Bán nguyệt san – Số 314 – Chúa nhật 19. 11. 2017LƯỢNG SỨC MÌNH ĐỂ QUYẾT ĐỊNH DỨT KHOÁT (tiếp theo)
Các ô từ 1-12 biểu thị các mức độ thích và hợp, đồng thời xác định sự lựa chọn: Nếu vô tình hay buộc lòng chọn các ô 1 2 3 4 5 6 và 9 thì đó là quyết định sai lầm có ảnh hưởng xấu đến tương lai cuộc đời. Nếu phải chấp nhận số 7 và 10 thì chọn lựa đó có thể được với nỗ lực bản thân rất lớn. Chọn số 8 và 11 là chọn lựa tương đối ổn định, có khả năng hoàn thiện với cố gắng liên lỉ. Đa số ở vào trường hợp này. Chọn số 12 là chọn lựa lý tưởng. Tóm lại: Nếu chỉ thích mà không hợp là không tốt, đừng chọn. Nếu chỉ hợp mà không thích thì không hay, đừng chọn. Chỉ chọn cái ta thích và hợp với ta. Đó là một quyết định không lầm lẫn. Vấn đề quan trọng là xác định thế nào là thích và hợp? Thích thuộc lãnh vực tình cảm. Có những sở thích nhất thời, không ổn định, theo phong trào: đừng nghĩ đó là hứng thú có thật hay một khát vọng đã được tôi luyện qua nhiều năm tháng, có khả năng kích thích và thôi thúc thực hiện bền bĩ. Hợp thuộc lãnh vực phẩm chất và năng lực. Cần phải biết chính mình, xem phẩm chất và năng lực của mình có phù hợp với con đường mình muốn dấn thân vào không? Tự mình có thể ngộ nhận, nên cần có sự giúp đỡ chuyên môn của linh hướng, tư vấn tâm lý, trắc nghiệm hướng nghiệp. Vì thế, các nhà đào tạo phải phán đoán lòng ước muốn và tính thích hợp này có thực chất và bền vững không, ngõ hầu đón nhận hay từ chối một ứng sinh. Những em lễ sinh kiên bền giúp lễ thường tìm thấy ơn gọi. Vị linh hướng ở toà trong phải xét xem lòng ước muốn ấy có phù hợp với ước muốn của Chúa không; đồng thời phải phối kiểm với nhận định của tòa ngoài về phẩm chất và khả năng thích hợp. Toà ngoài cũng phải tìm biết những dấu chỉ của hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của ứng sinh. Sự hợp tác này đưa tới kết luận là ứng sinh có thể đi tới hay phải đổi hướng. Ứng sinh nào bị phát hiện là không thích hợp, vì khiếm khuyết thể lý, thiếu quân bình tâm lý hay luân lý, thì nên nhanh chóng đưa anh ra khỏi con đường theo đuổi ơn gọi. Cả hai phía, các nhà đào tạo và ứng sinh, không được phép nuôi dưỡng những hy vọng hảo huyền và những ảo tưởng nguy hiểm. Cũng không ai được tự phụ rằng ơn thánh sẽ thay thế cho những khiếm khuyết tự nhiên. Tuy nhiên, người ta sẽ cho ứng sinh không thích hợp ra đi một cách tôn trọng, bằng cách nhấn mạnh về sự không thích hợp với đời sống và sứ vụ linh mục hơn là những khiếm khuyết hay lỗi lầm, làm tổn thương nhân phẩm và danh dự của họ. Các cựu ứng sinh nầy cũng là kho tàng của Giáo Hội, họ sẽ hỗ trợ, cộng tác vào công cuộc đào tạo các ứng sinh cách này hay cách khác, cũng như sứ mệnh của Giáo Hội với tư cách tông đồ giáo dân có trình độ và khả năng. Không phải tất cả những ai vào Chủng viện đều nhất thiết trở thành linh mục: Chúa gọi thì nhiều, nhưng chọn thì ít. Người nào không thích hợp với đời sống linh mục sẽ được gợi ý cho một cuộc sống mới, trong niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ dùng anh cách tốt đẹp cho lợi ích của Giáo Hội, đền đáp những gì anh đã lãnh nhận từ Chúa và Giáo Hội của Ngài, qua những năm tháng được đào tạo trong Chủng viện. Hãy tạo cơ hội cho họ góp phần cách tích cực và hữu hiệu vào đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội, về nhân lực cũng như vật lực. 7. Kết luận Mỗi người sống cuộc đời mình như thể viết một bài luận văn. Phần mở đầu giới thiệu chủ đề. Phần thân bài khai triển các ý tưởng căn bản để trình bày và củng cố chủ đề. Phần kết luận mở chủ đề ra một viễn tượng mới. Cách chung ai cũng có khả năng để viết đầy đủ và hoàn tất các phần của bài luận văn ấy. Nhưng thực tế có người chưa viết được chủ đề đời mình đã chết. Có người loay hoay mãi vẫn không viết ra được chủ đề, thậm chí đến già đời vẫn không tìm thấy chủ đề hay mục đích của đời mình. Có người viết được chủ đề rất sớm, nhưng không khai triển được, bài luận văn đành dang dở. Có người viết một lúc hai, ba chủ đề nên chẳng có thể đi tới kết luận được, bị lạc đề. Có người viết được chủ đề, nhưng không kiên định, nên xoá bỏ chủ đề ấy tìm một chủ đề khác, song thời gian không còn đủ, viết chưa xong đã phải nộp bài, không có phần kết. Chúng ta sống ơn gọi của mình cũng giống như viết một bài luận văn. Lý tưởng và đời sống linh mục có thực sự là chủ đề cuộc đời chúng ta chưa? Chúng ta đang viết nghiêm túc hay đang viết lung tung, sống qua ngày đoạn tháng, tới đâu hay đó? Có người theo ơn gọi rất sớm, nhưng ơn gọi đó không lớn lên theo năm tháng, mà lại nhạt nhoà dần dần vì những sức hấp dẫn và tiếng gọi mời khác. Chúng ta có thực sự dốc toàn tâm toàn lực theo ơn gọi, hoàn toàn phó thác cho Chúa? Hay đang do dự suy tính tìm cách chuẩn bị phương án II cho đời mình, để nếu không được chịu chức linh mục thì ra đời được chủ động, sợ giữa đường đứt gánh hai bàn tay trắng, nên vừa theo học Chủng viện vừa trăn trở tìm học thêm một cái gì đó hoặc tìm nguồn bảo đảm kinh tế cho tương lai? Hay tìm nối kết và nuôi dưỡng một mối quan hệ nào đó ? Đó là bài luận văn lạc đề đấy. Làm thế là chân trong chân ngoài, bắt cá hai tay, đi hai chân, không thể nào đi vững tới đích được! Làm như thế, cuộc đời sẽ thêm xáo trộn, bất an… Chúa không muốn, và cuối cùng sẽ mất cả chì lẫn chài! Hãy lượng lấy ức mình và xin Chúa giúp chúng ta viết bài luận văn cuộc đời ơn gọi chúng ta cho đến kiện toàn. ĐTC Phanxicô nói: “Tôi tự hỏi bản thân mình, và tôi muốn hỏi tất cả anh em: Chúng ta có để cho Thiên Chúa viết nên cuộc sống của chúng ta không? Hay chúng ta muốn tự viết lấy? Điều này liên hệ đến tâm tình hiếu thảo với Thiên Chúa. Chúng ta có ngoan ngoãn lắng nghe Lời Ngài? Có sẵn sàng để lắng nghe và cảm nhận ra tiếng nói của Ngài không? Anh em có sẵn sàng tìm kiếm Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày không, hay chỉ có những ý tưởng của riêng anh em mới có quyền quy định tất cả mọi thứ, không để cho Chúa nói gì với anh em?”47. Mọi thành phần Dân Chúa, nhất là các vị hữu trách đang xem xét tính thích hợp đó của chúng ta, chúng ta liệu biến đổi và điều chỉnh sao cho phù hợp, kẻo thời gian có hạn, sợ viết chưa xong bài luận văn mà đã phải nộp, không có phần kết, không đạt tới lý tưởng linh mục được chăng?! Thời gian tĩnh tâm năm thuận lợi cho chúng ta bắt đầu lại đời sống ơn gọi của mình với một chủ đề, một động lực thật tốt, thật dứt khoát, để mạnh mẽ triển khai, thời gian và tiến trình đào tạo không cho phép chúng ta dễ dàng xoá chủ đề và viết lại chủ đề khác đâu. Chúng ta hãy kiên nhẫn và cẩn thận hoàn tất từng giai đoạn, đừng vội vàng đốt giai đoạn, mà cũng đừng dẫm chân tại chỗ hay nản chí bỏ cuộc tháo lui. Hãy nỗ lực vận dụng tất cả để phục vụ lý tưởng của chúng ta bằng mọi giá, trong tin tưởng cầu nguyện. Cầu chúc mỗi người chúng ta viết thật tốt bài luận văn cuộc đời ơn gọi của mình và đạt tới kết luận mong ước. Tôi xin mượn lời ĐTC Phanxicô để kết thúc bài suy niệm này: “Tất cả chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong thinh lặng: ‘Lạy Chúa, xin nhớ đến con! xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi’. Lời hứa của Chúa Giêsu với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao. Lời ấy nói với chúng ta rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa rất quảng đại, Người luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin. Chúa Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường”48. VỀ MỤC LỤC
HẠT NẮNG Nguyễn Đăng Trúc Reichstett, Pháp Văn hóa và đạo làm ngưởi
Vào khoảng giữa tiền bán thế kỷ 20, trước cao trào Việt-hóa văn học với những lối định hướng khác nhau, hoặc bảo tồn nếp cũ của truyền thống Á Đông, hoặc đoạn tuyệt với nếp cũ để triệt để theo chân trời mới của Tây phương, kẻ sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đã lên tiếng trong Phàm-Lệ của cuốn Khổng Học Đăng như sau:
Hễ ai đọc bản sách nầy, trước phải lập định một cái chí khí tự nhiên rằng: "Ta là Khổng Tử, ta là Mạnh Tử, ta là Bá Lạp Đồ (Platon), ta là Khang Đức (Emmanuel Kant), chẳng qua đời tuy có xưa nay, đất tuy có đông tây, mà tâm lý in như nhau, thánh hiền tức là ta, ta tức là thánh hiền; ta chỉ là người hậu tiến của cổ nhân mà thôi. Có chí khí ấy thời đọc quyển sách nầy mới thích. Nếu ai chưa đọc sách nầy mà trước đã có một ý kiến sẵn: định làm nô lệ cho người đời xưa, hay định làm nô lệ cho người đời nay thời xin chớ đọc.
Mặc dù còn vào giai đoạn ngập ngừng khi ứng dụng chữ triết học và triết lý, nhưng dường như mặc nhiên cụ Phan đã xếp cuốn Khổng Học Đăng vào loại sách thuộc bộ môn nầy. Trong phần Phàm Lệ cuốn sách, tác giả nói phớt qua rằng:
Nhưng một cách minh nhiên, khi mở đầu phần Phàm Lệ, tác giả khẳng định:
Cuốn sách Khổng Học Đăng được viết vào những ngày Phan Bội Châu bị cấm cố ở Huế, khoảng 10 năm trước khi tiên sinh qua đời, hẳn không nhằm mục đích tranh dành hơn thua với ai, cũng không nhằm để cống hiến một kiến thức nào mới mẽ, ngoài ưu tư duy nhất như tác giả nói: phù trì nhân đạo". "Nhân đạo", đối tượng của Học, dù mang tên cũ là giáo hay đạo, tên mới là triết học, chủ thuyết...thì căn cơ không nằm trong bì phu mang tính lịch sử, nhưng là đào bới cái nguồn chung vượt thời gian để lắng nghe được lời tra vấn mình "Con người là ai?". Vì thế, dường như nghịch lý khi tác giả vừa cống hiến cho hậu thế một sự hiểu biết về Khổng học, lại vừa nhắn nhủ: "ta là Khổng Tử". Vậy cái gì đã định được cái nền của "Học"? Hẳn không phải cái xưa nơi Khổng, nơi Platon hay Kant, cũng không phải cái mới của kiến thức tân kỳ của ta hôm nay, nhưng là cái có thể giúp con người vượt lên cổ kim của lịch sử để có được điều mà Phan tiên sinh gọi là "Chí khí tự nhiên", dám bước đi trên con đường chung của con người (nhân đạo). Cái học đó không có chủ định truy tìm "cái gì" dù cao siêu đến mấy theo định kiến của ta, nhưng chỉ nêu lên một thắc mắc duy nhất "là người, làm người". Và nó sẽ không cống hiến cho ta một lợi ích nào trong khuôn khổ ứng dụng vào việc tăng tiến các kiến thức sự vật, sử dụng sự vật. Vì cái học mà thánh hiền như Khổng, Lão cũng bất cập, mà bậc người dân giả cũng có thể với đến , nên Phan Bội Châu có thể nói "ta là Khổng Tử". Do đó, cũng có thể nói cuốn Khổng Học Đăng là một trang sách trong một cuốn sách có tính cách tượng trưng của thi sĩ Mallarmé:
Cái học mà Phan tiên sinh gọi là "nhân đạo", không làm nô lệ cho người đời xưa, cũng không làm nô lệ cho người đời nay, vì phương cách diễn đạt xưa - nay tuy có khác, nhưng người là người và đạo làm người là một "Thể", không phải của riêng ta mà cũng không đặc quyền gì của Tây phương, không ưu đãi người xưa, cũng không là sở hữu của một xã hội nào trong tương lai. Vượt qua tiền kiến nhốt Cái Học nầy vào khuôn lịch sử của một nếp suy nghĩ gọi là luận lý - siêu hình học Tây phương, nhà tư tưởng Karl Jaspers đã dám gọi Socrate - Đức Phật - Đức Giê-su là những đại triết gia; và mô tả sự thể hiện nội dung "Triết" như một Nền cao cả của "nhân đạo" như sau:
Từ cái học mới nầy, nhiều học giả, nhà nghiên cứu, triết gia đặt vấn đề xem người Việt chúng ta có một nền "quốc học" không? Có người thì cho là không, như các học giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đã nhận xét. Gần đây có nhiều vị chủ trương là có ; và không những là có mà còn hơn cái học của người ta nữa! Nhưng cái Học mà Phan tiên sinh cho phép ta nói: ta là Khổng-Tử, ta là Platon, cái Học cho phép ta vượt ra khỏi vòng nô lệ của người xưa, cũng như người đời nay; cái Học làm người (Nhân đạo), chứ không phải là hiểu và sử dụng vật chất; cái Học dường như không có điểm khởi đầu nơi lịch sử hay chấm dứt trong một thời đại nào của lịch sử : cái học "làm người" đó như chỉ là âm vọng réo gọi bên lề của lịch sử dân tộc ta trong suốt thế kỷ qua. Và không phải đó là vận mệnh bi đát của dân tộc ta trong suốt thế kỷ nay, dù rằng thời đại ta đang sống là điều đáng làm ta suy nghĩ hơn cả. Vận mệnh quên lãng "làm người" để chuyển tráo thành một dự phóng nào đó của con người - làm quan trong một thể chế quân chủ hay làm dân trong một thể chế dân chủ; vâng phục trật tự xã hội có trên dưới đi kèm với việc bảo vệ các tập tục, lễ nghi..., hay tự do triển nở các tài năng và sở thích, truy tìm các kiến thức khoa học càng ngày càng sâu rộng, sản xuất và sử dụng đầy đủ của cải vật chất... - , vận mệnh quên lãng chính con người và ý nghĩa làm người của mình như thế thực ra là một nguy cơ "nô thuộc" trường kỳ của bất cứ một nền văn hóa nào, một thời đại nào, vì nó là một phần của nghiệp làm người. Nhưng trong thực tế của cuộc phiêu lưu của con người trong thời gian lịch sử, như sự biểu lộ khả năng nguyên thủy là "quên" gắn bó với thân phận của mình, thì con người, vì nó vẫn là con người, bất chấp những nỗ lực cố quên, vẫn không thể dập tắt được âm vọng từ "Đại-ký-ức" buộc mình phải nhớ. Cái Học mà Phan tiên sinh thoáng gợi lên, nay sẽ tìm được dấu chỉ trong cuộc tương tranh giữa "nhớ" và "quên" nơi "cõi người ta". Từ "cõi người ta" hàm ngụ một cuộc tương tranh của thân phận làm người đó, chúng ta lần mò tìm kiếm những vết tích trong văn học của dân tộc, trong sinh hoạt và dự phóng của chính chúng ta hôm nay để tiếp nhận lại cái hồn của nền văn minh - văn hóa của chúng ta. Lịch sử đang tiếp diễn, ai có thể tiên đoán được rằng sẽ không có những bước nhảy vọt bất ngờ trong tương lai; những ngôn ngữ diễn tả cô động sinh hoạt suy tư về chính thân phận làm người có thể mặc nhiều cái áo khác nhau trong lịch sử, như Đạo, Giáo, tư tưởng, triết học...(và rồi đây có thể có một chiếc áo mới khác) với những phương thức diễn tả khác nữa, nhưng điều quan trọng là đừng mất cái hồn, sự sống trường tồn bên trong. Vì "Chỉ có cái gì tồn tại mới khai tâm chúng ta".
Văn hóa Việt Nam và vấn đề triết học
Việt Nam có triết học hay không? Câu hỏi nầy đặt ra cho chúng ta, tưởng chừng như triết học là một yếu tố quan trọng cho sinh mệnh của dân tộc. Nhưng lịch sử của nhân loại vào cuối thế kỷ 20 đồng thời cho chúng ta có cảm tưởng lối đặt vấn đề như thế xem ra phản động, lỗi thời. Và đó là một vấn đề cống hiến cho chúng ta suy tư. Cuối thế kỷ 19, F. Nietzsche khám phá rằng bước đi của triết học truyền thống khởi từ thời Socrate của Hy-lạp đã dựa trên những nền tảng lung lay; tiến trình của triết học đó không phải là sự sinh động của tư tưởng con người, nhưng là một giấc mơ liên lỉ của những con người trốn chạy trước những thách đố đầy cam go của cuộc sống, vốn là một bi kịch của Thiên nhiên. Nói cách khác càng hướng về tương lai, vận mệnh của nhân loại chịu sự chi phối của lối tư tưởng triết học truyền thống sẽ đi dần đến cảnh tiêu điều. Ông gọi tiến trình đó là "sa mạc lớn dần". Trong tiền bán thế kỷ 20, triết gia M. Heidegger dựa vào sự kiểm thảo về nền tảng triết học của Kant, xác minh rằng hư vô chủ nghĩa mà F. Nietzsche nêu lên trong câu nói "Thượng đế đã chết" đi liền với thắc mắc "Phải chăng chúng ta sẽ lạc loài trong cõi hư vô bất định?" không phải chỉ là một chủ trương nói ngược lại những nội dung tích cực về hữu thể của triết học truyền thống. Nhưng
Nói cách khác, các nhà tư tưởng đã thấy rằng chuyển biến của lịch sử nhân loại được điều hành bởi lối triết học truyền thống nầy sẽ đào thải chính sinh hoạt gọi là triết học, đồng thời xoá luôn ý định nguyên thủy đồng hóa tư tưởng con người với lối suy tư triết học đó. Vào thời kỳ mà Martin Heidegger nêu lên những nhận định trên, sinh hoạt triết học đang phát triển cao độ, đặc biệt những năm sau cuộc đại chiến lần thứ hai . Cũng khoảng vào thời gian nầy, vào giữa thế kỷ 20, G. Gusdorf nhận định rõ hơn về sự suy tàn hầu như tất yếu của triết học trong Thời tân kỳ của lịch sử nhân loại đang diễn ra như sau:
Câu trả lời vào cuối thế kỷ 20 dựa vào thực tế lịch sử, là "không". Nói rằng "không", không có nghĩa là bộ môn triết học không còn nằm trong các chương trình học cấp trung và đại học ở các quốc gia, hay sách vở viết về triết học không còn được xuất bản và lưu hành. Nhưng "không" ở đây có nghĩa rằng vai trò mà triết học được truyền thống văn hóa Tây phương đánh giá như là thắc mắc về nền tảng của tư tưởng và sinh hoạt con người thì ngày nay đã được giải quyết bằng khoa học, tiêu chuẩn vững chắc để đánh giá chân lý. Triết học bây giờ được xem là một bộ môn nghiên cứu về tiến trình kiến thức tiền khoa học, hoặc là tổng số những giả thuyết thúc đẩy khoa học phát triển và sẽ được xác minh lại dựa trên những tiêu chuẩn của chính khoa học. Platon cho rằng điểm khởi đầu và động lực thúc đẩy suy tư triết học là sự ngạc nhiên. Nhưng tâm thức con người ngày nay đánh giá sự ngạc nhiên đó chẳng qua là tình cảm của con người ở vào tình trạng chưa phát triển về sự hiểu biết khoa học. Jean Brun nhận định về tâm thức phổ biến của con người văn minh ngày nay như sau:
Như thế đặt vấn đề dân tộc Việt Nam có hay không có triết học để làm gì? Chúng ta phải chăng đang sống trong một xã hội nới rộng có tính cách toàn cầu, mà văn minh khoa học kỹ thuật Tây phương được tiếp nhận như một tiến trình tiến hóa phổ quát, thế thì câu hỏi có lẽ xem ra hữu lý và cấp thiết hơn cho sinh mệnh của dân tộc là "Dân tộc Việt Nam đã có những tiến trình phát triển khoa học như thế nào", thay vì đặt câu hỏi có tính cách xa xỉ về vấn đề triết học? Trước thắc mắc nầy, có người lại nêu lên, cũng rất tổng quát, rằng khoa học chỉ giải quyết vấn đề "thành công", còn triết học là ưu tư cho vấn đề "thành nhân". Nhận định nầy buộc ta phải đào sâu thêm về chính nội dung và nền tảng triết học. Điều mà chúng ta gọi là "thành nhân" cũng là điều mà triết học muốn tìm đến, dù chúng ta có dùng chữ đó theo một nghĩa rộng rãi (như khi dùng chữ triết học Đông phương, triết học Việt Nam) hay dùng theo nghĩa hẹp đúng theo truyền thống trường ốc và lối suy tư đặc loại của Tây phương. Vấn đề hiện nay làm ta ngạc nhiên là tại sao còn tồn tại một nỗi nhớ nhung nào đó để thoáng thấy một sự phân cách giữa "thành nhân" và "thành công", trong khi tiến trình lịch sử được hướng dẫn bởi tư tưởng truyền thống triết học Tây phương chứng thực là khoa học được nhìn nhận như là sự hoàn thành của triết học. Thắc mắc đó phải chăng là vết tích của một quá trình lịch sử quá khứ mà một số người lạc hậu chưa gột bỏ được để đồng hành với đà tiến hóa của nhân loại, hay đây chính là triệu chứng con người giật mình trước lịch sử đang trên đà dẫn đưa nhân loại đến sự hủy diệt nhân tính. Trả lời câu thắc mắc đó buộc ta quay lại xem giữa mục tiêu của triết học đặt ra ngay từ bước đầu và tiến trình mà triết học đã thực hiện qua lịch sử có ăn khớp với nhau, hay từng gặp phải những bước sẩy trật.
(Trích Cuốn Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam và Vấn Đề Triết Học, Định Hường Tùng Thư xb, 1999) VỀ MỤC LỤC Каталог: uploads -> dacsangiaosivietnam dacsangiaosivietnam -> Bán nguyệt san – Số 313 – Chúa nhật 05. 11. 2017 tải về 0.95 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |