2.3.2. Tình hình xuất, nhập khẩu thép của Việt Nam 2.3.2.1. Tình hình nhập khẩu
Do phát triển chưa đồng bộ và toàn diện nên hàng năm ngành thép nước ta phải nhập một lượng rất lớn nguyên liệu như thép phế, than cốc và một số thép đặc biệt. Tình hình nhập khẩu thép giai đoạn 2011-2015 được trình bày trong bảng 2.31.
Bảng 2.31. Nhập khẩu thép giai đoạn 2011-2015
Đơn vị tính: tấn
Chủng loại
|
Năm 2011
|
Năm 2012
|
Năm 2013
|
Năm 2014
|
Năm 2015
|
Thép phế
|
2.600.000
|
3.500.000
|
3.190.090
|
3.342.966
|
3.233.802
|
Phôi thép
|
878.000
|
444.000
|
353.599
|
598.355
|
1.704.050
|
Thép các loại
|
7.387.000
|
7.159.000
|
9.072.232
|
11.224.152
|
13.687.327
|
Tổng
|
9.987.878
|
10.659.444
|
12.615.921
|
15.165.473
|
18.625.179
|
Nguồn: Tổng cục Hải quan và Hiệp hội Thép Việt Nam
Số lượng thép nhập khẩu tăng từ gần 10 triệu tấn năm 2011 lên 18,6 triệu tấn năm 2015 với kim ngạch tương ứng là 7,5 tỷ USD và 9,0 tỷ USD. Trong đó, ngoài những chủng loại trong nước chưa sản xuất được thì vẫn có cả những chủng loại trong nước đáp ứng được.
* Những chủng loại trong nước chưa sản xuất được
- Thép tấm cán nóng: Lượng thép tấm cán nóng (bao gồm cả thép tấm hợp kim cán nóng và thép tấm các bon thông thường cán nóng) nhập khẩu năm 2015 là 9,2 triệu tấn, chiếm khoảng 50% tổng khối lượng thép nhập khẩu. Chủng loại thép này trong nước chưa sản xuất được và là nguyên liệu đầu vào cần thiết cho nhiều ngành như sản xuất thép cán nguội, tôn mạ, ống thép, đóng tàu, cơ khí chế tạo, v.v... Lượng thép nhập khẩu của các chủng loại thép này trong năm 2015 tăng khoảng 25% so với năm ngoái (7,3 triệu tấn) chủ yếu là do nền kinh tế đã hồi phục tốt, các ngành sản xuất tăng trưởng vững chắc dẫn đến nhu cầu thép dùng cho xây dựng, sản xuất, chế tạo trong nước tăng cao.
- Thép hợp kim dạng thanh, que, hình, dây: Các chủng loại thép này có khối lượng nhập khẩu ước đạt 2,0 triệu tấn, tăng 36% so năm 2014. Trong số 2 triệu tấn thép hợp kim dạng thanh, que, hình, cuộn nhập khẩu có đến 1,95 triệu tấn nhập khẩu từ Trung Quốc (chiếm 94%). Lượng thép này được nhập khẩu chủ yếu phục vụ thép chế tạo.
- Thép không gỉ dạng thỏi đúc, sản phẩm thép không gỉ cán nóng khổ rộng từ 600 mm trở lên: Khối lượng nhập khẩu thép không gỉ ở dạng thỏi đúc hoặc dạng thỏi thô khác, bán thành phẩm của thép không gỉ, các sản phẩm thép không gỉ cán nóng khổ rộng trong năm 2015 ước đạt 630 nghìn tấn, tăng hơn 40% so với năm 2014 (440 nghìn tấn).
Như vậy, khối lượng nhập khẩu các sản phẩm chính trong nước chưa sản xuất được trong năm 2015 ước đạt 11,8 triệu tấn, chiếm gần 77% tổng lượng thép (không tính thép phế) nhập khẩu. Các chủng loại thép này khi nhập khẩu vào Việt Nam không gây nhiều ảnh hưởng đến sản xuất ngành thép trong nước.
* Nhập khẩu các chủng loại thép trong nước đã sản xuất được
- Tôn phủ, mạ, tráng: Tôn mạ, tráng, phủ các loại có khối lượng nhập khẩu lớn, khoảng 1,3 triệu tấn, tăng hơn 70% so với năm 2014 (750 nghìn tấn). Việc gia tăng nhập khẩu các loại tôn mạ, tráng, phủ do lượng hàng hóa từ Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ (1,05 triệu tấn, chiếm gần 80%). Việc nhập khẩu quá nhiều các sản phẩm tôn trong thời gian qua gây áp lực lớn đối với các nhà sản xuất tôn trong nước.
- Phôi thép: Năng lực sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu phôi thép sản xuất thép xây dựng trong nước song trong năm 2015 có đến gần 2 triệu tấn phôi thép nhập khẩu vào Việt Nam (trong đó có khoảng 1,4 triệu tấn từ Trung Quốc, phần còn lại chủ yếu từ Nhật Bản), tăng khoảng 300% so với năm 2014 (600 nghìn tấn).
Theo Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, các loại phôi thép nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam chỉ phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu 2÷5% (tùy theo hàm lượng các bon) nên trong thời gian qua nhiều nhà máy cán thép trong nước thay vì sử dụng phôi thép trong nước đã nhập khẩu các loại phôi thép có chất lượng cao từ Nhật Bản.
Hiện nay, trong nước không có cam kết thuế nhập khẩu các loại phôi từ Trung Quốc nên phôi thép nhập khẩu từ Trung Quốc thực hiện theo Biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế với thuế suất 9%.
Thị trường ngành thép nội địa Trung Quốc đã ở trạng thái cung vượt quá cầu. Theo thống kê của Hiệp hội thép thế giới, sản lượng thép sản xuất tại Trung Quốc năm 2015 ước đạt hơn 800 triệu tấn. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu giảm tốc, tiêu thụ thép tại thị trường nội địa Trung Quốc sụt giảm mạnh, lượng thép dư thừa tại Trung Quốc có thể lên đến hàng trăm triệu tấn buộc các nhà sản xuất thép Trung Quốc phải tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu để giảm hàng tồn kho và duy trì sản xuất.
Do vậy, các doanh nghiệp cán thép trong nước đã nhập khẩu một lượng lớn từ Trung Quốc khiến cho lượng phôi thép và thép nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2015 một cách đột biến.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |