37
phẩm có thành phần PBDE trong thành phố Hồ
Chí Minh.
Tại nội thành thành phố Hồ Chí Minh, PBDE
tồn lưu ở mức độ đáng kể. Nồng độ tổng PBDE
trong trầm tích nằm trong khoảng từ 54,5 –
119,0 ng/g (hình 4).
Hình 4. Nồng độ tổng PBDE trong trầm tích ở
nội thành thành phố Hồ Chí Minh
Đáng chú ý nhất là ở điểm SW2, tại đó nồng
độ PBDE tổng cao hơn từ 1,4 đến 2,2 lần so với
các điểm xung quanh. Xét về khoảng cách, SW2
nằm không quá xa các điểm còn lại. Tuy nhiên
đó là điểm trực tiếp tiếp nhận của một số nguồn
thải từ hoạt động sinh hoạt, công nghiệp. Đó có
thể là nguyên nhân chính dẫn đến nồng độ
PBDE tổng tích tụ tại SW2 cao hơn.
Ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, nồng độ
PBDE tổng nằm trong khoảng từ <0,02 – 10,63
ng/g (hình 5).
Số liệu phân tích thu được trong hình 4 và
hình 5 cho thấy, nồng độ PBDE tổng ở nội
thành cao hơn hẳn so với ngoại thành. Tồn dư
PBDE tại điểm SW2 gấp 11,2 lần so với điểm
SUB4 (điểm tồn dư cao nhất tại mỗi khu vực).
Điều này là phù hợp với thực tế do trong nội
thành, dân cư tập trung đông hơn, khả năng
dùng nhiều sản phẩm chứa PBDE cao hơn, dẫn
đến trật tự trên.
Hình 5. Nồng độ PBDE tổng trong trầm tích ở
ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
Tại cửa sông Sài Gòn – Đồng Nai, nồng độ
tổng các chất trong họ PBDE ở các mẫu EST1
và EST2 đều <0,02 ng/g trong khi ở mẫu EST3
là 0,065 ng/g (mẫu EST3 nhỏ hơn 1830 lần so
với mẫu SW2). Đây là các điểm tiếp nhận cuối
nguồn, trước khi đi vào biển. Trật tự tồn lưu
PBDE trong trầm tích giảm dần theo dòng chảy
từ khu vực nội thành, đến ngoại thành và cuối
cùng là cửa sông. Điều này là hoàn toàn phù
hợp với thực tế và qui luật.
Mức độ tồn dư PBDE trong trầm tích tại
thành phố Hồ Chí Minh cũng tương đương với
một số nơi trên thế giới (bảng 3).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: