Xứ đàng trong năm 1621



tải về 0.59 Mb.
Chế độ xem pdf
trang5/14
Chuyển đổi dữ liệu01.09.2022
Kích0.59 Mb.
#53051
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14
xu-dang-trong-nam-1621 BORRY
KhoSachOnline.Com-lich-su-vuong-quoc-dang-ngoai-pdf
CH
ƯƠNG 5: V TÍNH TÌNH, PHONG HÓA,
T
C L NGƯỜI ĐÀNG TRONG, CÁCH SNG,
CÁCH ĂN M
C VÀ THUC MEN CA H
V
ề màu da thì người Đàng Trong không khác người Tàu, tất cả đều
có s
ắc xám xanh [1], nếu là người ở ven biển, còn những người khác từ
n
ội địa cho tới biên giới Đàng Ngoài thì cũng trắng như người Châu Au.
V
ề nét mặt thì cũng giống, như người Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn
v
ề kích thước thì trung bình, tôi có ý nói, họ không quá lùn như người
Nh
ật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân hình vạm vỡ thì họ
v
ượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật là hơn họ
v
ề một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến
tr
ận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất cứ giá nào.
Ng
ười Đàng Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm đạo, hơn tất
c
ả các dân phương Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm, nhưng đàng
khác h
ọ lại rất dễ nổi giận. Tất cả các nước phương Đông đều cho
ng
ười Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ ghét mặt đến nỗi khi
chúng ta vào lãnh th
ổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ
Đàng Trong, h
ọ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng ta trăm
nghìn th
ứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch
s
ự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các đồng
s
ự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng tôi
nh
ư những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng tôi
t
ừ lâu. Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo của
Chúa Kitô đ
ến rao giảng Phúc âm.
T
ừ tính tình rất trọng khách và cách ăn ở giản dị đó mà họ rất đoàn
k
ết với nhau, rất hiểu biết nhau, đối xử với nhau rất thành thật, rất trong
sáng, nh
ư thể tất cả đều là anh em với nhau, cùng ăn uống và cùng sống
chung trong m
ột nhà, mặc dầu trước đó chưa bao giờ họ thấy nhau, biết
nhau. H
ọ coi là một nết rất xấu, nếu ai ăn món gì dù rất nhỏ mịn mà
không chia s
ẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một miếng. Họ có tính quảng
đ
ại, hay bố thí cho người nghèo, họ có thói quen không bao giờ từ chối,
không cho k
ẻ xin bố thí. Họ nghĩ là sẽ không làm đủ bổn phận nếu từ


ch
ối, họ coi như bị ràng buộc bởi phép công bằng. Do đó có lần có mấy
ng
ười ngoại quốc bị đắm tàu và được cứu tại một cảng Đàng Trong. Họ
không bi
ết tiếng để xin người ta cho thức ăn để sống, họ chỉ cần học
m
ột chữ thôi cũng đủ, đó là chữ đói, có nghĩa là tôi đói. Bởi vì vừa nghe
th
ấy người ngoại quốc than thở như vậy và đi qua các cửa nhà người dân
mà kêu đói, thì t
ất cả đều động lòng thương và cho họ ăn, đến nỗi chỉ
trong m
ột thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều thức ăn dự trữ, đến
khi chúa c
ấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì chẳng ai muốn
đi vì h
ọ quyến luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những người rộng
rãi cho h
ọ các thứ để sống mà không phải làm việc. Cuối cùng người
thuy
ền trưởng buộc phải vác gậy đánh đập họ, thì họ mới chịu sửa soạn
xu
ống tàu, đem chất trong tàu thóc gạo họ đã xin được, khi họ đi gõ cửa
các nhà và kêu đói.
N
ếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng rãi hay cho, thì mặt
khác h
ọ lại hay xin những gì họ thấy. Thế nên khi họ vừa đưa mắt nhìn
th
ấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ đem lòng thèm muốn và nói
ngay xin m
ột cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ coi là rất bất lịch sự
n
ếu người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và chỉ có một cái mà thôi.
Ai t
ừ chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do đó một là nên giấu đi, hai là
s
ẵn sàng cho người nào xin.
M
ột thương gia người Bồ không ưa cách cư xử lạ lùng đó, bởi vì
h
ễ họ trông thấy ông cầm đồ vật gì đẹp trong tay là họ xin liền. Một
hôm ông nh
ất quyết cũng làm thử như họ. Ông tới gần thuyền của một
ng
ười đánh cá nghèo và để tay trên một cái rổ lớn đầy cá, ông nói bằng
ti
ếng bản xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này. Chẳng nói chẳng
r
ằng, người thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông đem về. Người
B
ồ đem về nhà, rất sửng sốt và khen ngợi lòng quảng đại của người
Đàng Trong. Th
ực ra vì thương người thuyền chài nghèo khổ, nên sau đó
ông tr
ả tiền rổ cá theo giá của nó.
Nh
ững từ ngữ về đối thoại, giao tiếp và lịch sự thì cũng giống như
t
ừ ngữ Trung Hoa. Người dưới rất kính trọng người trên, cũng như kẻ
b
ằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả cách thức tỉ mỉ và những lời
khen t
ế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt nơi người Trung Hoa, nhất
là h
ọ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi tác, bao giờ họ cũng nể
ng
ười có tuổi hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế
nào, bao gi
ờ họ cũng nhường ưu tiên cho người già hơn. Vì thế có một


l
ần mấy viên quan lớn tới thăm nhà chúng tôi, mặc dầu đã được người
thông d
ịch cho họ biết là có một cha có tuổi hơn cả, nhưng không phải là
B
ề trên, thế nhưng không tài nào ngăn cản họ chào người có tuổi đó
tr
ước hết, sau mới chào Bề trên, là người trẻ tuổi hơn. Trong tất cả các
nhà c
ửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn đến đâu đi nữa, người ta cũng
gi
ữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là ngồi trên chiếu trải trên
đ
ất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai là
ng
ồi trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và
m
ịn hơn, dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba là trên một thứ bục
[2]cao h
ơn đất chừng tám tấc làm thành như cái giường và chỉ dành cho
các quan và b
ậc chức vị bản địa hay những người lo việc thiêng liêng,
nh
ư các cha dòng chúng tôi thường được ngồi.
Vì ng
ười Đàng Trong tử tế và có tính tình hòa nhã, nên họ rất trọng
ng
ười ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự do sống theo đạo của mình
và ăn m
ặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen cách làm của người
n
ước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và dễ dàng chuộng
đ
ạo giáo của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn với
ng
ười Tàu, họ chỉ khen ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ
mà thôi.
Còn v
ề y phục thì như chúng tôi đã nói, tơ lụa rất thông dụng ở xứ
Đàng Trong đ
ến nỗi ai cũng mặc hàng tơ lụa. Bây giờ chỉ nói về cách họ
m
ặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ [3], phải nhận rằng cách mặc của họ tôi
v
ẫn coi là giản dị hơn khắp cõi An Độ, vì họ không để lộ một phần nào
trong thân th
ể, ngay cả trong những mùa nóng bức nhất. Họ mặc tới năm
hay sáu váy l
ụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia và tất cả có màu sắc khác
nhau. Cái th
ứ nhất phủ dài xuống chấm đất, họ kéo lê rất trịnh trọng,
khéo léo và uy nghiêm đ
ến nỗi không trông thấy đầu ngón chân. Sau đó là
cái th
ứ hai ngắn hơn cái thứ nhất chừng bốn hay năm đốt ngón tay, rồi tới
cái th
ứ ba ngắn hơn cái thứ hai và cứ thế trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ
ng
ắn hơn cái kia, để cho các màu sắc đều được phô bày trong sự khác
bi
ệt của mỗi tấm. Đó là thứ phái nữ mặc từ thắt lưng xuống bên dưới.
Còn trên thân mình thì h
ọ khoác vắt chéo như bàn cờ với nhiều màu sắc
khác nhau, ph
ủ lên trên tất cả một tấm voan rất mịn và rất mỏng cho
ng
ười ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng khác mùa xuân vui tươi
và duyên dáng, nh
ưng cũng không kém trịnh trọng và giản dị.


H
ọ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng
dài càng đ
ược coi là càng đẹp. Họ đội trên đầu một thứ mũ lớn riềm
r
ộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông xa hơn ba hay bốn bước
tr
ước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến tuỳ theo gia
th
ế của từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ làm gì khác
khi ph
ải chào hỏi những người mình gặp, ngoài việc cất nón đủ để trông
th
ấy mặt.
Đàn ông [4] thì không nai n
ịt, nhưng quàng cả một tấm, rồi cũng
thêm năm hay sáu áo dài và r
ộng. Tất cả đều bằng lụa màu sắc khác nhau
v
ới ống tay rộng và dài như ống tay các tu sĩ Biển Đức. Còn từ thắt lưng
tr
ở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu rất khéo và rất đẹp. Thế nên
khi ra ph
ố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu có gió nhẹ thổi từ bên
trong làm tung bay thì th
ực ra có thể nói là những con công xoay tròn khoe
màu s
ắc đẹp của mình.
H
ọ cũng để tóc dài như đàn bà, cho xõa tóc tới gót chân và cũng đội
nón. Ng
ười có râu thì hiếm, họ không bao giờ cắt. Về điểm này, họ làm
theo ng
ười Tàu. Họ còn để móng tay dài: người quý phái không bao giờ
c
ắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu của sự quý phái, và để mình
khác bi
ệt với thường dân và thợ thuyền, những người này không để dài
đ
ược vì vướng tay trong khi hành nghề, tỉ như kị mã để móng tay dài thì
không sao n
ắm chặt dây cương trong lòng bàn tay. Họ không thể thưởng
th
ức cách cắt tóc ngắn và cắt móng tay của chúng ta, họ nại lý do là thiên
nhiên ban cho các th
ứ đó để trang trí bản thân con người. Có lần nói
chuy
ện về tóc, họ bác bẻ chúng ta và không dễ gì đáp lại được lúc đầu.
H
ọ nói, nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các ông khoe là các ông bắt chước
h
ết mọi việc Người làm, nhưng chính Người để tóc dài theo kiểu người
Nagiarét, nh
ư chính các ông quả quyết và cho chúng tôi coi hình ảnh, thì
t
ại sao các ông không làm theo như Người. Họ nói thêm để cho có thế
l
ực hơn nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài, như vậy là Người muốn
cho chúng ta bi
ết đó là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng hài lòng khi chúng
tôi tr
ả lời là bắt chước không phải là làm theo một cách lố lăng.
Các văn nhân và ti
ến sĩ thì ăn mặc trịnh trọng hơn, không màu mè
loè lo
ẹt. Họ choàng lên trên tất cả một áo dài đen. Họ còn khoác một thứ
khăn qu
ấn cổ và ở cổ tay một khăn bằng lụa màu da trời, còn đầu thì
th
ường đội một thứ mũ kiểu như mũ giám mục. Cả đàn ông đàn bà đều
ưa cầm quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy lệ thôi.


Ng
ười Châu Au chúng ta khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng màu
tr
ắng. Khi họ chào nhau, không bao giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là
không l
ịch sự, cũng giống như người Tàu, họ cho đó là không phải phép
đ
ối với người thế gia và rất vô lễ. Vì thế, để cho hợp với họ các cha
dòng chúng tôi đã th
ấy cần phải được đức giáo hoàng Phaolô V cho phép
dâng thánh l
ễ đầu đội mũ trong những miền đất này.[5]
Sau cùng ng
ười Đàng Trong không đi dép cũng không đi giầy, cùng
l
ắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mấy giây lụa và khuy trên mu
bàn chân nh
ư kiểu săn đan của ta để cho bàn chân không bị đâm: Họ cho
r
ằng đi chân không không phải là không biết cách ăn ở, họ đi dép hay đi
chân không thì chân h
ọ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm, nhưng họ không ngại
vì tr
ước nhà họ bao giờ cũng có một chậu đầy nước để rửa chân. Còn kẻ
đi dép thì ph
ải để dép ở ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì trong nhà không cần,
h
ọ đã trải chiếu nên họ không sợ bẩn. [6]
Dân Đàng Trong r
ất trọng những tục lệ của họ. Họ khinh những
t
ục lệ của người ngoại quốc như người Tàu. Các cha không cần thay đổi
y ph
ục, thực ra không khác cách ăn vận chung ở khắp An Độ. Các ngài
m
ặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon thường làm màu thanh
thiên và ra n
ơi công chúng như thế không thêm áo dái hay áo choàng [7].
Cũng không đi gi
ầy như tục người Châu Au hay người bản xứ: vì giầy
Châu Au thì làm gì có mà đi và cũng không ai bi
ết làm [8], còn dép bản xứ
thì không sao đi đ
ược vì rất bất tiện cho người chưa quen, nên đau chân,
b
ởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón nọ cách xa ngón kia, do
đó, các ngài 
ưa đi chân không và bị đau chân hoài nhất là trong lúc đầu, vì
đ
ất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau một thời gian thì theo tính
t
ự nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không có thấy khó chịu, mặc
d
ầu phải đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen lắm
đ
ến nỗi khi trở về Macao, tôi không chịu được giầy, cảm thấy chúng thật
n
ặng nề và làm chân tôi vướng víu làm sao. [9]
Th
ức ăn thông thường nhất của người Đàng Trong là cơm và thật
là đi
ều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà, vịt, cá và trái cây đủ
lo
ại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại là cơm, họ xới thật nhiều cơm, ngay
khi ng
ồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm náp các món thịt như để theo
nghi l
ễ. Lương thực chính yếu của họ là cơm như bánh mì là lương thực
chính c
ủa chúng ta; họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm, không cần nước sốt
hay món gì khác vì s
ợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ hay muối


hay d
ầu mỡ hay đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước
thôi đ
ể cho cơm không dính vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn
nguyên v
ẹn, chỉ mềm một chút và dẻo. Họ còn kinh nghiệm thấy rằng
không thêm m
ắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì thế hầu hết
các ng
ười sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và ăn rất
nhi
ều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi hỏi.
Ng
ười Đàng Trong ngồi trên đất để ăn, chân xếp lại, trước một
bàn tròn (mâm) cao ngang b
ụng, mâm được khắc vẽ chạm trổ tỉ mỉ, riềm
b
ịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của người dùng. Mâm này không
l
ớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng [10], cho nên trong bữa tiệc
có bao nhiêu khách m
ời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn riêng ở nhà họ cũng
gi
ữ như vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng chung một
mâm. H
ọ không dùng dao hay xiên trong mâm, thực ra họ không cần dao,
xiên. H
ọ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong
b
ếp và thay vì xiên thì họ dùng những đũa nhỏ rất nhẵn nhụi họ cầm
gi
ữa các ngón tay để gắp một cách rất khéo léo, rất sành sỏi, nên không
c
ần gì khác. Họ cũng không cần khăn ăn vì không hề dùng tay, không bao
gi
ờ lấy thịt mà không dùng đũa.
Ti
ệc tùng cũng khá thông thường giữa lân bang với nhau, trong đó
h
ọ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi đã nói trước đây. Họ
không c
ần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở nhà mình. Và mặc dầu người mời
là ng
ười nghèo, người ta không tin ông thành thực, nếu mỗi khách mời
không có trong mâm ít nh
ất là một số các món ăn. Bởi vì họ có thói quen
m
ời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có
ch
ừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai
trăm. Có l
ần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai,
ba nghìn ng
ười. Cho nên tiệc này phải làm ở thôn quê là nơi có chỗ rộng
đ
ể bày mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những mâm nhỏ như chúng
tôi đã nói. Trên đó bày t
ới cả trăm món, vả trong những dịp này, họ có
m
ột kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với những thanh
n
ứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các
món, g
ồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật bốn
c
ẳng, gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong mùa. Nếu
ch
ẳng may thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và người ta
không coi b
ữa ăn đó là bữa tiệc. Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc trên
thì đ
ứng hầu, khi chủ ăn xong thì tới phiên toán gia nhân bậc trên có đầy


t
ớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến lượt những người đầy tớ
b
ậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất cả những món đầy rẫy đó
và theo t
ục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho thoả
thuê. M
ột mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê thỏa,
còn th
ừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về nhà cho
v
ợ con được no nê [11]. Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đàng Trong không có nho, do đó cũng không có r
ượu nho, họ dùng
làm r
ượu một thứ gạo cất có mùi vị như rượu của ta, giống cả về màu
s
ắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có rất nhiều rượu đến nỗi mọi
ng
ười đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và không hề buồn vì không
có r
ượu nho ở những miền này. Thế nhưng, những người khá giả thường
có thói quen pha thêm m
ột thứ rượu cất ở cây trầm hương làm cho mùi vị
có m
ột hương thơm đặc biệt, sự pha trộn này rất thành công.
Trong ngày h
ọ có tục dùng một thứ nước rất nóng, trong đó nấu
m
ột thứ rễ cỏ [12] gọi là trà, cũng là tên thứ nước uống đó, thứ nước này
r
ất bổ và giúp cho tan các chất xấu trong dạ dày và làm cho dễ tiêu.
Ng
ừơi Nhật và người Tàu cũng dùng, trừ ở Tàu, người ta không dùng rễ
mà dùng lá và 
ở Nhật người ta tán nhỏ, nhưng hiệu lực thì cũng giống
nhau và t
ất cả đều gọi là trà.
Th
ật là một sự không thể tin được là người Châu Au chúng ta ở
đây có r
ất nhiều thịt thà và dồi dào về đủ mọi thứ, thế mà chúng ta vẫn
còn đói, còn khát, không ph
ải vì thiếu thịt mà vì không quen với các thứ
đó, b
ản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì và rượu nho một cách đột
ng
ột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ cảm thấy như thế, nếu
h
ọ tới Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều thứ thịt ngon và
r
ất dồi dào. Tôi kể ở đây một việc đã xảy đến với một quan cai trị xứ
Đàng Trong. Ông này là b
ạn thân của chúng tôi, chúng tôi mời ông đến
nhà chúng tôi dùng c
ơm và để tỏ mối thịnh tình khăng khít của tôi đối với
ông thì chúng tôi d
ọn nhiều món theo lối Châu Au của chúng tôi. Ông
ng
ồi vào bàn và thay vì như chúng tôi tưởng ông sẽ chiều ý chúng tôi mà
khen ý t
ốt lành của chúng tôi và cảm ơn về sự mới lạ này, bởi vì chúng
tôi đã không ti
ếc công, nên thử dọn cho ông hết các món liên tiếp. Thế
nh
ưng không có món nào ông có thể dùng được, mặc dầu ông cố gắng tỏ
ra h
ết sức lịch thiệp và thành tâm [13]. Đến nỗi chúng tôi đành phải đem
lên nh
ững món thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng cố gắng
h
ết sức. Lúc ấy ông mới ăn ngon lành và hài lòng, còn chúng tôi mới thỏa


d
ạ. Thế nên, về việc ăn uống cũng như về những gì chúng tôi đã nói như
v
ề việc đi chân không, bản tính tự nhiên cũng cho quen dần với nếp sống
b
ản xứ, tập cho thành thục và làm rất đúng đến nỗi thức ăn ban đầu trở
nên kỳ d
ị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi đã nghiệm thấy, khi tôi về
t
ừ những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng được ăn cơm xứ Đàng
Trong mà tôi th
ấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây người ta đem cho
tôi.
Còn v
ề thầy thuốc và cách chữa các bệnh nhân, tôi phải nói là có
r
ất nhiều, người Bồ cũng như người bản xứ, và người ta thường thấy
nhi
ều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu Au không chữa được thì đã
đ
ược khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi một cách dễ
dàng. Không ít l
ần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân, coi
nh
ư xong rồi, thế nhưng bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ
dàng n
ếu gọi được một lương y bản xứ.
Ph
ương pháp của họ là thoạt vào phòng người bệnh, họ ngồi nghỉ
m
ột lát gần giường bệnh, để cho dịu cảm xúc khi tới đây. Rồi họ bắt
m
ạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ nói ông hay bà mắc chứng
gì và n
ếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho biết, tôi không có
thu
ốc chữa bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có thể chữa được
b
ằng thứ thuốc nào của họ thì họ cũng cho biết, tôi có cách chữa ông, bà
và trong bao lâu, tôi s
ẽ chữa ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ bàn về tiền thù
lao cho l
ương y trong trường hợp khỏi bệnh. Tiền nhiều ít tuỳ theo tính
ch
ất và sự nặng nhẹ của bệnh và có lần hai bên có hợp đồng với nhau.
R
ồi chính lương y bốc thuốc, không cần tới dược sĩ, vì thế họ không có
d
ược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ bí mật của các liều thuốc họ cho, vì thế họ
h
ết sức giấu, một phần cũng vì họ không dám tin tưởng vào một người
nào khác b
ốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu bệnh nhân phục hồi sức
kho
ẻ trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả, thường diễn ra như
v
ậy, thì buộc phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với nhau, nhưng
n
ếu không khỏi thì lương y mất cả công, mất cả thuốc.
Thu
ốc họ cho bệnh nhân uống thì không như thuốc chúng ta, vừa
khó u
ống lại làm yếu và làm cho bụng ươn lười, nhưng dễ uống như
canh [14] và cũng r
ất bổ, không cần ăn thêm món nào khác. Vì thế họ cho
b
ệnh nhân uống mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh thoảng cho uống
n
ước thịt. Các vị thuốc đó không biến đổi cơ thể, nhưng giúp các chức
năng ho
ạt động thông thường, làm khô kiệt những chất hư mà không


đ
ộng tới người bệnh. Có một điều phải tường thuật lại ở đây vào
ch
ương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho mời lương y Châu Au
t
ới và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh nhân coi như
ch
ết không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ, ông
này h
ứa chữa trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong
th
ời gian ông chữa bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì
c
ực kỳ nguy hiểm và ông không thấy có thuốc nào trong y khoa có thể
c
ứu thoát cơn nguy hiểm bệnh nhân đang chịu và chỉ cần điều kiện đó
thôi. Hai bên th
ỏa thuận là lương y sẽ chữa khỏi trong vòng ba mươi
ngày. Ng
ười bệnh uống thuốc theo đơn lương y cho và trong một ít ngày,
b
ệnh nhân đã khỏi, nhưng không chịu nghe theo điều thầy thuốc đã cấm
đoán rõ ràng. Th
ế là lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có sự thay
đ
ổi. Ông biết chắc là người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho
bi
ết là bệnh nhân phải chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không
còn thu
ốc nào cứu chữa được nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền
thù lao nh
ư đã thỏa thuận bởi vì người bệnh chết nhưng lỗi không phải
t
ại thầy thuốc. Người ta xử việc này và tòa ra lệnh cho bệnh nhân phải
tr
ả tiền cho lương y, sau đó người bệnh nhắm mắt lìa đời.
H
ọ cũng dùng cách chích máu, nhưng họ tiết kiệm máu hơn cách
ng
ười ta làm ở Châu Au và họ không dùng kim chích thông thường: họ có
nhi
ều lông ngỗng, trong đó có ghép những mảnh sứ nhỏ rất sắc và được
dùng nh
ư những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và khi phải đâm vào
m
ạch máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này, lớn nhỏ tuỳ theo
nhu c
ầu và lấy ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch máu, mũi mảnh sứ
ch
ỉ đâm đủ theo nhu cầu mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn hết là khi đã
l
ấy đủ máu thì họ không cần băng bó, không cần miếng gạc, không cần
bu
ộc cột gì cả: họ liếm ngón tay cái cho có nước bọt và ấn trên vết
th
ương, làm cho da khép lại, máu ngừng tức thì và vết thương lành ngay.
Đ
ược vậy tôi cho là do cách thức họ mở mạch máu với mũi sứ nhọn làm
cho s
ạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng.
Không nhi
ều nhà giải phẫu có nhiều bí quyết kỳ diệu. Tôi không
mu
ốn đưa ra chứng cớ nào khác bằng việc họ đã làm cho chính bản thân
tôi và m
ột bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã từ một nơi cao xuống và bên chỗ
có d
ạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt đầu thổ ra máu và ngực tôi
cũng b
ị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy liều thuốc theo cách bên Châu
Au c
ủa chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt chút nào. Trong khi đó may có


m
ột thầy giải phẫu bản xứ tới, thầy lấy một thứ cỏ nào đó giống như cỏ
x
ổ [15] làm thành một thứ cao và đắp trên dạ dày, rồi cũng sắc những thứ
c
ỏ đó cho tôi uống, lại cho ăn sống nữa và trong mấy ngày tôi hoàn toàn
h
ồi phục. Để thí nghiệm lại, chính tôi đập gãy chân một con gà mái ở
nhi
ều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ làm thành cao và đắp trên những vết chân
gãy, th
ế là sau ít ngày nó khỏi hẳn.
M
ột con bọ cạp đã cắn vào cổ một bạn đồng sự của tôi và ở xứ
này đây s
ẽ là vết tử thương. Tức thì cổ sưng vù và khi chúng tôi chuẩn bị
làm phép x
ức dầu thì người ta mời một thầy giải phẫu tới. Thầy cho nấu
t
ức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân người bệnh, lấy vải quấn
chung quanh cho h
ơi và khói nóng không bay đi. Thế là hơi bốc lên tận
v
ết thương và người đồng sự của tôi cảm thấy bớt đau nhức, cổ bớt
s
ưng vù và được khỏe mạnh như thể chưa bao giờ bị đau.
Ng
ười ta còn có thể thêm nhiều thí dụ tương tự, nhưng tôi chỉ nói
r
ằng thuốc ở những miền này có hiệu lực hơn thuốc ở đây (Châu Au). Và
riêng tôi, tôi có th
ể thêm rằng tôi đã đem theo tôi cây đại hoàng[16] trong
m
ột hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt. Khi tôi về tới Châu Au sau hai
năm hành trình, tôi th
ấy cây đại hoàng của tôi đã biến chất khiến tôi
không nh
ận ra nữa, nguyên chất mất hết công dụng khi chuyển từ những
x
ứ đó về xứ chúng ta.
Chú thích
[1] B
ản Pháp văn “olivâtres” xám xanh như trái ô liu.
[2]Cách th
ứ hai: một thứ võng? Cách thứ ba: khó tưởng tượng ra
đ
ược, một thứ bục. Phải tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà vào thế kỷ 17,
nh
ất là miền Nam lúc đó.
[3] V
ề y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho rõ. Trong câu ngạn ngữ
th
ường thấy “Mớ bảy mớ ba”, có thể nghĩ như vậy.
[4] Cũng th
ế, y phục phái nam thời đó trong địa phương đó, như đã
nói, có th
ể có ảnh hưởng người Chàm.
[5] M
ột trong những điều xin Tòa thánh chuẩn là dâng Thánh lễ đội
mũ nh
ư cách thức người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ cũng đội mũ. Đức
Piô V (1504-1572) làm giáo hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng Đaminh và
làm quan toà Inquisition tr
ước khi ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực thi công
đ
ồng Trente, ban hành sách Giáo lý công đồng Trente, sửa lại sách Kinh
nguy
ện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong hiển thánh năm 1712.
[6] Theo t
ục người Châu Au, đi chân không là vô lễ.


[7] Th
ời đó, bên Châu Au, linh mục ra ngoài đường phố thì khoác
thêm m
ột áo choàng. Philipphê Bỉnh có nói tới tục này trong sách “Sổ
Sang chép các vi
ệc”.
[8] Nh
ận xét rất đúng, người Việt Nam chưa biết đóng giầy như ở
Châu Au.
[9] Giáo sĩ quen n
ếp sống bản xứ: xem thêm việc ăn cơm.
[10] Theo Borri thì trong khi h
ội họp đình đám vẫn mỗi người một
mâm
[11] T
ục lấy phần về
[12] Th
ường thì lá cây chứ không phải rễ.
[13] Theo l
ịch sự, thì cho dù mình không thích nhưng cố gắng dùng
và khen cái m
ối thịnh tình của người ta.
[14] Không ph
ải là canh, cũng không hẳn là cháo, nhưng là thứ
“potage” b
ằng nước thịt hay nước các thứ rau nấu chín.
[15] Mercurialle, theo Đ
ỗ Tất Lợi thì có Mercurialis indica Lour
(l
ộc mai) thuộc loại thầu dầu, không biết có phải vậy không?
[16] La rhubarbe. Đ
ỗ Tất Lợi, sd, về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp
ng
ười ta làm mút với thân cây này. 


CH
ƯƠNG 6: VỀ HÀNH CHÍNH VÀ DÂN CHÍNH NƠI NGƯỜI
ĐÀNG TRONG
Tôi s
ẽ nói vắn tắt đủ để hiểu biết một cách ngắn gọn. Bởi vì nếu
tôi trình bày dài dòng quá thì tôi s
ẽ đi xa ý tôi đã định cho tôi trong bản
t
ường trình này. Nói chung thì việc hành chính có cái gì giống như ở Nhật
và 
ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật trọng nhiều về võ thuật hơn về học
thu
ật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về học thuật và coi thường võ
thu
ật. Người Đàng Trong không hoàn toàn xa người Nhật và lại cũng gần
ng
ười Tàu, nghĩa là ở giữa và cũng theo tinh thần của dân tộc mình, vừa
tr
ọng võ vừa chuộng văn tuỳ theo cơ hội. Do đó họ thưởng và đặt lên các
ch
ức vụ và cấp bậc trong nước, khi thì là các tiến sĩ, lúc thì là các tướng
sĩ, h
ọ chỉ định và cắt đặt lúc thì người này khi thì người kia tuỳ theo nhu
c
ầu.
X
ứ Đàng Trong có nhiều trường đại học[1] trong đó các giảng viên
và các c
ấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng như ở Tàu. Họ
cũng d
ạy các khoa, dùng những sách và tác giả như nhau, như Khổng Tử
theo ki
ểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên thâm, với giáo
thuy
ết sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng ta, chúng ta có
Aristote[2]. Và th
ực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa đầy lý lẽ bác
h
ọc, nhiều chuyện lạ, nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục ngữ và nhiều
s
ự tương tự, tất cả đều bàn về thuần phong mỹ tục, như chúng ta có
Seneca, Caton, và Ciceron [3]. Ph
ải mất nhiều năm học mới có thể đọc
đ
ược các câu, các chữ, và các hình để viết. Cuốn sách họ chuộng hơn cả
và h
ọ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết học luân lý gồm có đạo đức
h
ọc, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú khi thấy và nghe họ
h
ọc trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca hát. Họ phải
làm nh
ư thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng của nó,
vì có r
ất nhiều, mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau. Vì thế, để
đàm tho
ại với họ thì cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc và phép
đ
ối âm.
Ti
ếng nói thông thường thì khác với chữ viết họ dạy và họ đọc khi
h
ọc và viết. Cũng như ở nơi chúng ta tiếng bình dân chung cho tất cả thì
khác, còn ti
ếng Latinh chỉ dạy trong trường thì khác. [4] Đây là điểm khác
v
ới Trung Hoa, văn nhân hay quý phái cũng chỉ có một thứ tiếng nói gọi là
quan tho
ại, nghĩa là tiếng các tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị. Còn chữ
vi
ết như chữ in trong sách thì có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác


nhau. Vì th
ế các cha dòng Tên phải mất tám và có khi mười năm để học
nh
ững sách ấy trước khi trở nên tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp
v
ới họ. Nhưng người Đàng Trong đã rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại
ch
ừng ba ngàn chữ họ thường dùng để viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự
và nh
ững sự khác không liên quan tới sách in, thiết yếu phải soạn bằng
ch
ữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi hơn, mặc dầu về sách viết và sách in,
h
ọ gắng theo người Tàu, nhưng về các việc thường thức họ đã sáng chế
ra b
ốn mươi tám chữ phối hợp với nhau để diễn đạt và trình bày tất cả
nh
ững gì họ muốn, không hơn không kém gì những vần a, b, c của chúng
ta.
Nh
ưng mặc dầu có thứ chữ này, chữ Hán vẫn rất thông dụng ở
Nh
ật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện lợn hơn để diễn đạt tư tưởng,
nh
ưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta khinh chê coi như chữ
c
ủa đàn bà.
Vi
ệc phát minh tốt đẹp và tài tình về ngành in đã được thực hiện ở
Trung Hoa và Đàng Trong tr
ước khi được biết đến ở Châu Au, mặc dầu
ch
ưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ nhưng dùng cái đục hay dao mà
kh
ắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà họ muốn in trên
sách. R
ồi họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho vào ép cũng như
cách chúng ta làm 
ở Châu Au khi người ta in trên phiến đồng hay vật gì
t
ương tự.
Ngoài nh
ững sách chúng tôi đã nói là những luận thuyết về luân lý,
h
ọ còn có những sách khác, như họ nói, giảng về những sự thần linh như
v
ề việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ trụ, về linh hồn, về ma quỷ thần thánh
và nhi
ều giáo phái khác, những sách này gọi là sách kinh khác với những
sách đ
ời gọi là sách chữ. [5] Chúng tôi sẽ nói về lý thuyết các đạo chúa
đ
ựng trong những sách đó ở phần thứ hai bản tường trình này, như vậy
đúng ch
ỗ của nó hơn.
M
ặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong cũng giống ngôn ngữ
ng
ười Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ dùng những từ có
m
ột vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng khác nhau,
nh
ưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và dồi dào hơn
v
ề nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành âm nhạc và có
kh
ả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau [6].
Ti
ếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng dễ hơn các tiếng bởi vì
không có chia đ
ộng từ, không có biến cách các danh từ [7] nhưng chỉ có


m
ột tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết về thời
quá kh
ứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay thế
cho t
ất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng
nh
ư những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir
trong ngôn ng
ữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì.
Ng
ười ta thêm một đại từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và
nh
ư thế chúng tôi chia động từ này như sau: tôi có, anh có, nó có [8]. Họ
ch
ỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ
các thì khác nhau thì h
ọ nói, về thì hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ:
tôi đã có; v
ề thì vị lai: tôi hoặc sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có
không bao gi
ờ thay đổi. [9] Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ này rất
d
ễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần, tôi đã học được đủ để có
th
ể nói chuyện với họ và giải tội được nữa, tuy chưa được tinh thông
l
ắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn [10].
Nh
ưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của tôi, tôi đã nói rằng
ng
ười Đàng Trong không những chỉ trọng các văn nhân, tán thưởng trình
đ
ộ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những chức vụ cao và có thế
giá, phát cho h
ọ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý trọng những người
can tràng, có giá tr
ị và giỏi giang về võ bị. Nhưng họ cai trị và khác chúng
ta, h
ọ không có tục lệ làm như ở Châu Au chúng ta. Bởi vì đáng lý ra họ
ban phát cho các t
ướng lãnh có tài có công, như người ta thường làm nơi
chúng ta, m
ột lãnh thổ, một bá tước địa, một thái ấp hầu tước để thưởng
công h
ọ, thì họ lại thưởng bằng cách đặt dưới quyền người họ thưởng
m
ột số nhân đinh và một số nhân khẩu và lính hầu nhất định của chính
nhà vua [11]. Nh
ững người này ở bất cứ nơi nào trong nước đều phải
nh
ận người được thưởng là chủ, phải phục dịch bằng binh khí, trong tất
c
ả mọi trường hợp người này cần tới, nộp tất cả các khoản thuế mà cho
ng
ười này như trước đó họ nộp cho chính nhà vua vậy. Vì thế, thay vì
chúng ta nói ng
ười này là chúa cai quản một địa điểm nào, là bá tước hay
v
ương hầu cai trị một lãnh thổ nào thì họ lại nói người này là một nhân
v
ật có năm trăm đinh, người kia có một ngàn đinh, chúa cứ tăng số đinh
cho ng
ười này, người khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền, thêm
th
ế giá, thêm nguồn lợi và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính
h
ầu mới. Về các cuộc chiến tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở
đây, tôi ph
ải nói về một việc đáng được biết, có liên quan tới dân chính.
Th
ứ nhất họ xét xử các sự việc rất nhanh chóng, như người ta thường


làm trong quân đ
ội và như người ta thường nói “trong thời chiến” (more
belli), ch
ứ không kéo dài nơi tòa án qua đường lối các quan tòa, các công
ch
ứng viên, các biện lý với tất cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm sai và các
quan tr
ấn thủ các tỉnh làm hết các chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi ngày
b
ốn giờ liền, trong một cái sân đẹp và rộng, ngay giữa tư dinh của mình,
hai gi
ờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều. Những ai tranh tụng thì tới đó,
trình bày khi
ếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay quan trấn thủ tự vào cửa
s
ổ mà nghe người này người kia lần lượt trình bày, kêu cả. Thường thì
các quan này là nh
ững người có óc phán đoán ngay thẳng, biết nghe và có
kinh nghi
ệm trong các vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách xác
đáng, nh
ất là để ý tới ý kiến của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp
nh
ận cho bên nguyên hay bên bị, nên họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ
vi
ệc và tức thì không trì hoãn, họ lên tiếng công bố án xử và người ta tức
kh
ắc cho thi hành không khiếu nại hay hình thức tố tụng nào khác nữa,
ho
ặc là án tử hình hoặc là án phát vãng hay phạt trượng, phạt tiền: các
ngài lên án ph
ạt tội mỗi người theo hình phạt luật định.
Các tr
ọng tội thông thường phải thú nhận và bị phạt nặng thì rất
nhi
ều. Nhưng người ta trừng phạt nghiêm khắc nhất những kẻ gian dối,
tr
ộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ nhất thú nhận là đã vu cáo một
ng
ười về một trọng tội mà người đó không phạm thì sẽ bị phát rất ngặt,
nghĩa là ch
ịu hình phạt đáng lý ra người kia phải chịu nếu thực sự đã
ph
ạm cái tội người ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta cáo gian đáng phải
t
ử hình thì người cáo gian này sẽ phải xử tử. Và thực tế cho thấy cách xử
này là cách t
ốt nhất để biết đích xác sự thực. Còn kẻ trộm cướp thì bị
ph
ạt chiếu theo của ăn trộm, ăn cướp, nếu chúng lấy một của gì quan
tr
ọng thì phải chém đầu, nếu là của không đáng giá bao nhiêu, thí dụ một
con gà, thì b
ị chặt ngón tay nếu là lần thứ nhất, nếu còn tái phạm thì bị
ch
ặt ngón khác, nếu bị bắt lần thứ ba thì bị cắt tai, lần thứ tư thì bị cắt
c
ổ.
K
ẻ ngoại tình, phái nam cũng như phái nữ bất kể, sẽ bị trừng phạt
v
ề trọng tội của họ bằng cách để cho voi giày theo cách thức như sau.
Ng
ười ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một thửa ruộng và trước mặt
r
ất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở giữa, tay chân bị trói, ở
ngay c
ạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt kẻ sắp bị xử và thi hành án
x
ử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn, rồi nắm và ép chặt
t
ội nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người trông thấy, rồi


tung lên cao và đón t
ội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt
xu
ống và vì nặng nên cắm sâu vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống
đ
ất rồi dẫm chân lên và đạp cho tan nát. Voi làm việc này mà không bỏ
sót m
ột điểm nào làm cho mọi người có mặt sửng sốt và sợ hãi. Vì chứng
ki
ến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải giữ trung thành trong
đ
ạo vợ chồng.
Không ph
ải ngoài đề vì chúng tôi vừa nhắc tới hôn nhân, nếu chúng
tôi k
ể qua ở đây mấy đặc điểm riêng biệt để kết thúc chương này. Không
bao gi
ờ thấy người Đàng Trong, tuy còn là lương dân, lại kết hôn trong
nh
ững bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự nhiên cấm đoán, rất ít trong bậc
th
ứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị em họ [12]. Những cấp bậc khác
đ
ược phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có một vợ. Thực ra, những người
giàu có, càng có th
ế giá và có của thì họ có tục lấy nhiều vợ mọn. Họ
còn cho là bi
ển lận và keo kiệt nhựng ai không cưới nhiều vợ khi mình
có đ
ủ tiền của để dễ dàng làm việc này. Những vợ mọn được gọi bà hai,
bà ba, bà t
ư tuỳ theo thứ tự mỗi người. Tất cả đều là nàng hầu của bà vợ
c
ả. Bà này được trọng nể là vợ đích thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này
ch
ọn các nàng hầu tuỳ theo ý mình và cưới về cho chồng. Hôn nhân của
h
ọ không bền chặt vì luật xứ Đàng Trong cho phép li dị, tuy không phải
ch
ỉ để tuỳ ý và tuỳ thích của bên này hay bên kia. Để ly dị, điều cần thiết
ph
ải làm trước tiên là chứng tỏ được tại sao mình xin ly dị, vì có nhiều
t
ội nặng tỏ tường, nếu có tội thật thì được xin ly dị và lấy người khác.
Vì ch
ồng quản lý tài sản của vợ nên họ cũng bỏ nhà mình đến ở nhà vợ
m
ới. Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các việc trong nhà, còn chồng ở
trong gia đình ch
ẳng làm gì, không vất vả gì và nếu chỉ có một vài đồng
thi h
ọ cũng bằng lòng vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và ăn mặc.
Chú thích
[1] Nh
ưng thực ra có hoàn toàn như Borri nói không? Ở Đàng
Trong, nhà Nguy
ễn cũng bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi.
[2] Aristote nhà tri
ết học thời danh Hy Lạp thế kỷ 4 tr.c.n.
[3] Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca th
ế kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2
tr.c.n, Ciceron nhà hùng bi
ện đại tài thế kỷ 1 tr.c.n.
[4]Th
ời đó người ta còn dùng Latinh để giảng dạy ở các trường đại
h
ọc, còn tiếng mẹ đẻ thì mới manh nha.
[5] Kinh là kinh đi
ển như Tứ thư, Ngũ kinh, còn sách là sách viết
thông d
ụng không thuộc kinh điển.


[6] Hoa ng
ữ có năm thanh, còn Việt ngữ có sáu thanh.
[7] Chia đ
ộng từ: conjugaison, biến cách: déclinaison, trong La ngữ.
[8] Đ
ộng từ tiếng Pháp avoir (có) j’ai (tôi có), tu as (anh có), il a (nó
có), nous avons (chúng tôi có), vous avez (các anh có), ils ont (chúng nó
có).
[9] M
ột động từ avoir có thể thay đổi hình dạng rất nhiều tuỳ theo
khi nói v
ề hiện tại, quá khứ, tương lai, nghi vấn, truyền khiến v.v…
[10] Borri thú nh
ận, tuy biết tiếng Việt, nhưng chưa đủ để giảng
d
ạy giáo lý cho chu đáo.
[11] 
Ở Châu Au nhà vua ban bổng lộc cho công hầu bá tước bằng
đ
ất đai thuộc quyền sở hữu của họ và họ có thể truyền lại cho con cháu.
Ở Việt Nam, họ chỉ được lợi tức, nghĩa là thay mặt vua thu thuế các hộ,
ho
ặc một trăm hoặc một nghìn hay hơn nữa. Họ không có quyền để lại
cho con cháu, nhà vua v
ẫn giữ quyền sở hữu.
[12] Th
ường gọi là anh em thúc bá. 



tải về 0.59 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương