Bán nguyệt san – Số 314 – Chúa nhật 19. 11. 2017



tải về 0.95 Mb.
trang1/7
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích0.95 Mb.
#34874
  1   2   3   4   5   6   7


Bán nguyệt san – Số 314 – Chúa nhật 19.11.2017


Giáo sĩ: ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI VÀ CHO LOÀI NGƯỜI (x. Dt, 5.1)

www.conggiaovietnam.net giaosivietnam@gmail.com



MỤC LỤC
NHỮNG HỖ TRỢ CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC …………………………………………. Vatican 2

SỨC MẠNH VÀ SỨC SỐNG CỦA ĐỨC TIN ………………………… Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

TRI ÂN VÀ MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỔ TIÊN …………………….. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

TẶNG VẬT CHÚA BAN PHẢI ĐƯỢC TIÊU DÙNG, ĐẦU TƯ VÀ CHIA SẺ…………………… …………………………………………………………………………...Bác Sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD

"XIN CHỈ CHO CON ĐƯỜNG ĐI CỦA CHÚA…" ………………………….. Lm. Vĩnh Sang, DCCT

ĐÂU LÀ NHỮNG TỘI NGHỊCH ĐIỀU RĂN THỨ NĂM PHẢI TRÁNH? .. Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT NGƯỜI “DI DÂN”, XH 3, 7-8 ……….. Sr. Agnès Cảnh Tuyết, OP

TRONG ĐAU KHỔ, THIÊN CHÚA Ở ĐÂU? ………………………… EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.

LƯỢNG SỨC MÌNH ĐỂ QUYẾT ĐỊNH DỨT KHOÁT (tiếp theo)………………………………. ………………………………………………………………….Lm. Micae Phaolô Trần Minh Huy, pss.

VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC …………………………... Gs. Nguyễn Đăng Trúc

HỘI THẢO “KINH NGHIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN & GÓP Ý XÂY DỰNG THƯ VIỆN VĂN HÓA CÔNG GIÁO VIỆT NAM” …………………………………. Uỷ Ban Văn Hoá / HĐGMVN

HIỂU BIẾT CĂN BẢN VỀ DƯỢC THẢO ………………………………. Bác Sĩ NguyỄn ý ĐỨc, MD

NHỮNG HỖ TRỢ CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC


Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II 

Bản dịch của Ủy Ban Gíao Lý Đức Tin, HĐGMVN
LTS: BBT CGVN và Đặc San GSVN hân hạnh giới thiệu trọn bộ 16 Văn Kiện Công Đồng Vatican 2, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, ấn bản mới nhất, có bán tại các Nhà Sách Công Giáo.
Suốt hơn 10 năm qua trên Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam chúng con đã trung thành phổ biến bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt; Nay với trọn tấm lòng biết ơn các dịch giả qua các thời kỳ, chúng con xin tiếp tục công việc tối cần thiết này nhưng với một bản dịch hoàn chỉnh hơn - Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN. Rất mong được mọi người đón nhận, hỗ trợ việc phổ biến tài liệu quí này như KIM CHỈ NAM đích thực, đầy đủ và hoàn hảo cho mọi thành phần Dân Chúa. Chúng ta đang sống trong thời điểm kỷ niệm 50 năm Thánh Công Đồng Chung Vatican 2; Dân Chúa Việt Nam khi dành thời gian đọc lại các Hiến Chế, Sắc Lệnh, Tuyên Ngôn sẽ luôn nhận ra điều mới mẻ và hữu ích cho từng cá nhân cũng như cộng đoàn.
Chúng con xin chân thành cám ơn Quí Đức Cha, Quí Cha Ủy Ban GLĐT đã sẵn lòng cho phép chúng con giới thiệu bản văn quí giá này qua internet. Quí Cha và Quí Vị có thể yêu cầu nhận trọn bộ hay từng Văn Kiện cụ thể trên một file word qua email, hoặc cũng có thể tải về máy tại địa chỉ: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=subject&is=31
Xin chân thành cám ơn
BBT CGVN & Đặc San GSVN




VỀ MỤC LỤC
SẮC LỆNH
VỀ TÁC VỤ VÀ ĐỜI SỐNG CÁC LINH MỤC
PRESBYTERORUM ORDINIS

Ngày 7 tháng 12 năm 1965

CHƯƠNG III


ĐỜI SỐNG LINH MỤC

tiếp theo và hết

III. NHỮNG HỖ TRỢ CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC

18. Để có thể kết hợp mật thiết hơn với Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, ngoài việc thực hành cách ý thức thừa tác vụ của mình, các linh mục còn hưởng nhờ những phương thế chung và riêng, mới và cũ mà Chúa Thánh Thần không bao giờ ngừng khơi dậy trong Dân Chúa, và Giáo Hội luôn khuyến khích, đôi khi còn buộc phải sử dụng để thánh hóa các chi thể mình1. Trong tất cả các phương thế thiêng liêng, quan trọng hơn cả là hoạt động giúp các Kitô hữu được nuôi dưỡng nơi bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa2; ai cũng biết rằng việc siêng năng lui tới bàn thánh quan trọng chừng nào cho việc thánh hóa bản thân các linh mục.
Các thừa tác viên của ân sủng bí tích phải luôn kết hợp mật thiết với Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và là Mục Tử nhờ việc lãnh nhận các bí tích cách hiệu quả, nhất là trong việc năng lãnh nhận bí tích Giải tội, khi được chuẩn bị bằng việc xét mình hàng ngày, sẽ giúp nhiều cho việc thật lòng trở về với tình yêu của Cha nhân hậu. Dưới ánh sáng của đức tin được nuôi dưỡng bằng việc đọc và suy niệm Lời Chúa, các ngài có thể chú tâm tìm kiếm những dấu chỉ của thánh ý Thiên Chúa và sức mạnh của ơn thánh trong những biến cố khác nhau của cuộc sống, và như thế, ngày càng vâng theo ý Chúa dễ dàng hơn đối với sứ mệnh đã nhận lãnh trong Chúa Thánh Thần. Các ngài luôn tìm thấy gương mẫu tuyệt vời về sự vâng phục nơi Đức Trinh Nữ Maria, người được Chúa Thánh Thần dẫn dắt, đã hiến toàn thân cho mầu nhiệm cứu chuộc loài người3; các linh mục phải lấy tình con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Đấng là Mẹ của vị Thượng Tế đời đời, là Nữ Vương các Tông Đồ và là nguồn trợ lực cho tác vụ linh mục.
Để trung thành chu toàn tác vụ của mình, hàng ngày các ngài phải đàm đạo thân tình với Chúa Kitô trong những lúc một mình đến viếng Chúa và thực hành việc tôn sùng Thánh Thể; các ngài hãy chuyên chăm trong việc tĩnh tâm thiêng liêng và mến chuộng việc linh hướng. Bằng nhiều cách, nhất là bằng việc sử dụng tâm nguyện vẫn được thực hành trong Giáo Hội và những hình thức cầu nguyện khác nhau tùy ý lựa chọn, các linh mục tìm kiếm và sốt sắng khẩn cầu Chúa ban cho mình một tinh thần thờ phượng đích thực, nhờ đó các ngài cùng với dân được trao phó sẽ kết hợp mật thiết với Đức Kitô là Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới, và như thế, họ có thể kêu lên như những nghĩa tử “Abba, Cha ơi” (Rm 8,15).
19. Trong nghi lễ truyền chức, Đức Giám mục khuyên bảo các linh mục hãy “trưởng thành trong sự hiểu biết” và lời giáo huấn của các ngài phải là “linh dược thiêng liêng cho Dân Chúa”4. Nhưng kiến thức của các thừa tác viên thánh cũng phải thánh vì phát xuất từ nguồn mạch thánh và quy hướng về cùng đích thánh. Vì vậy, kiến thức đó trước hết được kín múc từ việc đọc và suy gẫm Sách Thánh5, đồng thời cũng tăng thêm hiệu quả nhờ việc nghiên cứu những tài liệu của các Giáo phụ, các thánh tiến sĩ và các tài liệu khác của Thánh Truyền. Ngoài ra, để trả lời thỏa đáng cho những vấn nạn do người thời nay nêu lên, các linh mục phải hiểu biết thấu đáo những tài liệu của Huấn Quyền, nhất là của các Công Đồng và các Đức Giáo Hoàng, cũng như phải tham khảo những tác giả thần học thời danh đã được Giáo Hội thừa nhận.
Vì trong thời đại chúng ta, văn hóa nhân loại và ngay cả các khoa học thánh đã có những bước tiến mới, nên các linh mục hãy không ngừng trang bị thật đầy đủ kiến thức của mình về Thiên Chúa và về nhân loại, đó là cách tự chuẩn bị để đối thoại với những người đương thời cách thích hợp hơn.
Để các linh mục có thể nghiên cứu dễ dàng hơn, cũng như để học hỏi những phương pháp rao giảng Tin Mừng và làm việc Tông đồ cách hiệu quả hơn, phải hết sức lo cho các ngài có những phương tiện thích hợp như tổ chức những khóa học tập hay hội thảo tùy hoàn cảnh của từng địa hạt, thiết lập những trung tâm học hỏi mục vụ, thành lập các thư viện và đặt những người có khả năng thích hợp để tổ chức việc học tập. Ngoài ra mỗi Giám mục riêng biệt hay nhiều Giám mục hợp lại, phải cân nhắc để tìm ra phương cách thích hợp nhất, giúp tất cả các linh mục có thể tham dự khóa học vào thời gian ấn định, nhất là một vài năm sau khi chịu chức6; nhờ vậy, các ngài có dịp vừa thâu nhận thêm những kiến thức đầy đủ hơn về phương pháp mục vụ và thần học, vừa củng cố đời sống thiêng liêng và cùng trao đổi với anh em những kinh nghiệm Tông đồ7. Cũng nên dùng những phương tiện vừa kể trên và những phương tiện thích hợp khác nữa để đặc biệt giúp đỡ những cha sở mới và những vị đã được chỉ định cho một công tác mục vụ mới, hoặc những người được sai đến một giáo phận hay một quốc gia khác.
Sau hết, các Giám mục nên lo liệu cho một số linh mục chuyên về các khoa học thánh để không bao giờ thiếu các giáo sư đầy đủ khả năng đào tạo hàng linh mục, để giúp các linh mục khác và các tín hữu lãnh nhận được nền giáo thuyết cần thiết, và để phát huy sự tiến triển vững mạnh trong các môn học thánh, vốn rất cần thiết cho Giáo Hội.
20. Bởi đã hiến thân phụng sự Thiên Chúa khi chu toàn nhiệm vụ được trao phó, các linh mục xứng đáng hưởng một khoản thù lao cân xứng vì “thợ đáng ăn lương của mình” (Lc 10,7)8 và “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng được sống nhờ Tin Mừng” (1 Cr 9,14). Bởi thế, nơi nào phần thù lao cân xứng cho các linh mục không được cung cấp do một ai khác, thì chính các tín hữu, những người đang hưởng nhờ ơn phúc do công lao của các linh mục phải nhận lấy trách nhiệm lo cho các ngài được những gì cần thiết, để có một mức sống thích hợp và xứng đáng. Phần các Giám mục hãy nhắc nhở các tín hữu về trách nhiệm này và phải quan tâm đưa ra những quy định, hoặc từng vị lo cho giáo phận của mình, hoặc tốt hơn nữa là nhiều vị chung nhau lo cho một vùng, giúp bảo đảm đúng mức một số trợ cấp xứng đáng cho những vị đang thi hành hay đã thi hành những công tác phục vụ Dân Chúa. Phần thù lao mỗi người được hưởng, hoặc tùy theo bản chất của công tác hoặc tùy hoàn cảnh địa phương và theo từng thời điểm, trên căn bản phải đồng đều cho tất cả những ai có cùng một hoàn cảnh, phải tương xứng với điều kiện sinh sống của các ngài, và ngoài ra, phải giúp các ngài không những có thể chu cấp khoản thù lao cân xứng cho những kẻ hy sinh giúp việc các ngài, nhưng còn có thể nghĩ đến việc giúp đỡ những kẻ thiếu thốn, vì việc phục vụ người nghèo luôn được đề cao ngay từ thời sơ khai của Giáo Hội. Hơn nữa, phải dự trù sao cho phần thù lao này có thể giúp các linh mục hàng năm có được một thời gian nghỉ ngơi thích đáng và đầy đủ, kỳ nghỉ mà chính các Giám mục phải lo liệu sắp xếp cho các linh mục.
Tuy nhiên, phải dành vai trò quan trọng nhất cho chức vụ mà các thừa tác viên đang đảm trách. Vì thế, qui chế vẫn được gọi là “bổng lộc” phải được bãi bỏ, hoặc ít ra phải được cải tổ thế nào để phần bổng lộc, nghĩa là quyền thụ hưởng những lợi tức gắn liền với chức vụ, chỉ là việc phụ thuộc, việc chủ yếu chính là chức vụ thuộc giáo quyền căn cứ theo luật, từ nay phải hiểu là bất cứ nhiệm vụ nào được trao phó cách lâu bền, để thi hành nhằm mục đích thiêng liêng.

21. Phải luôn nhớ đến gương mẫu của các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem đã đặt “mọi sự làm của chung” (Cv 4,32) và “phân phát cho mỗi người tùy nhu cầu” (Cv 4,35). Vì thế, ít ra trong những miền mà sự cấp dưỡng cho giáo sĩ tùy thuộc hoàn toàn hoặc phần lớn vào việc dâng cúng của các tín hữu, rất nên có một tổ chức cấp giáo phận để tiếp nhận những đóng góp cho mục đích ấy; tổ chức này do Giám mục điều khiển với sự trợ giúp của những linh mục được ủy nhiệm, cũng như của cả những giáo dân thông thạo trong lãnh vực kinh tế nếu thấy là hữu ích. Ngoài ra, cũng ước mong rằng nếu có thể nên thành lập một công quỹ trong mỗi giáo phận hay mỗi miền để các Giám mục có thể chu cấp đầy đủ cho những người phục vụ Giáo Hội, và đáp ứng những nhu cầu trong giáo phận, đồng thời nhờ đó các giáo phận sung túc hơn có thể giúp đỡ các giáo phận nghèo kém hơn, để sự dư dật của giáo phận này bù đắp cho sự thiếu thốn của giáo phận khác9. Công quỹ này được thành lập trước hết do những đóng góp của các tín hữu, nhưng cũng có thể do những nguồn thu khác được qui định đúng luật.
Ngoài ra, trong các quốc gia mà sự bảo hiểm xã hội cho hàng giáo sĩ chưa được tổ chức cách thích hợp, các Hội Đồng Giám Mục, dựa trên giáo luật và dân luật, hãy thiết lập những tổ chức hay liên đoàn cấp giáo phận, hoặc những tổ chức liên giáo phận, hoặc một hội được thành lập cho toàn vùng, để dưới sự coi sóc của Hàng Giáo Phẩm, những tổ chức đó dự liệu đầy đủ các phương thức y tế dự phòng và tương trợ, cũng như việc trợ cấp cần thiết cho các linh mục bệnh tật, tàn phế hoặc già yếu. Các linh mục hãy hỗ trợ các tổ chức đó trong tinh thần liên đới với những người anh em của mình, chia sẻ những gian nan thử thách10, đồng thời, nhờ không phải bận tâm đến tương lai, các ngài sống đức khó nghèo theo cảm thức Phúc Âm cách hăng say hơn và hoàn toàn tận hiến cho phần rỗi các linh hồn. Những vị hữu trách phải cố gắng liên kết các tổ chức như thế thuộc các quốc gia khác nhau để chúng thêm vững chắc và được phổ biến rộng rãi hơn.

KẾT LUẬN VÀ HUẤN DỤ

22. Dù luôn nghĩ đến những niềm vui của đời sống linh mục, Thánh Công Đồng vẫn không quên những khó khăn mà các linh mục đang gánh chịu trong những hoàn cảnh của đời sống hiện tại. Thánh Công Đồng cũng biết rằng tình trạng kinh tế, xã hội và ngay cả phong cách sống của con người đang thay đổi rất nhiều, và bậc thang giá trị cũng đang bị đảo lộn không ít trong nhận thức của nhân loại; do đó, các thừa tác viên của Giáo Hội, và đôi khi ngay cả các Kitô hữu, cảm thấy mình như xa lạ trong thế giới này và trăn trở tìm kiếm không biết phải dùng phương thức hay lời nói nào thích hợp để có thể giao tiếp với đời. Thật vậy, những chướng ngại mới cho đức tin, những việc làm bề ngoài xem ra vô ích, cũng như sự cô đơn cay đắng đã từng trải nghiệm, có thể dẫn đến nguy cơ làm cho các ngài suy sụp tinh thần.
Nhưng thế giới đang được trao phó cho tình yêu và thừa tác vụ của các vị Chủ chăn trong Giáo Hội chính là thế giới mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đã trao ban Con Một của Ngài11. Thật ra, tuy bị tội lỗi đè nặng nhưng vẫn không thiếu năng lực đồi dào, thế giới ngày nay đang tặng hiến cho Giáo Hội những viên đá sống động12 để cùng nhau xây nên đền thờ Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần13. Khi Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội mở những con đường mới dẫn đến thế giới ngày nay, thì chính Ngài cũng khởi xướng và phát huy những cải tổ thích hợp cho tác vụ linh mục.
Các linh mục phải nhớ rằng không bao giờ các ngài lẻ loi trong khi thi hành bổn phận, nhưng luôn kiên vững nhờ sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng; với niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã mời gọi các ngài thông phần vào chức Tư tế của mình, các ngài hãy luôn tín thác tận hiến vì tác vụ, bởi biết rằng Thiên Chúa toàn năng sẽ làm cho tình yêu luôn tăng triển nơi các ngài14. Các ngài cũng hãy nhớ rằng những người anh em trong chức linh mục và cả những tín hữu trên toàn thế giới vẫn luôn liên kết với các ngài. Thật vậy, tất cả các linh mục đều cộng tác để chu toàn ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, chính là mầu nhiệm Chúa Kitô, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn đời nơi Thiên Chúa15, ý định đó chỉ được thực hiện dần dần nhờ nhiều tác vụ khác nhau cùng liên kết trong việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô, cho đến khi đạt đến tầm vóc viên mãn. Và tất cả những gì đang tiềm tàng với Đức Kitô trong Thiên Chúa16 chỉ có thể được nhận biết rõ ràng nhờ đức tin. Như thế, các vị lãnh đạo Dân Chúa phải bước đi trong đức tin, theo gương của Abraham, người đầy lòng tin, người đã lấy đức tin “vâng lời đi đến nơi mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: và ông đã ra đi mà chẳng biết mình đi đâu” (Dt 11,8). Quả thật, người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa có thể sánh với người gieo giống trong ruộng như lời Chúa nói: “và người ấy ngủ hay thức, đêm cũng như ngày, hạt giống nảy mầm và lớn lên, trong khi người ấy chẳng hay biết gì” (Mc 4,27). Hơn nữa, nếu Đức Kitô bảo rằng “các con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33), thì chắc chắn qua lời nói này, Người không hứa cho Giáo Hội một cuộc toàn thắng ở trần gian. Thánh Công Đồng vui mừng vì mặt đất đã đón nhận hạt giống Tin Mừng, nay đang sinh hoa kết quả ở nhiều nơi dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng lấp đầy cả địa cầu và khơi dậy trong tâm hồn nhiều linh mục và tín hữu tinh thần truyền giáo đích thực. Vì tất cả những điều đó, Thánh Công Đồng thân ái cám ơn các linh mục trên khắp thế giới: “Chúc tụng Đấng Quyền Năng đã dùng sức mạnh đang hoạt động nơi chúng ta mà làm mọi điều vượt quá những gì chúng ta cầu xin hay nghĩ tới: xin tôn vinh Ngài trong Giáo Hội và nơi Đức Kitô Giêsu” (Ep 3,20-21).

Tất cả và từng điều được ban bố trong Sắc Lệnh này đều đã được các Nghị phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, với thẩm quyền tông truyền nhận được từ Chúa Kitô, hợp nhất với các Nghị phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, quyết nghị và xác lập, và những gì đã được xác lập theo thể thức Công Đồng, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 7 tháng 12 năm 1965


Tôi, PHAOLÔ, Giám mục Giáo Hội Công giáo
(Tiếp theo là chữ ký của các Nghị phụ)
VỀ MỤC LỤC

SỨC MẠNH VÀ SỨC SỐNG CỦA ĐỨC TIN

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Hơn 2.000 năm trước, Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).

Từ sau ngày Chúa Giêsu phác lệnh truyền giáo đến nay, sứ vụ truyền giáo vẫn không ngừng được tiếp nối trong lòng Hội Thánh. Và cũng do phát xuất từ lời sai đi ấy, đức tin của Hội Thánh nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Nó khẳng định mạnh mẽ chỗ đứng của mình bằng một sức mạnh kiên cường, một sức sống vinh thắng.

Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa ta đến đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người.

Nhờ sức sống của đức tin, các Thánh Tử Đạo khi bị bắt, vẫn luôn thể hiện sức mạnh quả cảm của chính đức tin ấy: nhất quyết không nao núng trước cực hình, không chối đạo, không bước qua Thánh giá, không làm tổn thương danh dự của Hội Thánh Chúa, không ngừng giương cao lòng tin – cậy – mến của minh.

Nhờ sức mạnh đi cùng sức sống vô cùng của đức tin, các thánh dù bị hành hạ, bị kết án tử hình bằng nhiều hình thức hung bạo, dã man, nhưng không để mình bị khuất phục. Các thánh không nhường bước, không thỏa hiệp để được sống thảnh thơi.

Các thánh không để mình bị tiền bạc làm cho mù tối, không để khổ đau làm cho chùn bước, không để nhục hình làm cho ngã qụỵ. Ngay đến cái chết, cũng không tài nào có thể uốn cong được lòng trung tín của các thánh...

Chính nhờ dòng máu quả cảm căng đầy sức mạnh và sức sống của đức tin ấy, mà các thánh trở thành như những hạt giống gieo vào lòng đất, trổ sinh một Hội Thánh Việt Nam phong phú như những gì đang diễn ra hiện tại, chắc chắn còn mãi về sau.

Hôm nay, lễ các thánh Tử đạo Việt Nam, là con cháu các thánh, chúng ta ngắm nhìn chân dung của một sức mạnh quật cường, một sức sống bất khuất mà các thánh đã soi chiếu trên suốt dòng lịch sử đầy kiêu hùng này.

Ngước nhìn chân dung các thánh là điều cần thiết để chúng ta sống lại những ngày gian khó của cha ông mà biết ơn tất cả những ai đã đặt nền móng đức tin trên quê hương Việt Nam thân yêu này…

Hội Thánh tại Việt Nam, kể từ buổi bình minh rao truyền Tin Mừng đến nay, dù chẳng bao giờ mất ơn bình an nội tâm, vẫn chưa bao giờ có một ngày bình yên ngoài thể xác, chưa một ngày tự do hoàn toàn trong việc trung thành thờ phượng Thiên Chúa, chưa bao giờ có tự do tôn giáo.

Tuy nhiên, Hội Thánh của Chúa Kitô tại mảnh đất hình chữ S này, dù phải trải qua muôn ngàn lao khổ và phải đối đầu cùng vô số sức chống đối, vẫn mạnh mẽ tuyên xưng đức tin, vẫn trung thành với lòng kính thờ Chúa không có sức mạnh nào có thể lay chuyển.

Chỉ là một Hội Thánh còn non trẻ, được khai sinh chưa đầy 500 năm, nhưng Hội Thánh tại Việt Nam đã tự hào vượt lên trên mọi đầu sóng ngọn gió, dù nguy hiểm nhất, dữ dằn nhất, để có được cả một bề dày kinh nghiệm giữ lấy đức tin cho đức tin ngày một tinh ròng đến muôn đời sau. Tất cả là nhờ ơn Chúa, tất cả là do sự linh hoạt mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần.

Có nhiều lý do dẫn đến sự bách hại Hội Thánh trong quá khứ và hiện tại: ghen tương, đố kỵ, hiểu lầm, nhiều lý do chính trị khác… Không ai biết chính xác người Công giáo Việt Nam chịu tử đạo từ trước đến nay có số lượng bao nhiêu, vì không thể thống kê hết, chỉ biết rằng đó là một con số khổng lồ.

Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá.

Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời trên cõi thế, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ.

Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng mạng sống của mình.

Quay nhìn chân dung các thánh Tử đạo Việt Nam, Đức Thánh Cha Piô XI, trong lễ tấn phong Giám mục cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, đã cất tiếng gọ: “Giáo Hội Việt Nam là trưởng nam của Giáo Hội Công giáo tại Á Đông” (Bài giảng lễ tấn phong Giám Mục).

Sử gia A. Launay cũng hết lời khen ngợi đức tin của người Công giáo Việt Nam: “Hỡi Giáo Hội Việt Nam, một trong những Giáo Hội đã bị bắt bớ hà khắc nhất trong các Giáo Hội trên thế giới, kể từ khi công cuộc của Chúa Cứu Thế bị bắt bớ. Một trong những Giáo Hội kiên cố lạ lùng nhất… Ta kính chào Người! và bởi hy sinh càng lớn lao, thì vinh quang càng sáng chói. Người thật xứng đáng được danh thơm muôn thuở, ngang hàng với những Giáo Hội anh hùng nhất phương Tây" (Đã trích trong Lm Bùi Đức Sinh - Lịch Sử Giáo Hội).

Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Các thánh Tử đạo đã hủy mình đi và hiến dâng trọn vẹn cho thiên Chúa. Hôm nay mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam, Chúng ta tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, chúng ta sẽ được tiếp thêm sức mạnh và được đổ tràn đầy sức sống của đức tin, như chính đức tin chiến thắng của các thánh. .

Một khi được tiếp thêm sức mạnh và sức sống của một đức tin mãnh liệt, chúng ta quyết sống đạo ngoan cường, vượt thắng giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay, như thánh Phaolô dạy: “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7),

Mừng lễ các thánh, chúng ta phải khám phá ra nhiều bài học có lợi cho đức tin mà các ngài để lại:

- Sẵn sàng tha thứ cho những người bắt bớ, giết chết mình;

- Cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các nhà lãnh đạo quốc gia khôn ngoan để nhận ra đâu là đường lối lãnh đạo theo chân lý, đâu là đường lối lãnh đạo sai lầm để đừng giết chính đồng bào vô tội của mình như đã từng làm mà lịch sử không bao giờ quên;

- Biết ơn Hội Thánh đã cưu mang và sinh ra chúng ta trong ơn Chúa;

- Biết đáp trả tình yêu vô cùng của Chúa bằng tất cả đời sống chứng tá của mình dẫu phải hiến dâng mạng sống.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

 

VỀ MỤC LỤC


TRI ÂN VÀ MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỔ TIÊN

 

Suy niệm lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam



 

Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang : « Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng ».

Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.

Trước hết chúng ta cần xác nhận:

 

Hỏi : Các ngài là ai vậy?



Thưa : Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt : Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.

 

Hỏi : Các ngài là bao nhiêu?



Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã « tử vì Đạo » tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.

 

Hỏi : Các ngài thuộc những thành phần nào?



Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) ... thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống : công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý... đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nammà chúng ta đang kính nhớ.

 

Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.



 

Nói mạnh hơn : các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết : chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.

 

Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý.Ðọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.



 

Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.

 

Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Ðức Giêsu Kitô.



 

Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.

 

Hỏi : Tại sao các ngài chết vì đạo ?



Thưa : Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi : chết vì Đạo mà ! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc...thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là « Thần Đức » : Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết : chỉ « người có Đạo » mới có .

 

Hỏi : Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào ?



Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:

- Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.

- Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.

- Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu,bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.

- Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.

 

Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì - tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.



 

Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài : Sống cao đẹp, chết anh dũng.

 

Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.



 

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

VỀ MỤC LỤC



tải về 0.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương