TÌm hiểu về luật biển việt nam phần I nguồn gốc củA luật biển việt nam


Phần IV CÁC VÙNG BIỂN, THỀM LỤC ĐỊA THUỘC CHỦ QUYỀN, QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM



tải về 185.68 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích185.68 Kb.
#13472
1   2   3

Phần IV

CÁC VÙNG BIỂN, THỀM LỤC ĐỊA THUỘC CHỦ QUYỀN, QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM:

ĐƯỜNG CƠ SỞ, NỘI THỦY, LÃNH HẢI

Là công cụ pháp lý để quản lý Nhà nước về biển, mối quan hệ đầu tiên và rất quan trọng mà Luật Biển cần điều chỉnh là việc xác định cụ thể, rõ ràng phạm vi không gian của các vùng biển và thềm lục địa với danh nghĩa là phạm vi áp dụng của Luật Biển.

Các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia là bộ phận cấu thành, không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia ven biển, là môi trường sống và gắn liền với những lợi ích chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của quốc gia ven biển. Các vùng biển và thềm lục địa là môi trường sống, là nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia ven biển.

Đồng thời, chúng còn liên quan đến các vùng biển của các quốc gia liền kề hay đối diện; liên quan đến biển cả nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Chính vì vậy mà việc xác định phạm vi áp dụng của Luật Biển là nội dung đầu tiên, không thể thiếu được của Luật Biển; đòi hỏi phải được xác định một cách cụ thể, rõ ràng và đầy đủ.





Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.


Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được xác lập như thế nào?

Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (gọi tắt là đường cơ sở) là căn cứ để xác định chiều rộng và giới hạn phạm vi của lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế (thường gọi là vùng đặc quyền kinh tế), thềm lục địa. Có hai phương pháp để xác lập hệ thống đường cơ sở: Đường cơ sở thẳng và đường cơ sở thông thường.

Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, đã quy định phương pháp thiết lập đường cơ sở như sau:

1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu hay lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn theo ngấn nước triều thấp nhất nhô ra xa nhất và ngay cả trong trường hợp về sau, ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.

3. Tuyến đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn liền với đất liền đủ đến mức được đặt dưới chế độ nội thủy.

4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.

5. Trong trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.

6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền về kinh tế.

Điều 8, Luật Biển Việt Nam quy định: "Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn".

Theo quy định này thì Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12/11/1982 vẫn có hiệu lực. Theo đó, "đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường thẳng gãy khúc nối từ điểm A0 (nằm trên đường thẳng nối đảo Thổ Chu của Việt Nam đến đảo Polo Wai của Cam-pu-chia) đến điểm A11 (đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị) có tọa độ ghi trong phụ lục kèm theo Tuyên bố này". Thực hiện Điều 8 của Luật Biển Việt Nam, thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục công bố bổ sung một số đoạn đường cơ sở còn chưa hoàn chỉnh.

Nội thủy của quốc gia ven biển

Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định: "Các vùng nước ở phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là nội thủy của quốc gia ven biển" (Điều 8). Theo định nghĩa này, nội thủy bao gồm cửa sông, vũng, vịnh, cảng biển và vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển; vùng nước lịch sử cũng theo chế độ nội thủy. Nội thủy được coi như là bộ phận lãnh thổ trên đất liền của quốc gia ven biển.

Điều đáng lưu ý là khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp mà gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thuỷ thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.

Điều 9 của Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Điều 10 xác định chế độ pháp lý của nội thủy: Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như lãnh thổ đất liền.



Lãnh hải và chế độ pháp lý của lãnh hải

Trước hết, chúng ta nên thống nhất cách gọi để chỉ vùng biển quan trọng này sao cho thống nhất và phản ánh đúng bản chất pháp lý của nó: "Hải phận", "vùng biển " hay "lãnh hải "? Cho đến nay vẫn còn không ít người sử dụng một cách tùy tiện các tên gọi này. Theo Luật Biển quốc tế hiện đại, "vùng nước lãnh thổ" được gọi là "lãnh hải" (tiếng Anh: Territorial Sea, tiếng Pháp: Mer territoriale), không phải là "hải phận" hay "vùng biển" chung chung. Nó là một vùng biển ven bờ nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ đất liền hoặc nội thủy của quốc gia ven biển, có một bề rộng nhất định được đo tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển đó

Đối với quốc gia quần đảo, lãnh hải nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ và vùng nước quần đảo của quốc gia quần đảo đó. Đối với các đảo riêng lẻ hay nằm trong một quần đảo không phải là quốc gia quần đảo, nếu đáp ứng đủ tiêu chuẩn được quy định tại Điều 121 Công ước cua LHQ về Luật Biển năm 1982, thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển, nhưng nằm ngoài phạm vi lãnh hải của quốc gia này, thì lãnh hải của từng đảo này cũng được xác định như trên.

Chiều rộng lãnh hải do quốc gia ven biển tự xác định tính từ đường cơ sở theo đúng các tiêu chuẩn chung do Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định. Khi gọi "vùng biển Việt Nam", "hải phận Việt Nam", ta hiểu rằng đó là tên gọi chung cho cả nội thủy, lãnh hải. vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Khi gọi "lãnh hải Việt Nam", ta hiểu rằng đó là tên gọi của một vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

Về chiều rộng lãnh hải: Điều 3 Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định: "Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước". Điều 11 Luật Biển Việt Nam khẳng định "Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam".

Về chế độ pháp lý của lãnh hải: Điều 12 Luật Biển Việt Nam cũng quy định rõ chế độ pháp lý lãnh hải Việt Nam như sau:

1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.

2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
Phần V

CÁC VÙNG BIỂN, THỀM LỤC ĐỊA THUỘC CHỦ QUYỀN, QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM:

VÙNG TIẾP GIÁP LÃNH HẢI VÀ THỀM LỤC ĐỊA
Vùng tiếp giáp lãnh hải, phạm vi và chế độ pháp lý

Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 đã quy định rằng: Một vùng biển ở ngoài và tiếp liền với lãnh hải gọi là vùng tiếp giáp lãnh hải. Vùng tiếp giáp lãnh hải không thể mở rộng quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Như vậy vùng tiếp giáp lãnh hải theo định nghĩa của Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 có chiều rộng tối đa là 12 hải lý.

Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền tài phán trong việc ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư xảy ra trên lãnh thổ hay lãnh hải của mình, có quyền tài phán trong việc trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên, xảy ra trên lãnh thổ hay lãnh hải của mình.

Ngoài ra, Điều 303 của Công ước còn mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ, theo đó, việc lấy các hiện vật từ đáy biển trong vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển, sẽ được coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.

Điều 13 Luật Biển Việt Nam quy định: "Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài lãnh hải".

Điều 14 quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam như sau:

1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 của Luật này đối với vùng tiếp giáp lãnh hải.

2. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.


Thềm lục địa - phạm vi và chế độ pháp lý

Khái niệm thềm lục địa xuất hiện trong khoa học pháp lý quốc tế là kết quả của thành tựu khoa học kỹ thuật biển từ hơn nửa thế kỷ đến nay. Kết quả cho phép con người có khả năng khám phá được bí mật của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Chính vì vậy đã thôi thúc nhân loại tìm mọi cách làm chủ và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở đó để phục vụ cho đời sống và phát triển trong hoàn cảnh khó khăn do bùng nổ dân số và tài nguyên trên đất liền bị khai thác cạn kiệt.

Năm 1942, lần đầu tiên trong lịch sử, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong vịnh Pariat nằm ngoài giới hạn lãnh hải mà trước đó luôn được coi là bộ phận của biển cả (biển quốc tế, biển công), đã được hai nước Anh và Venezuela phân chia cùng với sự thừa nhận các quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia đối với vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển tương ứng.

Năm 1945, Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Harry Truman về "Chính sách của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển" đã thừa nhận thềm lục địa là sự mở rộng lãnh thổ đất liền của quốc gia ven biển nên thuộc quyền của quốc gia đó. Bắt đầu từ thời điểm này, học thuyết về thềm lục địa bắt đầu phát triển và đi vào cuộc sống của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên đến năm 1958, người ta mới thành công trong việc pháp điển hóa khái niệm thềm lục địa trong luật biển quốc tế bằng việc thông qua Công ước Genève về thềm lục địa cùng với 3 công ước khác.

Điều 1 Công ước Genève về thềm lục địa đã định nghĩa thềm lục địa pháp lý như sau: "...thuật ngữ "Thềm lục địa" được sử dụng để chỉ (a) đáy và lòng đất dưới đáy của khu vực ngầm dưới biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200m nước; hoặc vượt ra ngoài giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên của các khu vực ngầm dưới biển đó; (b) để chỉ đáy và lòng đất dưới đáy biển của khu vực ngầm dưới biển tương tự tiếp giáp với bờ của đảo".

Điều 76 Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 định nghĩa thềm lục địa pháp lý như sau: "Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn".

Đối với các đảo xa bờ của quốc gia ven biển nếu thích hợp cho con người sinh sống và có đời sống kinh tế riêng thì mới có vùng thềm lục địa riêng của các đảo đó. Tuy vậy, các khoản tiếp theo trong Điều 76 của Công ước cũng quy định trong trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý, như đã nói ở trên, thì quốc gia ven biển này có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước và phù hợp với các kiến nghị của Ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II của Công ước.

Chế độ pháp lý của thềm lục địa được thể hiện qua các quyền của quốc gia ven biển. Đó là việc thực hiện quyền chủ quyền thông qua việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa. Ngoài ra, quốc gia ven biển còn có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển trên thềm lục địa của mình; quyền đối với các đảo nhân tạo các thiết bị, công trình trên thềm lục địa; quyền bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Các quốc gia khác có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa (Điều 79) và cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.

Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là quan trọng nhất, thể hiện ở chỗ: Đây là quyền chủ quyền của quốc gia ven biển (không phải chủ quyền) trên chính thềm lục địa của mình. Quyền này có tính chất đặc quyền, nghĩa là "trường hợp quốc gia ven biển không thăm dò hoặc không khai thác tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa, thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thoả thuận của quốc gia đó" (khoản 2, Điều 77). Quyền này tồn tại đương nhiên và ngay từ đầu, quốc gia ven biển không cần phải chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa và không cần phải tuyên bố.

Phù hợp với các quy định của Công ước, Điều 17 Luật Biển Việt Nam năm 2012 quy định: Thềm lục địa Việt Nam là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.

Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500m.

Điều 18 Luật Biển Việt Nam quy định rõ chế độ pháp lý thềm lục địa Việt Nam như sau:

1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.

2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm tục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.

3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.

4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
Phần VI

CÁC VÙNG BIỂN, THỀM LỤC ĐỊA THUỘC CHỦ QUYỀN, QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM:

BIỂN CẢ, VÙNG
Biển cả, Vùng trong Luật Biển Việt Nam

Điều 86, Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 đã định nghĩa biển cả là những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo. Điều này không hạn chế về bất kỳ phương diện nào các quyền tự do mà tất cả các quốc gia được hưởng trong vùng đặc quyền kinh tế. Luật Biển Việt Nam gọi biển cả là biển quốc tế.

Vùng, theo định nghĩa của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, gồm đáy và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển. Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại.

Đối tượng điều chỉnh đầu tiên của Luật Biển

Việc xác định phạm vi điều chỉnh, áp dụng của Luật Biển là nội dung quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở nội dung này thì chưa đủ, thậm chí sẽ mất hết ý nghĩa thực tế nếu Luật Biển không xác định, điều chỉnh các mối quan hệ tồn tại thật đa dạng và phức tạp trong phạm vi không gian đó. Vì vậy, tiếp theo nội dung xác định phạm vi điều chỉnh nói trên là quy định về đối tượng điều chỉnh của Luật Biển.

Đối tượng trước hết mà Luật Biển cần điều chỉnh nhằm bảo vệ, quản lý là nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường biển. Đây là đối tượng luôn luôn được quan tâm không những chỉ ở cấp độ quốc gia, mà còn ở cấp độ khu vực và thế giới. Bởi vì, thật là vô nghĩa khi người ta chỉ quan tâm đến phạm vi không gian mà quên đi trong phạm vi đó có cái gì cần bảo vệ, gìn giữ, quản lý, tái tạo. Quản lý và bảo vệ tài nguyên biển (sinh vật và không sinh vật), môi trường, khoa học, kỹ thuật và dịch vụ biển trong lịch sử của các nền kinh tế là nguồn bổ sung quan trọng bậc nhất của kho báu.

Việc khai thác như thế nào đối với di sản chung của nhân loại, bao gồm cả việc xây dựng hạ tầng cơ sở, có thể nuôi dưỡng tái tạo chúng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế. Tài nguyên sinh vật và không sinh vật, môi trường biển là kho báu, mối quan tâm của toàn nhân loại; là bản chất của mọi quan hệ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...; đồng thời cũng là nguồn gốc của những tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia đã và đang diễn ra.

Rõ ràng, để khai thác lâu bền không chỉ là khai thác hợp lý mà còn biết bảo vệ, tái tạo, duy trì tính ổn định, trong sạch của môi trường biển vì lợi ích sống còn của nhân loại.

Địa vị pháp lý của các loại phương tiện hoạt động trong các vùng biển

Phương tiện hoạt động trong các vùng biển và thềm lục địa là đối tượng điều chỉnh của Luật Biển. Tàu chiến và tàu Nhà nước được dùng vào các mục đích không thương mại là một trong số đối tượng điều chỉnh của Luật Biển.

Theo Công ước La Haye (tiếng Anh: The Hague Convention) năm 1907  và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì tàu chiến là tàu thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của tàu quân sự thuộc quốc tịch nước đó, do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong tài liệu tương đương và đoàn thủy thủ phải tuân thủ điều lệnh, kỷ luật quân sự.

Công ước La Haye năm 1907 cho phép tàu quân sự được cải trang trong chiến tranh với điều kiện là không tham chiến khi gặp tàu của một nước trung lập và khi bước vào trận chiến nếu đang dùng cờ để cải trang thì phải hạ cờ cải trang xuống và kéo cờ của nước mình lên. Việc cải trang của tàu quân sự không được phép áp dụng trong thời bình.

Tàu chiến và tàu Nhà nước được dùng vào các mục đích không thương mại được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn khi nó hoạt động hợp pháp trên các vùng biển. Nước sở tại chỉ được quyền trục xuất khi xét thấy chiếc tàu đó đã vi phạm chủ quyền và yêu cầu Chính phủ có tàu quân sự đó trừng phạt những nhân viên phạm pháp thông qua con đường ngoại giao.

Tuy nhiên, quyền miễn trừ này không phải là vô hạn, song song với các quyền đó còn có những nghĩa vụ mà tàu quân sự phải thực hiện khi hoạt động trên các vùng biển khác nhau. Chẳng hạn, khi hoạt động ở biển cả, tàu chiến được quyền khám xét tất cả các tàu thuyền khác khi có căn cứ chắc chắn để cho rằng các tàu thuyền này đã thực hiện hành vi cướp biển, buôn bán trái phép, chuyên chở nô lệ, ma tuý, các chất độc hại, đang truyền tin tức không đúng quy định quốc tế, tàu thuyền không có quốc tịch, có treo cờ hoặc không treo cờ nhưng trên thực tế có cùng quốc tịch với tàu quân sự đang làm nhiệm vụ khám xét.

Ngược lại, nếu không chứng minh được tàu thuyền bị khám đã phạm một trong những tội nói trên thì tàu tiến hành khám xét phải bồi thường thiệt hại do việc khám xét gây ra.

Ở vùng đặc quyền kinh tế, tàu chiến cũng có những quyền và nghĩa vụ như ở biển cả. Riêng tàu chiến của nước chủ nhà còn có quyền khám xét, bắt giữ tàu thuyền nước ngoài hoạt động vi phạm các quy định của nước mình. Ở vùng tiếp giáp lãnh hải, tàu chiến của nước chủ nhà, ngoài các quyền lợi và nghĩa vụ đã đề cập ở trong biển cả và vùng đặc quyền kinh tế, còn có nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác để làm nhiệm vụ ngăn ngừa và trừng trị mọi vi phạm quy định về hải quan, tài chính, nhập cư, vệ sinh, y tế của nước mình.

Tàu chiến phải có nghĩa vụ tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến quyền đi qua không gây hại của tàu chiến trong lãnh hải. Nếu tàu chiến khi đi qua không gây hại trong lãnh hải của một quốc gia ven biển mà bất chấp luật lệ quy định đã được thông báo thì quốc gia ven biển có quyền yêu cầu tàu chiến đó phải rời khỏi lãnh hải của mình ngay lập tức.

Quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của nhà nước dùng vào mục đích không thương mại vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 hay quy tắc khác của luật pháp quốc tế.


Phần VII

QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA TÀU BUÔN
Tàu buôn gồm nhiều thành phần, nhiều loại; do đó, địa vị pháp lý của chúng được pháp luật quốc tế quy định cũng khác nhau. Để phân biệt được những điểm khác nhau này, người ta phân chia tàu buôn thành 2 loại:

- Tàu buôn của tư nhân.

- Tàu buôn của Nhà nước.

Quyền và nghĩa vụ của tàu buôn được cụ thể hóa tùy thuộc từng vùng biển.

Theo thông lệ quốc tế, khi tàu thuyền nước ngoài muốn qua lại nội thủy của một quốc gia ven biển, thì dù là loại nào cũng nhất thiết phải xin phép và được phép trước của nước ven biển và phải hoạt động đúng tuyến quy định.

Khi được phép vào nội thủy để đến cảng của một nước, các tàu buôn phải đến một địa điểm quy định để làm thủ tục nhập cảnh. Sau khi làm thủ tục xong thì chiếc tàu đó sẽ được tàu hoa tiêu dẫn vào cảng. Khi vào nội thủy của một nước, tất cả các phương tiện thông tin liên lạc, quan sát kỹ thuật điện tử đều phải niêm phong lại, mọi liên lạc của con tàu về nước hay đến một địa điểm nào đó đều phải qua trung tâm thông tin liên lạc của cảng sở tại.

Mọi hoạt động của con tàu như cặp mạn, tiếp xúc với các tàu thuyền khác, đưa người và khí tài đo đạc khảo sát, thăm dò những yếu tố khí tượng thuỷ văn, độ sâu, chất đáy, chụp ảnh quay phim, vẽ hoặc ghi chép những thiết bị ở cảng, những thiết bị quân sự, cơ sở kinh tế, cơ sở nghiên cứu khoa học trên đường đi hoặc ở khu vực cảng, thậm chí cả việc nhổ neo di chuyển vị trí trong cảng cũng đều phải có sự đồng ý của nước sở tại, nếu không sẽ bị coi là vi phạm pháp luật của nước ven biển và sẽ tùy theo mức độ mà sẽ bị xử lý theo luật pháp củanướcnày.
Tàu buôn khi hoạt động trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia ven biển, nếu vi phạm thì sẽ bị xử lý theo luật của các nước ven biển đó. Riêng các vụ phạm pháp về hình sự xảy ra trên tàu buôn nước ngoài thì nước ven biển có quyền xét xử không? Về nguyên tắc, mọi phạm pháp hình sự xảy ra trên con tàu thì do luật pháp của nước có con tàu đó điều chỉnh, nước ven biển có thể có quyền xét xử các vi phạm nói trên trong những trường hợp sau đây:

- Phạm pháp hình sự có liên quan đến những người mang quốc tịch của nước ven biển;

- Phạm pháp hình sự xảy ra trên lãnh thổ nước ven biển có liên quan đến nhân viên của con tàu;

- Phạm pháp hình sự xảy ra trên lãnh thổ nước ven biển có liên quan đến những người mang quốc tịch nước ven biển chạy trốn lên tàu nước ngoài.

Đối với phạm pháp hình sự xảy ra trên con tàu chỉ liên quan đến nội bộ của con tàu, nước ven biển chỉ tiến hành xét xử với điều kiện:

- Khi thuyền trưởng hoặc lãnh sự của nước mà con tàu đó mang quốc tịch yêu cầu;

- Khi cần phải áp dụng biện pháp trừng trị các tội buôn lậu các mặt hàng cấm như ma tuý, vũ khí, nô lệ;

- Khi phạm pháp có tác động làm rối loạn trật tự trị an của nước ven biển;

- Khi hậu quả của vụ phạm pháp có ảnh hưởng tới chủ quyền và các quyền của nước ven biển ở trên các vùng biển của mình.

Điều 27 Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định: "Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc xét hỏi sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ trường hợp sau đây:

a. Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển.

b. Nếu vụ vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải.

c. Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương;

d. Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma tuý hay các chất kích thích".

Về quyền tài phán dân sự đối với các tàu buôn, Điều 28 Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định: "Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó"; "Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp báo đảm về mặt dân sự đối với con tàu, nếu không phải vì nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia ven biển".

Tất nhiên, quy định này "không đụng chạm đến các quyền của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với một tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy".



tải về 185.68 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương