồn như những đoạn tả một người sắp chết, một người có ý giết bố, tả tình yêu đắm đuối v.v... tác giả không dùng lời nói dài dòng mà chỉ dùng những chi tiết nho nhỏ để diễn tả. Chính những điều nho nhỏ, một nét mặt, một cử chỉ, một giọng nói, cho chúng ta biết rõ tâm lý hơn; những cái mà ta thường coi là nhỏ nhặt vụn vặt hay tỉ mỉ, chính lại là những cốt yếu của tiểu thuyết hay". (Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết, Nhất Linh, viết theo Theo Giòng của Thạch Lam).  
     Nhất Linh hướng dẫn phương pháp nhận xét chi tiết của một nhân vật, ví dụ về cử chỉ: "Có người động ngồi xuống là hai bàn tay phải kéo ống quần tây cho khỏi nát; có người hay chớp mắt luôn; có người hễ nói xong một câu hùng biện là y như chúm môi, mở to mắt nhìn, vừa ngơ ngác, vừa phục mình là tài; có người hay búng tay; có người lúc giảng giải điều gì thì xoay xoay bàn tay mình thành vòng tròn rồi khi kết luận xong, giơ một ngón tay chỉ quãng không, như bảo ta: đấy, chân lý nó ở chỗ ấy đấy v.v... Tất cả những thứ trên này và những dáng điệu khác là cử chỉ của một nhân vật. Nếu chỉ viết: cử chỉ ông ấy thật là điềm đạm, hoặc cậu bé táy máy luôn tay, thì nhân vật kém phần linh động. Phải tả một vài cử chỉ để tỏ cho người ta thấy ông ấy điềm đạm, hay cậu bé táy máy, mà tác giả không cần nói ra". (Sách đã dẫn).  
     Những điều trên đây chứng tỏ Nhất Linh đã sử dụng hoán dụ như một nguyên tắc cơ bản trong kỹ thuật viết tiểu thuyết.
     Trong hai trích đoạn dưới đây, Nhất Linh chỉ dùng một chi tiết rửa chân làm động tác chính và vận dụng tất cả những chi tiết khác, xoay quanh chi tiết chính, để mô tả hai nồng độ khác nhau trong tình yêu giữa Siêu và Mùi:

 "- Nước lạnh chân quá, anh có thấy lạnh không?


     Miệng nói câu ấy nhưng lòng nàng là muốn diễn với Siêu: "Em đang vui sướng đây! Anh có thấy không?". Siêu nghe tiếng Mùi như vẳng ở đâu rất xa lại và thân yêu như một nỗi nhớ nào từ hồi quá vãng. Chàng nhìn hai bàn chân nhỏ nhắn của Mùi đương bắt chéo hứng lấy giòng nước từ gáo chảy xuống. Chàng loay hoay nghĩ ngợi để tìm một câu tả nỗi vui được gặp Mùi, được sống gần Mùi, nhưng chàng không biết nói câu gì:
 - Ðôi guốc của cô, tôi đi nhỏ quá, đau cả chân."
  (Xóm Cầu Mới, trang 265)
 "Chàng ngồi xuống với đôi guốc đặt cạnh chân Mùi; bỗng chàng yên lặng nhìn hai chân ướt nước của Mùi một lát, hai bàn chân nhỏ xinh và cái bắp chân tròn tròn và chàng nghĩ nếu được ôm lấy hai bàn chân lúc đó mà hôn chắc cũng thích như hôn môi nàng. [...]
 - Khăn đây, cô lau chân cho khô. Cô lại định đợi tôi hầu như ngày còn bé à? [...]
 - Ờ nhỉ, thuở bé sao em ghét đi guốc thế, mà anh thì lại cứ bắt em phải đi guốc. Hễ chạy chơi chân không được một lúc là anh đem em đi rửa chân và lau chân một ngày không biết đến mấy bận. Em đến tức. Nhưng bây giờ nhớn rồi, em phải lau lấy chứ!
 Nàng nói thế nhưng lại khẽ đưa hai bàn chân ra như đợi. Siêu thấy rờn rợn khắp người nửa vì thú nửa vì sợ.
 - Có nên không?
 Tuy chàng đã cầm lấy bàn chân mà chàng không biết chàng đã bắt đầu lau từ lúc nào".
                                                                                                     (trang 604-605)

     Nam Cao đổ dồn các chi tiết vào một hồng tâm: cái mặt của Thị Nở. "Cái mặt" là tiền đồn của vô thức, biểu dương bản năng, chi phối mọi nhận thức, chi phối sinh mệnh con người:

 "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra; ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công: nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất. Và thị lại nghèo, nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi: Cái này khiến không một chàng trai nào phải phân vân. Người ta tránh thị như tránh một vật rất tởm. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa có chồng"
 (Chí Phèo, trang 27).

     Võ Phiến tận dụng những chi tiết với một phong cách khác. Ông tàn nhẫn quan sát đến độ soi mói: quanh cách gắp món ăn, các lượng thông tin đổ đến một cách dồn dập, các chi tiết liên tiếp kéo theo nhau như được rút tự mớ bòng bong, khiến người đọc có cảm tưởng như lạc vào mê hồn trận:

 "Vừa đối diện với mâm cơm, bằng một cái liếc rất nhanh hắn đã định ngay được giá trị từng món ăn, chọn ngay được món ăn ngon nhất. Và từ đầu đến cuối bữa ăn, hắn tấn công vào trọng tâm một cách kiên nhẫn, nhưng khôn ngoan lạ kỳ [...]. Hắn tính toán chu đáo, gắp khắp các đĩa, nhưng tổng kết lại thì thế nào cũng gắp được món ngon nhiều hơn cả, và hắn theo dõi ngọn đũa của tất cả các thực khách, không dung thứ cho một người nào hơn mình. Hắn cạnh tranh kín đáo nhưng ráo riết. Hắn bực mình nhất là gặp phải một kẻ lơ đãng. Kẻ lơ đãng đôi khi thình lình tấn công liên tiếp vào món ngon, như một cua rơ tự nhiên bức phá, làm cho hắn phải ra sức đuổi theo kèm sát. Có để ý đến thái độ của hắn trong những trường hợp này mới thấy hắn khéo léo thần tình. Hắn lầm lì như không hề quan tâm chú ý đến đối phương nhưng hắn suy tính chín chắn và phản công trả đũa, chận đứng đối phương rất nhẫn tâm. Bình thường thì ngọn đũa trí trá của hắn thu lại đầy ý thức chuẩn bị, rồi đột nhiên vụt phóng ra nhanh nhẹn lạnh lùng như một con cò già lão luyện phóng mỏ bắt ruồi, trăm lần không sai đích một lần.
 Tôi đã thấy những cái liếc trộm lanh lẹ của hắn có ý nghĩa canh giữ phòng thủ trên mâm cơm, những thủ đoạn giả vờ vô tâm, đãng trí của hắn, sự chọn lựa cân nhắc tỉ mỉ của hắn v.v... Nhưng đáng ghét nhất vẫn là đôi đũa và cái miệng của hắn. Cặp mắt thì chỉ biểu lộ cái gì hắn muốn biểu lộ, còn bàn tay và cái miệng thường vô tình phản ảnh cả cái phần vô ý thức mà hắn quên kiểm soát giấu giếm. Người ta thấy đôi đũa của hắn dụm lại trong lòng chén như hai chân trước của một con ngựa chấp chới sắp sửa nhẩy qua rào, và mép trên của hắn run nhấp nháy lúc nào cũng đang sửa soạn. Cái bình tĩnh bề ngoài của hắn mâu thuẫn với những nét run run khe khẽ nóng nảy ở bàn tay, những giậm giật nhấp nháy của đôi đũa và mép, những ham muốn ti tiện dồn ép bên trong".
 (Dung, Truyện Ngắn I, trang 36)



     Nguyễn Huy Thiệp cũng dồn công lực vào bữa cơm, nhưng với phong cách hoàn toàn khác Võ Phiến:

 "Chị Hiên mời: "Các em xơi tự nhiên". Thằng Tiến đòi: "Cho em làm các cụ với!" Mẹ Lâm gạt đi: "Hỗn nào! Chim bằng quả ớt thì làm các cụ ra sao?" Cái Khanh bụm miệng cười. Tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở dài: "Các cụ toàn chim to..." Mọi người cười lăn, chỉ có bố Lâm không cười. Khuôn mặt ông sạm đen, vất vả, nhưng không buồn tí nào, bình thản, vô sự. Thằng Tiến khóc. Chị Hiên dỗ nó: "Nín đi! Chị cho Tiến cái càng cua này". Thằng Tiến lắc đầu: "Ừ ừ... Càng cua bé tí". Chị Hiên bảo: "Ngày mai chị đi chợ, chị mua cho Tiến bộ tam cúc nhé". Mẹ Lâm bảo: "Cờ bạc là bác thằng bần. Ðừng mua tam cúc cho nó. Lớn lên nó ham chơi thì chết! Cứ mua cho nó cái roi!" Thằng Tiến lại khóc: "Mua tam cúc cơ". Chị Hiên đưa mắt sang mẹ Lâm, giấu cái nhìn đồng lõa: "Ừ mua tam cúc". Bà Lâm bảo: "Ngày xưa có ông Hai Chép lái đò ham đánh tam cúc ăn tiền, đầu tiên mất tiền, rồi mất ruộng, mất đến nhà, vợ nó cũng bỏ đi nốt. Thế là đến đêm ra thuyền ngồi khóc. Giận đời, lại muốn chuộc tội, ông Hai Chép lấy dao cắt phăng hai hòn dái của mình vứt xuống sông. Vợ nó cũng chẳng quay lại." Mẹ Lâm bảo: "Ðàn bà thế là bạc". Bà Lâm bảo: "Bạc gì? Có hai hòn dái là của quý thì mất rồi còn đâu?" Chị Hiên cười: "Gớm, chuyện của bà cứ rờn rợn là!"


 Bữa cơm qua nhanh. Cái Khanh vét nồi quèn quẹt. Chị Hiên hỏi tôi: "Hiếu ăn có no không?" Tôi gật đầu: "Em ăn được bốn bát. Ở Hà Nội em chỉ ăn ba bát." Mẹ Lâm bảo: "Trai tráng ăn bốn bát thì hèn. Ông nhà tôi phải chín bát lèn chặt. Tôi cũng sáu bát mới đủ no." Chị Hiên bảo: "Con chịu u, con chỉ ba bát là hết mức." Bà Lâm bảo: "Ăn đi con ạ. Ðàn ông nó chẳng thương mình đâu. Rượu thì nó ngồi mâm trên. Ngủ thì nó đè lên mình." Bố Lâm gắt: "Bà lão hay nhỉ!" Bà Lâm lẩm bẩm: "Hay con mẹ mày! Tao tám mươi tuổi đi nói sai à?"
(Những Bài Học Nông Thôn).

*


     So sánh những trích đoạn trên đây của các nhà văn nổi tiếng, chúng ta nhận thấy họ đều đã sử dụng hoán dụ một cách tài tình. Mỗi người chọn một chi tiết trong một khung cảnh và xoáy sâu vào chi tiết đó để mở rộng các khung cửa khác với bút pháp và phong cách khác nhau:
 - Nhất Linh trầm tĩnh, an nhiên, tế nhị, thư thái và cốt cách: Nhấm nháp từng mùi hương, hơi thở của cuộc đời trong sự trầm tĩnh khoáng đạt. Nhất Linh sống với thiên nhiên, tìm thấy hạnh phúc trong tự tại và tạo một bình minh trong tâm hồn.
 - Nam Cao sử dụng mỗi chi tiết trên khuôn mặt như một trò chơi quái ác của định mệnh. Hoán dụ ở đây được lập lại như một nhấn mạnh để đi đến cùng cực của cái xấu và cái bất hạnh: làm như tả thế vẫn chưa đủ xấu, tác giả còn bồi thêm mỗi lần (đã thế..., đã thế..., và thị lại..., và thị lại... ) một chi tiết mới, tiếp sức cho chi tiết cũ; như thể càng nhìn kỹ cái diện mạo ấy, càng thấy sự tán tận lương tâm của Thượng đế và định mệnh. Nam Cao sần sùi, trần trụi, vẽ cuộc đời trong trạng thái bán khai nguyên thủy: Diện mạo phản ảnh bản chất và định mệnh con người.
 - Võ Phiến dùng bữa ăn như một bàn cờ người: Qua cách ăn uống, con người bộc lộ phần tâm lý sâu xa của mình trên ba địa tầng: vô thức, tiềm thức và ý thức. Vô thức là phần sâu nhất, có tính bản năng. Vô thức quyết định các hoạt động của cá nhân. Tiềm thức trung gian giữa vô thức và ý thức. Tiềm thức chịu trách nhiệm về con người bình thường trong đời sống hàng ngày. Và ý thức là phần con người "văn hóa" sống trong "đạo đức xã hội". Ðối diện với mâm cơm, con người biểu lộ cả ba địa tầng tâm lý, đem hết tiềm lực ra để "tranh đấu cho sự sống còn" của mình và bộc lộ cả bản năng lẫn bộ mặt "đạo đức xã hội": tư cách, thủ đoạn, tham vọng lẫn cuồng vọng.
 
 - Nguyễn Huy Thiệp là một trường hợp đặc biệt phức tạp. Trong văn phong ông, cấu trúc hình thức đan cài cấu trúc nội dung.
     Về mặt hình thức, Nguyễn Huy Thiệp dùng hoán dụ để rút gọn ngôn ngữ đến chỗ quánh đặc. Hầu như tất cả đều là những mệnh đề độc lập. Bỏ liên từ (không còn: vì thế, cho nên, nếu, rằng, thì, là, mà...) theo lối cấu trúc kịch và thơ, nhưng trích đoạn trên đây hầu như không có chất thơ. Cách rút gọn lời nói của Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu để sản xuất một lượng thông tin lớn nhất trong một số chữ nhỏ nhất. Trong 395 chữ, Nguyễn Huy Thiệp đã phác họa một bữa ăn gia đình và qua đó là hình ảnh xã hội Việt Nam hiện nay: Chiếu trên chiếu dưới, cá lớn nuốt cá bé. Giai cấp có quyền ngu muội (tượng trưng bằng những người đàn ông mà tiêu biểu là ông Hai Chép) đàn áp những người có trí óc, sáng suốt minh mẫn nhưng yếu thế (tượng trưng bằng đàn bà, con nít mà tiêu biểu là thằng Tiến và bà Lâm). Nguyễn Huy Thiệp đã dùng hoán dụ trên ba đẳng độ:

1- để rút gọn lời nói;


2- rồi dùng lời nói để mô tả bản năng và tri thức của con người. Lời nói (đối thoại) ở đây giữ địa vị chủ yếu, như trong kịch, nó nắm toàn diện tác phong các nhân vật;
3- tác phong nhân vật trong bữa cơm nói lên tác phong đạo đức xã hội Việt Nam hiện đại.

     Nguyễn Huy Thiệp đã thấu triệt phương pháp hoán dụ. Ngoài ra, dùng một bữa ăn gia đình để nói lên bộ mặt của xã hội Việt Nam cũng lại là một biện pháp ẩn dụ; và ẩn dụ cũng là sở trường của Nguyễn Huy Thiệp. Sau cùng, Nguyễn Huy Thiệp dùng ngôn ngữ trần trụi và dung tục của người dân quê để chống lại thứ ngôn ngữ giáo điều, bài bản, dài dặc và trống rỗng thường thấy trong xã hội. 




*


     Trung gian giữa văn và thơ là những tiểu thuyết viết bằng thơ (truyện Nôm). Trong Kiều, sự giao thoa giữa kỹ thuật viết văn và làm thơ được thể hiện trên toàn thể tác phẩm. Ở đây, hoán dụ đóng một vai trò quan trọng.
     Tả người, chỉ cần một vài chi tiết, Nguyễn Du đã vẽ nên những chân dung toàn bích:

 Mã Giám Sinh:


 Quá niên trạc ngoại tứ tuần
 Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
 Từ Hải:
 Râu hùm, hàm én, mày ngài
 Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
 Tú Bà:
 Thoắt trông lờn lợt màu da
 Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao.
 Tả cảnh, cũng chỉ vài chi tiết chấm phá, Nguyễn Du đã họa xong một bức ấn tượng:
 Cỏ non xanh tận chân trời
 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
 ...
 Dưới dòng nước chảy trong veo
 Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

     Trên đây, Nguyễn Du đã dùng hoán dụ như một kỹ thuật hiện thực để tả người, tả cảnh. Ngoài ra Nguyễn Du còn tận dụng hoán dụ như một phương pháp cung cấp lượng thông tin tối đa, tương tự như các tiểu thuyết gia cận đại và hiện đại.  


     Chúng ta thử so sánh những câu thơ sau đây trong Lục Vân Tiên và Kiều:

 Khoan khoan ngồi đó chớ ra


 Nàng là phận gái, ta là phận trai.
  (Lục Vân Tiên)

 và


 Xắn tay, mở khóa, động đào
 Rẽ mây, trông tỏ lối vào thiên thai.
  (Kiều)

     Không đả động đến khía cạnh nghệ thuật, chỉ xét sự tương quan giữa lượng chữ với lượng thông tin:


     Trong 14 chữ của Nguyễn đình Chiểu, thật ra chỉ có hai chữ đắc dụng: khoan khoan. Vì khoan khoan tức là ngồi đó mà ngồi đó thì chớ ra. Còn nàng là phận gái, ta là phận trai thì hoàn toàn vô dụng (vô dụng khác với vô nghĩa: trong thơ có rất nhiều chữ, nhiều câu lẩn thẩn, vô nghĩa).
     Cũng với 14 chữ, Nguyễn Du diễn tả bốn động tác của Kiều: xắn tay, mở khóa, rẽ mây, trông tỏ và tung ra ba bối cảnh hoặc tâm cảnh: động đào, lối vào, thiên thai.
     Như vậy cùng với một lượng chữ, tùy theo tác giả mà chúng ta có thể có những lượng thông tin cao thấp hoàn toàn khác nhau. Chúng ta đã biết Nguyễn Du sử dụng ẩn dụ một cách toàn bích; ở đây lại thấy Nguyễn Du quán triệt hoán dụ tới mức tài tình: do đó mà truyện Kiều rất ít những lời vô dụng. 

*


     Biện pháp hoán dụ trong văn vừa có tác dụng rút ngắn ngôn ngữ, vừa có tác dụng mở rộng chi tiết, thể hiện như con dao hai lưỡi. Sử dụng đúng mức, nhà văn có thể làm thành sở đắc: dùng ít lời mà truyền được nhiều lượng thông tin, khiến cho văn bản súc tích. Ngược lại, khi đi sâu vào quá nhiều chi tiết, làm rối rắm độc giả thì thành sở đoản: nhà văn đã sa vào cái bẫy của hoán dụ. 


*


     Trong địa hạt điện ảnh, biện pháp hoán dụ được áp dụng tương tự như trong tiểu thuyết: Dùng cận ảnh (gros plan) trên một chi tiết để biểu dương toàn diện.
     Trong phim L Amant (Người tình), Jean Jacques Annaud quay gros plan trên đôi giày của cô bé để mô tả nỗi phong trần của Duras vị thành niên: chi tiết ấy giúp Annaud tiết kiệm được nhiều bối cảnh và phân cảnh. Trong Hiroshima mon amour, Duras dùng gros plan trên vai, trên chân của cặp tình nhân để mô tả cảnh làm tình. Phương pháp ấy giúp đạo diễn nói lên toàn diện một cách kín đáo và tế nhị. Sang địa hạt trinh thám, Alfred Hitchcock hay dùng đồ phụ tùng của nhân vật để tạo cảm giác căng thẳng. Quay gros plan trên dấu giầy, khăn foulard, bật lửa bỏ quên, thuốc lá cháy dở,... trước hoặc sau khi xẩy ra án mạng; kích thích khán giả liên tưởng tới chủ nhân các vật dụng đó, có thể là nạn nhân hoặc thủ phạm. Những gros plan này gây cảm giác rùng rợn vì tác dụng bất ngờ, khơi gợi trí tò mò, kích thích khả năng nhận xét, tìm tòi của khán giả.
     Ngoài ra, biện pháp hoán dụ còn được sử dụng trong kỹ thuật lắp ghép (montage) các chi tiết trong điện ảnh tương tự như trong tiểu thuyết. Nguyễn Phan Cảnh nhận xét:

 "Tiến độ (tempo) của các văn bản thơ từ lâu đã được nhận thức như là một vấn đề cốt tử.


 Ðó là, trong một đơn vị thời gian, số cảnh càng nhiều thì lượng thông tin càng lớn, tiến độ càng nhanh, sức chú ý của người nhận càng tăng.
 Ngược lại, nếu các cảnh dàn trải thì số cảnh trong một đơn vị thời gian sẽ bị ít đi, lượng tin bé, tiến độ chậm, sức chú ý của người nhận giảm sút."
 (Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn Ngữ Thơ, trang 115)

    Ðạo diễn Trần Anh Hùng, trong Cyclo (giải Sư Tử Vàng, Venise 1995) đã tận dụng  cận ảnh như một biện pháp vừa ẩn dụ, vừa hoán dụ để "quay" cảm giác và "quay" nội tâm nhân vật, đồng thời kích thích cảm giác người xem. Với tiến bộ (tempo) rất nhanh, Trần Anh Hùng tạo không khí dồn ép, bức bách khán giả đến độ nghẹt thở; chưa kịp "tiêu hóa" ảnh này, đã bày ra cảnh khác. Ðạo diễn sáng tạo một ngôn ngữ điện ảnh mới, không dùng hình ảnhõ để kể chuyện mà dùng hình ảnh như một "chất liệu" giống như nhà thơ dùng chữ để tạo dựng một tác phẩm nghệ thuật. Tiến độ cực nhanh cưỡng ép người xem phải tập trung tư tưởng tối đa để giải mã những mấu chốt, nghệ thuật và tâm linh, xã hội và con người ẩn sau mỗi hình, mỗi ảnh.


     Biện pháp hoán dụ trong điện ảnh cũng như trong văn chương, có tác dụng cô đọng tác phẩm, sắp xếp các chi tiết một cách mạch lạc, đồng thời tác động vào óc phân tích, óc thực nghiệm, óc hiếu kỳ của khán/độc giả, lôi cuốn họ phải theo dõi cuốn phim hoặc đọc đến đoạn kết câu truyện. 

*


     Sau cùng, chúng tôi xin trở lại thí dụ:

 Thuyền về có nhớ bến chăng?


 Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền.

 Khi ví: anh như con thuyền, em như cái bến, tác giả hai câu ca dao trên đã có ẩn ý ràng buộc anh với em bằng liên hệ thuyền-bến: Do đó, ẩn dụ "thuyền-bến" cũng có một quan hệ tương liên, vì thế hàm chứa tính chất hoán dụ.


     Trong thơ văn, chúng ta đã thấy Nguyễn Du sử dụng và tận dụng cả ẩn dụ lẫn hoán dụ một cách tài tình. Trong tiểu thuyết, khi Nguyễn Huy Thiệp dùng một bữa cơm gia đình để nói lên bộ mặt của xã hội Việt Nam, khi Nhất Linh mượn cảnh rửa chân để biểu hiện nồng độ tình yêu giữa Siêu và Mùi, khi Võ Phiến dùng mâm cơm để đả động đến tư cách và bản năng của con người, khi Nam Cao dùng diện mạo để để biểu dương định mệnh: Tất cả những hoán dụ và ẩn dụ ấy ít nhiều đều có tính cách tương liên. Ðiều đó chứng minh sự khẳng định của Jakobson: "Mọi ẩn dụ đều phảng phất tính hoán dụ và mọi hoán dụ đều có ít nhiều tính cách ẩn dụ" (Questions de poétique).
     Mặc dù bản chất của thơ là mơ hồ, phiếm định, bản chất của văn là xác đinh và dẫn giải, hệ luận trên đây giải thích những tương quan mật thiết giữa văn và thơ: Tại sao trên căn bản dị biệt sâu xa, thơ văn lại giao thoa đến độ khó có thể tách rời nhau ra được.

Paris 12/1992 - 10/1995

Đợt trước em đã giới thiệu với các bác ẩn dụ (metaphor) là cái chi, lần này em xin đề cập đến sự khác biệt giữa ẩn dụ với hoán dụ, và mục đích sử dụng của ẩn dụ nha.

Rất nhiều người cho rằng ẩn dụ là cách diễn đạt phức tạp, chủ yếu chỉ dành cho các nhà văn, nhà thơ. Nhưng thực ra ẩn dụ được sử dụng rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày vì tính hữu dụng của nó. Em lấy ví dụ đơn giản thế này. Hai ông bạn đồng nghiệp tâm sự với nhau. Một ông đề xuất hai người tối nay đi nhậu. Ông bạn đáp lại: Ok nhưng về sớm nha mày, sư tử nhà tao dạo này dữ lắm. Dĩ nhiên trong câu này không ai hiểu sư tử nghĩa là vật nuôi trong nhà ông kia hết, mà chính là cô vợ của ổng. Lấy ví dụ như vậy để các bác dễ hiểu. Các bác cứ nhớ rằng hễ khi nào người ta dùng cái này để chỉ cái kia thì tức là ẩn dụ đang được sử dụng đó.

Mặc dù ẩn dụ dùng cái này để chỉ cái kia, nhưng hãy nhớ rằng ‘cái này’ và ‘cái kia’ thường là hai khái niệm khác biệt nha. Trong ngôn ngữ học người ta gọi “cái này” và “cái kia” là the topic and the vehicle. The topic là cái người ta muốn đề cập đến (trong ví dụ trên là vợ). The vehicle là cái dùng để chuyển tải ý muốn đề cập kia (sư tử). Quay lại chuyện khác biệt giữa the topic và the vehicle. Cụ thể khác biệt ở đây là hai khái niệm đó không thuộc cùng một loại (category). Ví dụ sư tử và vợ. Sư tử thì rõ ràng là động vật. Vợ thì rõ ràng là người. Strictly speaking thì người cũng là một loại động vật nhưng rõ ràng hai khái niệm này không có liên quan gì đến nhau về nghĩa đen hết (literally unrelated). Em nhấn mạnh như vậy để phân biệt ẩn dụ với hoán dụ (metonymy), một biện pháp tu từ phổ biến rất hay bị nhầm lẫn với ẩn dụ.

Vậy chứ hoán dụ là gì? Hoán dụ cũng dùng cái này để chỉ cái kia, nhưng có khác là cái này và cái kia, hay topic & vehicle có liên quan đến nhau trên thực tế. Lấy vài ví dụ đơn giản dễ hiểu nha. Chẳng hạn em nói: tôi thích đọc Kawabata. Strictly speaking thì em phải nói là: tôi thích đọc những tác phẩm của Kawabata. Nhưng em không nói thế làm chi, vì nói dài dòng tốn nước bọt , mà em chỉ cần nói ngắn gọn như trên là các bác hiểu cả ồi. Trong ví dụ trên, Kawabata và những tác phẩm của Kawabata là hai phạm trù khác nhau, một bên là người, một bên là sách, nhưng hai khái niệm (concept) này có liên quan đến nhau, nên kiểu diễn đạt trên được coi là hoán dụ. Một số ví dụ khác:

- Brazil vừa giành World Cup (Brazil ở đây là đội tuyển bóng đá Brazil, hông phải cả nước Brazil).

- Downing Street không đưa ra bình luận gì / Downing Street made no comments (Downing Street ám chỉ Thủ tướng Anh, hoặc chính phủ Anh, vì Thủ tướng Anh sống ở Downing Street).

Túm lại các bác có thể hiểu là hoán dụ cũng dùng cái này để chỉ cái kia như ẩn dụ, nhưng khác ẩn dụ ở chỗ cái được ám chỉ (topic) và cái dùng để ám chỉ (vehicle) liên quan đến nhau, hoặc cùng category. Vậy nha.

Mục đích sử dụng ẩn

Có nhiều lý do khiến người ta dùng ẩn dụ. Nhiều khi người ta dùng ẩn dụ mà hoàn toàn không ý thức được điều đó. Ví vợ mình như sư tử, thầy giáo như hổ báo, một đứa bạn đáng ghét như con vẹt chẳng hạn. Nhưng nhìn chung ẩn dụ thường được sử dụng cho ba mục đích sau:

(1) Diễn đạt nhưng điều khó diễn đạt bằng lối miêu tả thông thường

Một trong những khái niệm người ta dùng ẩn dụ nhiều nhất để miêu tả là tình yêu. Tình yêu thì ai cũng biết nhưng không ai định nghĩa được chính xác nó là cái chi, vì nó không có hình dáng mùi vị chi hết. Nó là một khái niệm trừu tượng (abstract), nên người ta gán cho nó đủ thứ tính cách đặc điểm phẩm chất hoặc đôi khi nhân cách hoá nó (tiếng Anh gọi là personification, nhân đây em xin nói thêm personification cũng là một loại metaphor nha, vì nó ví những thứ không phải là người với người). Điều này được thể hiện rõ nhất trong lời các bài hát. Chỉ cần lục trí nhớ độ dăm phút là ta có thể liệt kê rất nhiều tên bài hát có từ love mang yếu tố ẩn dụ. Ví dụ: Love is an arrow, Love is delicious (tình yêu được ví như một món ăn ngon lành), Bleeding love, Love bleeds (Tình yêu như vết thương rỉ máu, ghê hông), Love kills, Your love kills me, Love bites, Your love is king, Love is a deserter, Love is the end, Love is noise.

Nói chung còn nhiều ví dụ lắm, cái này nói cả ngày không hết, nên em chuyển sang mục đích sử dụng thứ hai nha:

(2) Làm cho câu văn, lời nói thêm sinh động

Một ví dụ khá hay để minh hoạ cho ý này là slogan của Yellow Pages: Let your fingers do the walking. Câu này có thể giải thích đơn giản là bạn khỏi đi đâu, chỉ cần dùng mấy ngón tay lật “những trang vàng” là xong việc ồi. Yellow Pages thì các bác biết rồi đấy, hệ thống niêm giáo điện thoại được sử dụng trên toàn thế giới. Bây giờ các bác muốn tìm thông tin về trường đại học ngoại thương chẳng hạn, thì các bác chẳng cần đến trường ngoại thương làm chi mệt người. Chỉ cần giở Yellow Pages tìm số điện thoại trường đó rồi gọi đến hỏi là xong. Thế mới nói sử dụng Yellow Pages là let your fingers do the walking. Diễn đạt như vậy rất sinh động phải hông các bác. Yellow Pages còn có một cái logo vô cùng dễ nhớ, mà chắc không ai còn lạ lẫm gì. Đó là hình ảnh hai ngón tay “đi” trên quyển sách. Hình dưới đây nè:

Mục đích sử dụng cuối cùng em muốn đề cập tới là diễn đạt ngắn gọn. Cái này thì rõ quá rồi. Ví dụ một bác này muốn ca ngợi người yêu. Thay vì nói cô ấy xinh đẹp, ngọt ngào, ấm áp, cô ấy làm tôi hạnh phúc, cô ấy cứu rỗi cuộc đời tôi, cô ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của tôi thì bác ấy chỉ cần nói đúng một câu she is my sunshine là được ồi. Nhưng đấy là em ví dụ thôi nha, cá nhân em hông có thích những câu sến rện kiểu nịnh đầm như thế. Như cái anh gì trong bài Love to be loved by you đó, anh í nói I’m blinded by your light. Funny, huh? Người chớ có phải thánh thần hay tiên giáng trần đâu mà anh í biểu anh bị mờ mắt bởi ánh sáng em. Giọng điệu nịnh đầm thấy rõ. Em là em hông có thích nghe nịnh đầm kiểu thế. Thứ nhất nghe nó sến. Thứ hai nó rẻ tiền. Thứ ba kinh nghiệm cho em biết những anh nào hay nịnh đầm kiểu đó thường không chân thật, gặp em nào cũng tuôn ra những bài ca giống nhau, ớn lắm.

Chết em lại đi lạc chủ đề.  Thôi bây giờ em xin dừng entry này ở đây. Chủ đề metaphor thì vô tận, em viết suốt ngày cũng được luôn, vì em đã nghiên cứu vấn đề này. Nhưng em mỏi tay rồi, mà các bác rất ít động viên, khuyến khích em (dỗi), nên em thấy cũng không nên viết dài làm chi cho hao công tổn sức mà hông được cái việc chi.



Bonus: Trong quảng cáo có nhiều metaphoric slogan lắm. Em giới thiệu với các bác một số slogan hay ho nha:
Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 114.95 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương